Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.28 KB, 7 trang )

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Lê Anh Tuấn, Nguyễn Huyền Trang*
Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
GVHD: PGS.TS. Bành Quốc Tuấn

TĨM TẮT
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), một thách thức, một rào cản đáng quan ngại cho sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế mang xu hướng hội nhập. Trong một
môi trường cạnh tranh về kinh tế, địi hỏi chúng ta cần có những cái nhìn tổng qt về vấn đề này,
đồng thời cũng có sự thay đổi sao cho phù hợp với sự biến động chung của thế giới và trước hết là
của đất nước. Ở Việt Nam chúng ta, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề này kể từ thời
điểm Bộ luật Dân sự được ban hành năm 1995 trong đó sở hữu trí tuệ (SHTT) đã là một chương
trong Bộ luật Dân sự; với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội; đặc biệt kể từ khi Đảng và
Nhà nước ta xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, năm 2005 Luật SHTT đã được tách ra thành đạo luật riêng. Mới đây, ngày
22/8/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược SHTT đến
năm 2030, cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của lĩnh vực SHTT.
Phát triển hệ thống SHTT phải đồng bộ với tất cả các giai đoạn: sáng tạo, xác lập quyền, khai thác
và bảo vệ quyền SHTT. Trong đó, việc khai thác và bảo vệ quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói
riêng đang là vấn đề ngày càng ‚nóng‛, mang tính thời sự khơng chỉ ở Việt Nam mà là vấn đề quốc
tế. Trong phạm vi bài viết này nhóm tác giả phân tích về: Thực trạng và nguyên nhân xâm phạm
quyền SHCN; Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHCN và
một số kiến nghị về vấn đề này.
Từ khóa: Bảo vệ, bồi thường thiệt hại, sở hữu cơng nghiệp, sở hữu trí tuệ, xâm phạm.

1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, vấn đề bảo vệ quyền SHTT trở nên đặc biệt
quan trọng và trở thành mối quan tâm hàng đầu trong quan hệ kinh tế quốc tế. [Từ khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vấn đề bảo vệ quyền SHTT,
chống sản xuất, bn bán hàng hóa xâm phạm quyền SHTT ngày càng được quan tâm hơn. Tuy


nhiên, thực tế cũng cho thấy, tình trạng xâm phạm SHTT ở nước ta hiện nay vẫn khá phổ biến và
ngày càng phức tạp, trong khi đó các biện pháp phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm
phạm này chưa thực sự phát huy hiệu quả] 6… Các hành vi xâm phạm quyền SHCN được thực hiện
bằng nhiều phương pháp thủ đoạn mới như sử dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện
đại,... làm cho người tiêu dùng và các cơ quan quản lý khó phát hiện. Có thể thấy, SHCN là quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc sử dụng, chuyển dịch các đối tượng SHCN. Như vậy,
1592


người nào sử dụng các đối tượng SHCN của người khác đang trong thời gian bảo hộ mà không xin
phép chủ sở hữu các đối tượng này thì bị coi là xâm phạm quyền SHCN (trừ các trường hợp có quy
định riêng) và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật vì vậy bồi
thường thiệt hại là một biện pháp dân sự quan trọng và hữu hiệu được áp dụng để xử lý các hành
vi xâm phạm quyền SHCN.
Mặc dù bồi thường thiệt hại là một biện pháp hữu hiệu và phù hợp trong việc xử lý các hành vi xâm
phạm quyền SHCN. Tuy nhiên, biện pháp này rất ít được áp dụng trong thực tế. Lần đầu tiên, những
quy định riêng về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT được quy định trong Luật sở hữu trí
tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019). Cịn trước đó, quy định về bồi thường thiệt hại liên quan
đến SHTT được áp dụng theo Bộ luật dân sự. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quy định của pháp
luật Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019) Việt Nam đối với vấn đề bồi thường thiệt
hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT cũng như việc áp dụng, thực hiện các quy định này trong
thực tiễn đều rất cần thiết.

2 THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
2.1 Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học cơng nghệ, tình trạng xâm phạm quyền SHTT
nói chung và quyền SHCN nói riêng vẫn diễn ra ngày càng phổ biến và có tính chất ngày càng tinh
vi. Thực trạng này không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà nó đã trở thành vấn nạn của cả nền kinh tế thế
giới. Ở Việt Nam, thông qua quy định pháp luật, chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết
thực trạng này. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn bị coi là quốc gia có hệ thống bảo vệ quyền SHTT

chưa tốt, hoạt động thực thi quyền SHTT còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả.
Sau khi Luật Sở hữu Trí tuệ được ban hành năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), cùng với các
văn bản quy phạm pháp luật xây dựng và điều chỉnh hành lang pháp lý liên quan đến lĩnh vực
SHTT, nhìn chung hoạt động thương mại đặc biệt các hoạt động kinh doanh có liên quan đến lĩnh
vực SHTT đã có những bước chuyển mình tích cực. Hướng đi này đem đến sự an tâm đối với hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc đồng thời cũng là ‚bước đệm‛
nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại với các quốc gia, những tập đoàn kinh tế trong khu vực cũng
như toàn thế giới. Cụ thể, trong giai đoạn từ 01/01/2006 đến 31/12/2016, theo thống kê, Cục Sở hữu
trí tuệ đã tiếp nhận 403.914 đơn đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng quyền SHCN, cấp
231.765 văn bằng bảo hộ đối với các đối tượng quyền SHCN, tiếp nhận 11.349 đơn khiếu nại liên
quan đến hoạt động xác lập quyền SHCN và đã tiến hành xử lý 6.475 đơn. Với nỗ lực chung của
các cơ quan thực thi quyền SHTT, hoạt động thực thi bảo vệ quyền SHTT ở nước ta đã thu được một
số kết quả tương đối khả quan. Cũng trong giai đoạn 10 năm thi hành Luật SHTT, các cơ quan Quản
lý thị trường trong nước đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với 179.859 vụ có liên quan
đến hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHTT, với tổng số tiền xử phạt là 591.720.045 đồng. Tranh tra
Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành 386 vụ thanh tra trong lĩnh vực SHCN, xử phạt hành chính
đối với 269 vụ, với mức phạt là 7.700.000.000 đồng. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ
01/07/2006 đến 30/09/2016, các TAND đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 168 vụ, trong đó có 158 vụ
tranh chấp về quyền tác giả, 10 vụ tranh chấp về quyền SHCN. Tại Hội nghị tổng kết 10 năm thi
1593


hành Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009,2019), Ông Trần Việt Thanh, Thứ trưởng Bộ
Khoa học và Công nghệ đánh giá: [‚Sau 10 năm thực hiện, Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng

dẫn thi hành đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt
động sáng tạo, khai thác và bảo vệ các tài sản trí tuệ. Đồng thời, Luật đã khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh, tăng tính hấp dẫn đối với các chủ thể nước ngoài để thu hút đầu tư và chuyển giao
công nghệ tại Việt Nam‛] 1.
Thực tế trong những năm gần đây cho thấy, Thanh tra Bộ KH&CN chịu sức ép rất lớn về các việc

xâm phạm quyền SHTT mà các cơ quan chức năng, thậm chí các lực lượng chức năng (QLTT, CA,…)
ở Trung ương và địa phương hầu như chưa có khả nắm bắt và xử lý các vi phạm về SHTT như: xâm
phạm về sáng chế, tên miền, tên doanh nghiệp và trên môi trường mạng ( INTERNET). [Năm 2018,
Thanh tra Bộ đã thanh tra, xử lý đối với 40 đối tượng vi phạm về SHCN, tổng số tiền phạt là 366,2
triệu đồng. Tính đến 09 tháng đầu năm 2019, số lượng đơn Thanh tra Bộ KH&CN đã tiếp nhận
khoảng hơn 90 đơn trong khi đó đã giải quyết được 72 đơn đề nghị xử lý vi phạm về SHCN (gấp đôi
số lượng đơn giải quyết của năm ngối), trong đó đã tiến hành 46 cuộc thanh tra, xử phạt vi phạm
hành chính 20 đối tượng vi phạm với tổng số tiền phạt 730,4 triệu đồng].2
Có thể thấy, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế nước nhà, chúng ta đồng thời cũng
phải đối mặt với sự gia tăng đáng kể đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN với mức độ và tính
chất ngày càng chuyên nghiệp hơn. Đây chắc chắn sẽ là một thách thức, một mối đe dọa lớn cho
nền kinh tế nước nhà trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2 Nguyên nhân xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Bên cạnh một nền kinh tế phát triển và có nhiều thay đổi to lớn khi bước vào Thời đại 4.0, chúng ta
đồng thời sẽ phải đối diện với những hình thức, hành vi vi phạm pháp luật nói chung và xâm phạm
quyền SHCN nói riêng một cách vô cùng tinh vi và chuyên nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của
thời đại đem đến cho chúng ta nhiều cơ hội, song cũng để lại cho chúng ta khơng ít những thách
thức địi hỏi chúng ta phải có sự thay đổi để phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn. Xâm phạm
quyền SHCN cũng không nằm ngồi quy luật chung đó, với tình hình gia tăng về cả số lượng và
mức độ vi phạm có thể thấy vấn nạn xâm phạm quyền SHCN tồn tại chủ yếu dựa trên những
nguyên nhân sau:
– Thực tế hiện nay cho thấy, các hành vi sản xuất, nhập khẩu, tiếp thị, mua bán các hàng hóa
giả mạo, hàng hóa xâm phạm quyền SHCN tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, diễn
biến phức tạp. Các mặt hàng giả mạo, hàng hóa xâm phạm quyền SHTT ngày càng đa dạng
về chủng loại và tinh vi về hình thức. Trong khi nhận thức của người tiêu dùng chưa thật sự
đầy đủ, nên việc phân biệt hàng thật – hàng giả đang trở nên khó khăn đối với người tiêu
dùng. Các lực lượng chức năng chưa đủ mạnh ngang tầm nhiệm vụ được giao trong công
tác đấu tranh bảo vệ quyền SHTT. Hơn nữa, phương thức sản xuất, nhập khẩu, tiếp thị, mua
bán các mặt hàng vi phạm về SHCN ngày càng trở nên tinh vi, có tổ chức liên tỉnh, liên vùng,
liên quốc gia và đa dạng, phong phú về hình thức, chủng loại nên rất khó phát hiện,xử lý đối

với các cơ quan thực thi.
1594


– [Theo Bộ Khoa học & Công nghệ, trong những năm gần đây, các đối tượng vi phạm có xu
hướng chuyển dịch từ tiếp thị, phân phối theo phương thức truyền thống sang hình thức
thương mại điện tử (thơng qua các trang bán hàng trực tuyến, website bán hàng và đặc biệt
là các trang mạng xã hội Facebook, Zalo)]9. Vi phạm trên internet là ‚khơng có biên giới,
khơng có rào cản địa lý‛. Do đó, việc phát hiện và xử lý các đối tượng vi phạm trở nên hết sức
khó khăn, địi hỏi đội ngũ cơng chức, thanh tra viên làm công tác, thanh tra, kiểm tra xử lý vi
phạm phải không ngừng được tăng cường về số lượng, nâng cao về nghiệp vụ, trình độ
chun mơn, kỹ năng và kinh nghiệm cũng như đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, vào cuộc đồng
bộ, thống nhất của liên ngành từ Trung ương đến địa phương.

3 MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Bất cập về vấn đề xác định hành vi gây thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay, [theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009,2019), mới chỉ quy định
các hành vi xâm phạm quyền SHTT với hành vi trực tiếp]5, mà chưa quy định hành vi gián tiếp xâm
phạm quyền SHTT và gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền là hành vi vi phạm pháp luật, trong khi
đó, thực tế có nhiều hành vi gián tiếp vi phạm quyền SHTT như: hành vi xúi giục người khác xâm
phạm quyền SHTT; trợ giúp cho người khác xâm phạm nhãn hiệu; bán hàng hóa cho người mua
mà có lý do để biết rằng người mua sẽ sử dụng hàng hóa đó vào việc trực tiếp xâm phạm nhãn
hiệu. Tham khảo pháp luật về SHTT của một số nước như Mỹ, Nhật, Anh, ngoài việc quy định khá rõ
hành vi trái pháp luật trực tiếp hay hành vi gián tiếp xâm phạm đến quyền SHTT, thì cịn định chi tiết
và cụ thể việc xử lý tương xứng với hành vi trái pháp luật trực tiếp hay hành vi gián tiếp xâm phạm
quyền SHTT. Cụ thể:
[Theo Luật Sáng chế của Mỹ, những hành vi sau đây được coi là gián tiếp xâm hại đến quyền SHTT:
i) Xúi giục vi phạm; ii) Gián tiếp tham gia vào hành vi vi phạm (hành vi chào bán, bán, nhập khẩu
các phương tiện, công cụ, thiết bị được sử dụng chủ yếu để tạo ra, sử dụng chủ yếu trong sáng chế

được bảo hộ); iii) Nhập khẩu vào Mỹ, bán, chào bán hoặc sử dụng tại Mỹ những sản phẩm được
làm ra bởi một quy định được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế của Mỹ; iv) Hành vi sản xuất
hoặc cung ứng những bộ phận của sáng chế được bảo hộ để lắp ráp ở nước ngoài].8
Việc quy định về hành vi trái pháp luật gián tiếp xâm hại đến quyền SHTT, không những tạo cơ sở
pháp lý bảo vệ tốt hơn các quyền SHTT, mà cịn góp phần giải quyết về mặt lý luận mối quan hệ
nhân – quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra, cũng như cơ sở xác định trách nhiệm liên đới
bồi thường thiệt hại trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, khi mà trong đó vừa có cả
chủ thể thực hiện hành vi trực tiếp xâm phạm, vừa có chủ thể thực hiện hành vi gián tiếp vi phạm.
Bất cập về thời gian giải quyết kéo dài
[Theo quy định tại Điều 203] 3 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
đối với vụ án dân sự là 04 tháng, đối với các vụ án kinh doanh – thương mại là 02 tháng, kể từ
ngày Tòa án thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có

1595


thể gia hạn nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án dân sự và 01 tháng đối với vụ án kinh doanh
– thương mại.
Thời gian xử lý các vụ việc quá lâu; thủ tục giấy tờ khởi kiện phức tạp, đặc biệt trong trường hợp bên
khởi kiện là doanh nghiệp nước ngoài; các biện pháp ngăn chặn ngay lập tức hành vi xâm phạm
theo biện pháp dân sự rất khó áp dụng và ít hiệu quả. Đặc biệt, năng lực chun mơn về SHTT của
Thẩm phán cịn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, thiếu Tòa chuyên trách về SHTT cũng như
khơng có Thẩm phán chun trách về lĩnh vực này.
Có thể nói, thời gian giải quyết kéo dài là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các chủ thể
quyền SHTT e ngại trong việc khởi kiện u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước các
hành vi xâm phạm.
Bất cập trong việc xác định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp gây ra.
Trước khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 được ban hành, hầu như khơng có văn bản nào quy định về các
căn cứ pháp lý để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHCN. Luật sở hữu trí tuệ

2005 được ban hành đã bổ sung các quy định quan trọng về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm
phạm quyền SHTT (Điều 204 Luật Sở hữu Trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019) và xác định mức
bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng (Điều 205 Luật
Sở hữu Trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019). Về xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền SHCN gây ra lần sửa đổi bổ sung năm 2019 đã bổ sung thêm cách xác định mức bồi
thường thiệt hại theo căn cứ tại Điểm c Khoản 1 Điều 205: ‚Thiệt hại vật chất theo các cách tính khác
do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật‛4, tuy nhiên do tính chất
đặc thù của loại tài sản ‚quyền SHTT‛ nên nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được
thiệt hại hoặc xác định không đầy đủ về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế (có thể nhiều hoặc ít
hơn thiệt hại thực tế xảy ra). Dẫn đến việc xác định mức bồi thường thiệt hại trên thực tế tồn tại
nhiều bất cập. Xuất phát từ đặc trưng của đối tượng quyền SHTT là tính chất vơ hình, việc xác định
thiệt hại chỉ mang tính tương đối nên việc xây dựng những cách thức xác định mức bồi thường thiệt
hại cụ thể sẽ cịn gặp nhiều khó khăn.
Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ hướng dẫn
thực thi Luật SHTT, có hướng dẫn cách tính lợi nhuận bị giảm sút do hành vi vi phạm theo cách ‚so
sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi vi phạm‛. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, việc xác định lợi nhuận bị giảm sút của chủ thể bị xâm phạm không thể đơn giản
chỉ dựa vào phép so sánh thuần túy như vậy. Giả sử, trong thời gian hành vi xâm phạm quyền
SHCN xảy ra, doanh số và lợi nhuận của ngun đơn khơng có sự sụt giảm so với thời gian trước,
thậm chí số lượng bán hàng hay giá bán trên sản phẩm bị vi phạm cũng không giảm (nghĩa là kết
quả của phép so sánh trực tiếp sẽ khơng phù hợp với tình hình thực tế), điều này đôi khi không đủ
để khẳng định rằng nguyên đơn đã không bị mất lợi nhuận trên thực tế, bởi theo lý thuyết kế tốn
thì chúng ta cần xem xét mức độ tăng trưởng hàng năm trong hoạt động kinh doanh của nguyên
đơn và tình hình tăng trưởng của việc thực hiện kế hoạch đó.

1596


Như vậy, để đảm bảo bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho chủ thể bị xâm phạm thì chúng ta cần có
những điều chỉnh về mặt pháp lý sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn.


4 KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Trong những nam gần đây, chúng ta đang tích cực triển khai xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT,
về co bản hệ thống pháp luật này đã đuợc xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế về SHTT và đáp ứng đuợc yêu cầu phát triển kinh tế của đất nuớc trong điều kiện hội nhập
sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế. Tuy đã có nhiều nỗ lực từ phía các cơ quan thực thi quyền SHTT,
nhưng thực tế cho thấy tình trạng xâm phạm quyền SHTT ở nước ta vẫn đang diễn ra ngày càng
phổ biến và phức tạp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể quyền, làm nản lòng các nhà đầu tư, gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, xã hội. Có thể
khẳng định rằng một trong những điểm yếu và thách thức lớn nhất của hệ thống SHTT của nước ta
hiện nay chính là hiệu quả của hoạt động thực thi quyền còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn,
đặc biệt là việc thực thi quyền SHTT bằng biện pháp tư pháp. Vì vậy, để khắc phục những thách
thức và khó khăn hiện nay thì Nhà nước cụ thể là Tổng cục Hải quan (BTC), Cục sở hữu trí tuệ ( Bộ
KHCN), Cục Quản lý thị trường (Bộ TM), Cục cảnh sát kinh tế (Bộ CA)… cần xây dựng một hệ thống
Pháp luật hoàn thiện, đồng bộ, ổn định thực tiễn và toàn diện. Cụ thể, bài báo khoa học xin được
đưa ra một số kiến nghị khác sau đây:

Thứ nhất, củng cố hành lang pháp lý hướng đến chủ thể là đối tượng có hành vi gián tiếp xâm
phạm đến quyền SHCN của chủ thể quyền. Trên cơ sở đó xác định trách nhiệm liên đới bồi thường
thiệt hại trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, khi mà trong đó vừa có cả chủ thể thực
hiện hành vi trực tiếp xâm phạm, vừa có chủ thể thực hiện hành vi gián tiếp vi phạm.

Thứ hai, theo quy định hiện hành thì thủ tục tố tụng dân sự đối với vụ án xâm phạm quyền SHCN
được tiến hành theo trình tự chung là khá phức tạp, kéo dài thời gian. Thông thường một vụ kiện
dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện đến khi được đưa ra xét xử phải mất 4 đến 6 tháng, có trường hợp
phải kéo dài do quá nhiều cấp xét xử, do đó đối với các vụ án về SHCN cần có hướng dẫn hợp lý
các trường hợp như tạm hỗn, tạm đình chỉ… để tránh kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án. Nên
quy định thời gian tối đa để giải quyết vụ kiện dân sự nói chung và SHTT nói riêng, khoảng thời gian
này nên được rút ngắn lại so với khoảng thời gian được quy định như hiện tại.


Thứ ba, theo Thơng tư số 02/2008, Tịa án dựa trên một số căn cứ để ấn định mức bồi thường. [Căn
cứ thứ nhất là hoàn cảnh, động cơ xâm phạm. Mức bồi thường là khác nhau cho trường hợp xâm
phạm do cố ý, do vô ý, do bị khống chế, hoặc do bị lệ thuộc về vật chất, tinh thần, xâm phạm lần
đầu, tái phạm...]7 Với quy định này, yếu tố lỗi đã gián tiếp được đề cập làm căn cứ xác định mức bồi
thường. Tuy nhiên, quy định này cần được quy định cụ thể và trở thành một trong những căn cứ
tăng nặng mức bồi thường thiệt hại. Cụ thể, trong trường hợp bên vi phạm với lỗi cố ý (đã biết về
việc đối tượng SHTT được bảo hộ hợp pháp, chủ thể quyền SHTT đã có thơng báo yêu cầu chấm dứt
hành vi xâm phạm nhưng vẫn tiếp tục thực hiện…) thì có thể chịu mức bồi thường cao hơn so với
thiệt hại thực tế theo các căn cứ tại Khoản 1 Điều 205 Luật SHTT năm 2005 với tính chất là một hình

1597


thức ‚phạt‛. Điều này không đi ngược lại với bản chất của bồi thường là ‚khơi phục lại tình trạng ban
đầu‛, ‚đền bù giá trị bị thiệt hại‛… mà còn trở thành một công cụ hữu hiệu vừa đảm bảo việc bảo
vệ quyền lợi của chủ thể quyền vừa mang tính răn đe ở mức độ nhất định.
Cuối cùng, các cá nhân và tổ chức cần tham gia vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức và
pháp luật về SHCN, nâng cao nhận thức xã hội nói chung và nhận thức của doanh nghiệp nói riêng
để tạo ra văn hóa tơn trọng quyền SHTT, xây dựng mơi trường kinh doanh lành mạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Bộ Khoa học và Công nghệ (2017), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Sở hữu trí tuệ, xem
link tại: />
[2]

Bộ Khoa học và Công nghệ, Thanh tra Bộ, 17/10/2019, Một vài nét cơ bản về thực trạng và
giải pháp về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, xem tại link:

/>
[3]

Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, Khoản 1 Điều 203,Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án

[4]

Luật số 42/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở
hữu trí tuệ, khoản được sửa đổi bổ sung theo quy định tại Khoản 11 Điều 2.

[5]

Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Điều 126, điều 127 và Điều 129, quy định các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ với hành vi trực tiếp.

[6]

Phạm Ngọc Hịa (2019), Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp
dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học Đại học Luật – Đại học Huế.

[7]

Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP, Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền Sở hữu
trí tuệ tại TAND.

[8]

Trịnh Thị Thu Hoài (2017), Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
và hướng hồn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội.


[9]

Vietq.vn, 25/12/2019. Thanh tra Bộ KH&CN vạch mặt chiêu trị vi phạm Sở hữu trí tuệ, xem tại
link: />
1598



×