Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

giao an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.75 KB, 67 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Câu 1: Học thuyết huấn luyện thể thao là môn khoa học như thế nào? Học thuyết huấn luyện thể thao là môn khoa học tổng hợp mới hình thành dựa trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết những kinh nghiệp của công tác huấn luyện, vận dụng những nguyên lý cơ bản của các môn khoa học có liên quan khác nhau để làm rõ các quy luật phổ biến của quá trình huấn luyện, trình bày một cách hệ thống về cách bố trí sắp xếp kế hoạch, tổ chức, cấu trúc phương pháp, nội dung, nguyên tắc, nhiệm vụ, mục đích của huấn luyện thể thao và những yêu cầu đối với huấn luyện viên và vận động viên…. Trong quá trình huấn luyện thể thao tất cả các hoạt động được tiến hành đều nhằm tạo nên những thành tích thể thao tốt nhất, bản chất của các hoạt động đó có tính nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo. Vì vậy con đường cơ bản dẫn đến kỹ lục mới là không ngừng tìm tòi sáng tạo. Song muốn thực hiện được đều đó cần có sự chỉ đạo của lý luận, bởi lẽ trong tất cả các hoạt động mang tính sáng tạo, những giả thuyết đề ra lại không bắt nguồn từ phương pháp cụ thể, mà phải bắt nguồn từ lý luận chính xác về các quy luật khách quan của sự vật đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Học thuyết huấn luyện thể thao phải bắt ngồn từ thực tiễn của huấn luyện thể thao, tìm ra các quy luật khách quan của quá trình huấn luyện, chỉ đạo lý luận cho thực tiễn huấn luyện. Câu 2: Mối quan hệ giữa học thuyết huấn luyện thể thao với lý luận huấn luyện từng môn thể thao và các môn học cơ sở khác? Học thuyết huấn luyện thể thao lấy các môn khoa học có liên quan làm cơ sở khoa học cho môn khoa học của mình, lấy lý luận, nhu cầu và thực tiễn huấn luyện của các môn thể thao làm tư liệu nghiên cứu và điểm.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> xuất phát cơ bản của học thuyết. Cùng với sự phát triển của khoa học thể dục thể thao hiện đại, các môn khoa học đã và đang thâm nhập và lĩnh vực huấn luyện thể dục thể thao, tiến hành thăm dò nghiên cứu nhiều mặt của huấn luyện thể dục thể thao dẫn tới việc chia ra thành rất nhiều môn khoa học nhánh có quan hệ với thể thao. Về khoa học tự nhiên như các môn: Sinh lý học TDTT, giải phẩu, Sinh hóa, Sinh cơ; về khoa học xã hội như: Xã hội học, Mỹ học, Tâm lý vận động….Về các môn khoa học đan xen như: Vệ sinh học, Y học thể thao, Tâm lý thể thao…Từ những góc độ khác nhau của tất cả những môn khoa học, tìm ra được những quy luật khách quan của sự biến đổi bên trong cơ thể vận động viên trong quá trình huấn luyện và làm rõ các ảnh hưởng của các yếu tố xã hội đối với họ, đồng thời làm cơ sở khoa học vững chắc cho nguyên lý của quá trình huấn luyện thể thao, tất yêu cũng thúc đẩy các môn khoa học này phát triển theo phương hướng rộng hơn, sâu hơn. Thực tiến lý luận và phương pháp của các môn thể thao là điều kiện trước tiên của sự tồn tại học thuyết huấn luyện thể thao, là cội nguồn của sự phát triển đi lên không ngừng của học thuyết huấn luyện thể thao. Nhưng học thuyết huấn luyện thể thao không đơn giản chỉ là sự tái hiện đơn giản kinh nghiệm huấn luyện của các môn thể thao riêng rẽ, mà là sự tổng kết khái quát những vấn đề mang tính chung nhất được các môn thể thao riêng rẽ đưa ra. Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, sàng lọc, tìm ra sự thật quy luật phổ biến của việc huấn luyện các môn thể thao, chỉ đạo sự phát triển lý luận huấn luyện và thực tiễn các môn thể thao riêng rẽ. Câu 6: Bản chất của huấn luyện thể thao là gì? Huấn luyện thể thao là một bộ phận cấu thành của thể thao thành tích cao. Tất cả mọi hoạt động của chúng đều được tiến hành xung quành mục.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> tiêu là nâng cao thành tích thể thao. Do kỷ lục thế giới về thành tích thể thao là đại diện cho giới hạn năng lực thể lực của con người đương đại. Đỉnh cao cuối cùng của nó luôn luôn là mục tiêu không xác định, mà tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội và sự hoàn thiện bản thân của con người. Do đó, mọi hoạt động của huấn luyện thể thao hiện nay đều mang tính chất nghiên cứu thăm dò và sáng tạo, huấn luyện thể thao đang trở thành các hoạt động biểu hiện năng lực của con người, mở rộng năng lực bị hạn chế và bị lãng quên, khai thác tiềm lực, thúc đẩy sự phát triển của bản thân. Trong xã hội luôn tồn tại 2 loại giá trị: Giá trị cá nhân và giá trị xã hội. Khi nào thành quả của huấn luyện thể thao (tức thành tích thể thao) được mọi người biết tới thì lúc đó mới có sự cống hiến cho nền văn hóa xã hội và mới có ý nghĩa xã hội to lớn. Song bản thân công tác huấn luyện không chỉ là một hoạt động mang tính xã hội, mà còn là một hoạt động mang tính khép kín và bán khép kín. Ý nghĩa kích thích xã hội, thúc đẩy xã hội là kết quả của nó. Chính vì huấn luyện thể thao mang tính khép kín và đối tượng của cả quá trình huấn luyện chủ yếu là vận động viên và huấn luyện viên. Hai đối tượng này cùng có sự lao động và nỗ lực chung xuyên suốt toàn bộ quá trình huấn luyện thể thao. Huấn luyện thể thao làm thành một quá trình giáo dục, điều khiển những gì sử dụng để phát triển các mặt của vận động viên. Hình thức tổ chức của nó và mọi hoạt động khác với quá trình giáo dục bình thường khác. Đặc trưng điển hình nhất là: Cái cần có cuối cùng của vận động viên, bao gồm sự phát triển cá tính của vận động viên không phải dựa vào lời mách bảo bên ngoài và tư duy đơn lẻ, mà vận động viên cần phải thông qua các hoạt động trực tiếp của cơ thể mới đạt được. Do đó, huấn luyện thể thao là một quá trình giáo dục đặc biệt, nó có đặc trưng là bắt buộc phải tuân thủ các quy luật và hình thức cơ bản. Ngoài các nguyên tắc giáo dục tư tưởng và.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> các nguyên tắc giảng dạy chung còn phải tuân thủ các nguyên tắc được tổng kết khái quát từ phương pháp luận chỉ đạo công tác huấn luyện, xác định rõ ràng bản chất của huấn luyện thể thao là một quá trình giáo dục. Do vậy các huấn luyện viên và vận động viên phải tôn trọng tất cả các nguyên tắc nêu trên. Câu 7: Huấn luyện thể thao có những đặc điểm gì? Huấn luyện thể thao là một quá trình huấn luyện đặc biệt, có mục tiêu và tổ chức chuyên môn rõ ràng hoạt động của nó có đặc điểm không giống với hoạt động của quá trình giáo dục khác. 1. Huấn luyện chuyên sâu và nâng cao là một loại huấn luyện có sự khác biệt về đặc trưng điển hình với hoạt động thể lực khác. Đặc trưng đó là do mục đích cuối cùng của công tác huấn luyện quyết định. Mà mục đích cuối cùng của công tác huấn luyện là lập nên những thành tích thể thao mà những người trước đây chưa đạt được. Lịch sử của quá trình phát triển thành tích thể thao đã chứng minh: Với trình độ thành tích thể thao như hiện nay thì dù không thể đạt được thành tích tốt nhất nếu tiến hành huấn luyện nhiều môn thể thao. Một vận động viên từ khi bắt đầu tham gia tập luyện đến khi thành tài, thời gian của giai đoạn xuất hiện tài năng là rất ngắn, chỉ ở vào độ tuổi tốt nhất mới có thể sáng lập thành tích tốt nhất; điều này nói lên việc cần phải quý trọng giai đoạn thời gian ngắn ngủi tạm thời này. Do đó, trong huấn luyện phải nhấn mạnh huấn luyện chuyên sâu. Đồng thời vận động viên muốn giành được thành tích cao bản thân họ phải có tất cả những năng lực cần thiết mà môn chuyên sâu đòi hỏi. Vấn đề này nhất định phải thông qua huấn luyện chuyên sâu để bồi dưỡng tất cả những năng lực thì mới có thể đạt được. Từ sau những thập kỷ 60 đến đầu những thập kỷ 80, sự thay đổi về tỷ lệ nội dung lượng vận động với huấn.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> luyện đã cho thấy điều này. Ngày nay, với sự thay đổi về luật thi đấu cũng nhằm vào việc phát triển kỹ thuật cơ bản chuyên môn sâu. Do có sự biến động về luật thi đấu đã làm cho nội dung huấn luyện càng phải nhấn mạnh huấn luyện chuyên sâu. Tất cả những cái này đều không có trong các hoạt động thể lực khác. 2. Trong quá trình huấn luyện thể thao. Nhất thiết phải tiến hành huấn luyện với lượng vận động lớn. Huấn luyện thể thao là một quá trình làm cho cơ thể vận động viên phát triển theo hình làn sóng (từ chỗ cân bằng đến chỗ mất cân bằng rồi trở lại cân bằng) và là một quá trình nâng cao thành tích theo đường gấp khúc đi lên. Do đó muốn làm cho vận động viên đạt được thành tích cao nhất mà cơ thể vận động viên có thể đạt được, phải huấn luyện cưỡng chế. Hay nói cách khác phải dùng lượng vận động lớn nhất để phá vở sự cân bằng hữu cơ của cơ thể, mới làm cho cơ thể phát triển tới trình độ cao hơn. Từ yêu cầu về thách tích của vận động viên mà xem xét, thành tích trong thi đấu bình thường là năng lực phát huy sức chịu đựng gánh tải lượng vận động lớn nhất mà sự đua tranh quyết liệt đòi hỏi. Do đó, muốn đạt được trình độ về thành tích hiện đại, đòi hỏi vận động viên trong quá trình tập luyện phải phát huy được tất cả các năng lực và tiềm lực của bản thân. Muốn làm được điều này chỉ có một con đường duy nhất là sử dụng lượng vận động lớn nhất trong tập luyện. 3. Tính hệ thống – Tính kế hoạch – Tính khoa học tron quá trình huấn luyện thể thao. Tính hệ thống và tính kế hoạch là những chỗ khác biệt của huấn luyện thể thao so với một số hoạt động khác có ảnh hưởng tới năng lực cơ thể và năng lực thể thao. Trong quá trình huấn luyện, tính khoa học không chỉ thể.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> hiện về phương diện vận dụng các tri thức về lý luận chuyên môn, về khoa học cơ bản của huấn luyện viên và vận động viên, mà còn thể hiện ở việc học tập và nhân rộng các kinh nghiệm thành công. Huấn luyện thể thao muốn cố gắng đạt được mục đích nâng cao thành tích cao, đòi hỏi phải có quá trình tiến hành cải tạo sinh học đối với cơ thể. Sự biến đổi sau này của cơ thể lại theo một quy luật khách quan, chỉ có tuân thủ quy luật huấn luyện này mới có thể giành được thắng lợi cuối cùng. Do đó tính hệ thống, tính kế hoạch và tính khoa học thể hiện trong huấn luyện thể thao chính là những điểm khác biệt so với hoạt động khác. Tính kế hoạch của huấn luyện thể thao thể hiện trong kế hoạch huấn luyện. Căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn thành công và các tri thức khoa học để xây dựng kế hoạch hợp lý, đồng thời lại phải đảm bảo sự phát triển thành tích có hệ thống của vận động viên. 4. Huấn luyện thể thao về cơ bản là một quá trình huấn luyện vận động viên. Vấn đề này thể hiện ở các mặt sau đây: - Do có sự khác biệt về đặc điểm và trình độ giữa các vận động viên, cho nên về công tác tổ chức huấn luyện, về cấu trúc của quá trình huấn luyện, nội dung huấn luyện và bố trí lượng vận động cũng không giống nhau. - Công tác huấn luyện đối với từng vận động viên chính là một quá trình nhằm phát huy chỗ mạnh, bù đắp chỗ yếu, khai thác tiềm lực của vận động viên. Vì thế cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan và tính sáng tạo của vận động viên. - Trong huấn luyện các môn tập thể cũng phải chú ý đến huấn luyện cá biệt, bởi vì thành tích của đội giành được phải dựa vào tài năng của từng.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> vận động viên trong đội. Có nhận thức rõ điều này mới có thể điều khiển được quá trình huấn luyện, làm cho quá trình huấn luyện đạt đến trình độ chuyên môn hóa cao. 5. Kết hợp giữa tính độc lập tự chủ cao của vận động viên và tác dụng chỉ đạo của huấn luyện viên. Thành tích thể thao là do bản thân vận động viên trực tiếp sáng lập. Vì vậy đòi hỏi họ cần phải có suy nghĩ độc lập và hành động độc lập. Nếu vận động viên không có tính chủ động, tính phối hợp sáng tạo trong huấn luyện, không kiên trì, chịu khó, chịu khổ cũng như lòng tin tuyệt đối vào bản thân mình thì khó có thể đạt được thành tích thể thao xuất sắc. Đây chính là một tiền đề không thể thiếu để đạt được thành tích thể thao tốt nhất. Tác dụng của huấn luyện viên trong quá trình huấn luyện chỉ mang tính “chủ đạo”. không thể bao biện làm thay hoặc chuyên quyền độc đoán được đối với vận động viên. Có thể khẳng định là sự “nếm mùi” huấn luyện thực sự không phải là huấn luyện viên mà chính là bản thân vận động viên. Huấn luyện viên muốn đạt được hiệu quả huấn luyện và giành được thành tích cao cần phải nổ lực làm cho mối quan hệ giữa bản thân huấn luyện viên với vận động viên như tình bạn bè thân thiết. Mối quan hệ này phải bắt đầu ngay khi huấn luyện ở cấp cao. Mục tiêu cuối cùng của huấn luyện viên là làm sao cho vận động viên có thể tự huấn luyện. Đương nhiên lúc này huấn luyện viên không được từ bỏ tác dụng chủ đạo của mình, không nghe những ý kiến chủ quan của vận động viên, nhưng cũng cần phải sử dụng phương thức lãnh đạo thích ứng với những thực tế đó. Câu 8: Lương vận động huấn luyện là gì? Lượng vận động có những đặc trưng nào?.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Lượng vận động là những yếu tố nhằm kích thích đối với cơ thể của vận động viên khi tiến hành các bài tập thể lực trong quá trình huấn luyện thể thao. Dưới sự kích thích của lượng vận động huấn luyện, cơ thể của vận động viên trải qua quá trình mệt mỏi – hồi phục – nâng cao mới, làm cho thành tích thể thao không ngừng được nâng cao và đột phá. Kích thích của lượng vận động với cơ thể vận động viên được biểu hiện trên 2 mặt, sinh lý và tâm lý. Do đó lượng vận động cũng có thể chia ra làm lượng vận đông sinh lý và lượng vận động tâm lý. Hiện tại học thuyết huấn luyện tập trung đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng về sự chịu đựng tâm lý chưa có một tiêu chuẩn đinh lượng khách quan, do đó chỉ khi gặp những vấn đề có liên quan thì mới áp dụng mang tính khái niệm hóa tương ứng mà thôi. Tìm hiểu đặc trưng của lượng vận động chính là tiền đề để điều khiển quá trình huấn luyện của vận động viên. Bởi vì, chỉ khi xác định rõ hiệu quả của các biện pháp được sử dụng lượng vận động huấn luyện có kích thích đối với cơ thể mới có khả năng định ra kế hoạch hợp lý và điều khiển được quá trình huấn luyện, chỉ xác định rõ được sự thay đổi của cơ thể sau khi tiếp thu lượng vận động mới có thể làm cho quá trình huấn luyện mang tính khoa học. Đặc trưng lượng vận động có thể được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau như: 1. Phương pháp phân theo đặc điểm môn chuyên sâu: Có thể phân ra lượng vận động chung với lượng vận động chuyên môn. Lượng vận động mang tính chuyên môn có thể được xác định căn cứ vào đặc trưng bên ngoài của việc sắp xếp tập luyện như: Cự ly, cấu trúc.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> động tác, tham số động lực học của công tác… so sánh với thi đấu môn chuyên sâu. 2. Phương pháp phân theo phạm vi tác dụng của lượng vận động đối với các hệ thống chức năng cơ thể. Lượng vận động tập luyện có tính mục đích của nó, đó là tính chất của lượng vận động. Bất kỳ hoạt động của một cơ bắp nào của cơ thể đều có quan hệ với hệ thống chức năng của cơ thể, trong đó hệ thống cung cấp năng lượng của cơ thể là chủ yếu. Do đó muốn nâng cao trình độ chuyên môn thì lượng vận động được sử dụng nhất thiết phải trực tiếp tác động vào hệ thống chức năng chủ yếu của cơ thể. Căn cứ vào đặc điểm sinh lý có liên quan tới hệ thống cung cấp năng lượng, tính chất của lượng vận động huấn luyện có thể chia ra làm các loại sau đây: lượng vận động ưa khí (có oxy), lượng vận động mang tính hỗn hợp, lượng vận động yếm khí (không có oxy), lượng vận động yếm khí không mang tính axit lactic (mang tính tốc độ). Phân loại lượng vận động như vậy có thể định lượng được công tác huấn luyện. 3. Phương pháp phân theo độ phức tạp của việc sắp xếp các bài tập, lượng vận động biểu hiện ở độ phức tạp của sự điều tiết. Trong các môn thể thao hoạt động mang tính chu kỳ, sự ảnh hưởng của nhân tố nhịp điệu, tính phức tạp không lớn, nhưng ở các môn bong, môn đối kháng cá nhân, môn thể dục dụng cụ, môn thể dục nghệ thuật…thì lượng vận động lớn, nhỏ và sự thành công trong thi đấu phần lớn được quyết định bởi độ phức tạp của việc sắp xếp tập luyện (thường thì gọi là “độ khó”). 4. Phương pháp phân theo định lượng của lượng vận động. Lượng vận động lại có khối lượng và cường độ vận động. Khối lượng và cường độ vận động lại có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá khách quan..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Các đặc trưng của lượng vận động nói ở trên đều có chung nội dung, nhưng mỗi đặc trưng không thể tồn tại một cách độc lập. Ví dụ: 3 đặc trưng trên đều có chung vấn đề xác định khối lượng và cường độ, mà khối lượng và cường độ lại liên quan phụ thuộc vào nhau. Trong cuốn sách này sẽ trình bày ở các chuyên đề giải đáp các vấn đề có liên quan đến các đặc trưng này. Câu 11: Làm thể nào để xác định lượng vận động lớn, cường độ cao hợp lý? Bất kỳ một hệ thống sinh vật nào cũng tồn tại trong sự cân bằng động. Trạng thái cân bằng động này là chỉ trạng thái cân bằng giữa sự tiêu hao năng lượng ở bên trong cơ thể với sự hấp thụ vào cơ thể. Huấn luyện là việc làm nhằm phá vỡ sự cân bằng này. Trong cơ thể con người có các hệ thống khác nhau, chúng duy trì chức năng cơ bản mà cuộc sống hằng ngày đòi hỏi. Nhưng nếu muốn nâng cao thành tích thì nhất thiết phải nâng cao trình độ năng lực chức năng, đồng thời phá vỡ trạng thái cân bằng động cơ bản nhất mà hệ thống cơ thể đang cố giữ. Muốn phá vỡ sự cân bằng này, cần phải lợi dụng sự kích thích được tạo ra từ lượng vận động huấn luyện. Trong quá trình huấn luyện cần tiến hành tuân thủ nguyên lý “vượt lượng” của sinh lý học đã trình bày. Trong quá trình chịu đựng lượng vận động, các chất năng lượng có trong cơ thể sẽ tiêu hao rất lớn, nhưng trong quá trình nghĩ ngới sau tập luyện thì năng lượng trong cơ thể sẽ được điều chỉnh và bổ sung, tái tạo mới và vượt qua mức cũ. Hiện tượng này gọi là sự “Hồi phục vượt mức”. Quá trình hồi phục là một biện pháp bảo vệ cơ thể, đề phòng trạng thái cơ thể xấu đi. Sau khối lượng huấn luyện lớn và cường độ cao bình thường thì khoảng 2 đến 3 ngày sau sẽ xuất hiện quá trình hồi phục vượt mức. Nếu như lúc này không tập luyện tiếp lần sau, thì trạng thái hồi phục vượt mức sẽ trở lại dần như mức cũ. Còn nếu như vận động viên không.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> có thời gian nghỉ mà cứ tiếp tục tập luyện thì sẽ làm cho cơ thể vận động viên không thể hồi phục trở về mức cũ, và vận động viên sẽ rơi vào tình trạng tập luyện quá sức. Như vậy sự sắp xếp lượng vận động huấn luyện thích ứng với nguyên lý dựa trên nguyên tắc: lần tập luyện kế tiếp sau nên bố trí tiến hành ở đỉnh cao nhất của quá trình hồi phục vượt mức. Như vậy mức đạt được của lần phục hồi vượt mức lần trước sẽ trở là mức khởi đầu của lần phục hồi vượt mức lần sau. Lần huấn luyện sau, sự hồi phục vượt mức xảy ra càng cao hơn, trình độ huấn luyện cũng dần dân tăng cao. Do thời gian huấn luyện của vận động viên không giống nhau, nên nhìn từ góc độ của sự biến đổi các cơ quan của cơ thể, thì nhân tố chủ yếu quyết định trình độ huấn luyện của vận động viên là: 1. Cấu trúc hình thái các hệ thống cơ quan cơ thể. 2. Tốc độ và phạm vi năng lực trao đổi chất và trao đổi năng lượng. 3. Năng lượng điều tiết nhịp nhàng của hệ thần kinh, hệ nội tiết,… đối với trạng thái làm việc của các cơ quan nội tạng. Những nhân tố này của các vận động viên có trình độ huấn luyện khác nhau sẽ biểu hiện khác nhau. Do đó, các vận động viên khác nhau sẽ có sự phản ướng đối với lượng vận động huấn luyện cũng không giống nhau. Song, do được huấn luyện nhiều năm và nâng cao được trình độ huấn luyện nên: 1. Sự tích lũy toàn bộ chức năng của cơ thể được mở rộng. 2. Trong phạm vi tích lũy của tất cả chức năng cơ thể, năng lực chức năng cơ bản được mở rộng. 3. Có thể thúc đẩy thêm một bước tạo ra phạm vi quá trình thích ứng ngày càng nhỏ..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 4. Trong phạm vi tiến thiêm một bước tạo ra quá trình thích ứng, tỷ lệ dễ dàng cải tạo cũng ngày càng ít. Do đối tượng khác nhau và tình hình thay đổi chức năng cơ thể của các vận động viên khác nhau trong những giai đoạn huấn luyện khác nhau nên những vận động viên có trình độ huấn luyện cao, thời gian tham gia huấn luyện dài, năng lực chịu đựng lượng vận động huấn luyện và năng lực thích ứng với kích thích của chuyên môn sâu cũng sẽ càng lớn. Điều này làm cho sự sắp xếp lượng vận động huấn luyện sẽ có sự khác biệt giữa các vận động viên. Bảng 4 phản ánh tỷ lệ huấn luyện cụ thể của vận động viên bơi lội cấp cao. Bảng 5 phản ánh tỷ lệ các bài tập tương ứng khi huấn luyện phát triển tố chất sức bền chung ở những môn chuyên sâu khác nhau. Bất kể trong thời điểm nào của quá trình huấn luyện thể thao, lượng vận động huấn luyện đều có yêu cầu về tỷ lệ không giống nhau. Bảng 6, 7, 8, 9 phản ánh tình hình này. Nguyên nhân chính của việc này là do trong những thời kỳ huấn luyện khác nhau, nhiệm vụ huấn luyện cũng phải khác nhau. Bảng 4: TỶ LỆ PHẦN TRĂM CÁC LOẠI HUẤN LUYỆN TRONG CHU KỲ LỚN CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN BƠI LỘI CẤP CAO. Phần trăm tổng khối lượng huấn luyện có tính chất khác nhau Cự ly môn thể thao (mét). Không Oxy. có Không có Oxy. có-. Không Oxy có tính axit lactic. Không. có. Oxy không có. tính. axiclactic. Bơi. chân. mang tính hồi phục. 100 và 200. 30 – 35. 25 – 30. 2–5. 7 – 10. 25 – 30. 400. 35 – 40. 35 – 40. 2–4. 5 – 10. 15 – 20.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 800 và 1500. 40 – 45. 35 – 40. 1–2. 3–6. 10 – 15. Bảng 5: TỶ LỆ PHẦN TRĂM CÁC LOẠI HUẤN LUYỆN KHI PHÁT TRIỂN SỨC BỀN CHUNG CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN CẤP CAO Ở CÁC MÔN THỂ THAO KHÁC NHAU Tỷ lệ % tập luyện phát triển sức bền. Môn. HL không có HL tốc độ, sức HL mềm dẻo, sâu Huấn luyện có Oxy mang tính Oxy mạnh tốc độ nhịp điệu (thời gian) axit lactic chuyên. Trong 30’’. 20. 25. 40. 15. 30 – 60’’. 25. 30. 30. 15. 1’30’’ – 2’30’’. 40. 25. 20. 15. 3’ – 5’. 50. 25. 15. 10. 10’ – 15’. 60. 20. 10. 10. 30’ – 60’. 70. 15. 5. 10. Trên 60’. 75. 15. 5. 5. Bảng 6: TỶ LỆ VẬN ĐỘNG CÓ TÍNH CHẤT KHÁC NHAU Ở CÁC MÔN THỂ THAO KHÁC NHAU Ở GIAI ĐOẠN BẮT ĐẦU CHUYÊN MÔN HÓA Tính chất chức. Môn thể thao. năng. Tỷ lệ %. Tổng lượng Km Nam. Nữ. 1. 85 – 87. 1500 -1700. 1400 – 1650. 2. 11 – 8. 190 – 225. 145 – 180. 3. 4–5. 60 – 75. 55 – 70. Trượt tuyết tốc 1. 81 – 84. 1500 – 2000. 1100 – 1300. độ (toàn năng). 15,5 – 12. 235 - 260. 175 – 225. Chạy. cự. ly. trung bình. 2.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Đua thuyền. Thuyền (thuyền da). Bơi lội. nhỏ. 3. 3,5 – 4. 65 – 80. 45 – 60. 1. 72 – 77. 1300 – 1500. 1000 – 1100. 2. 18 – 22. 350 – 400. 265 – 315. 3. 5–6. 95 – 100. 75 – 85. 1. 75 – 77. 1950 – 2200. 1700 – 1950. 2. 18 – 15. 375 – 400. 345 – 375. 3. 7–8. 175 – 200. 155 – 175. 1. 76 – 78. 800 – 950. 800 – 950. 2. 21 – 18,5. 180 – 220. 180 – 220. 3. 3 – 3,5. 30 -35. 30 – 35. 84 – 86,5. 2600 – 2950. 2350 – 2600. 13,5 – 16. 400 – 450. 350 - 400. Cường độ thấp, Trượt tuyết. trung, cường độ cao. Chú thích bảng 6: 1. Phương thức cung cấp năng lượng ưa khí. 2. Phương thức cung cấp năng lượng hỗn hợp (hỗn hợp ưa, yếm khí) 3. Phương thức cung cấp năng lượng yếm khí.. Mặc dù hiện nay, việc sắp xếp lượng vận động lớn và cường độ huấn luyện cao là đặc điểm nổi bật của quá trình huấn luyện hiện đại, nhưng cuối cùng cũng vẫn cần xem xét tới các nhân tố nói ở phần trên. Vì vậy tính hợp lý của lượng vận động lớn và cường độ cao thể hiện trong quá trình huấn luyện là: 1. Lượng vận động huấn luyện phải thích hợp với khả năng tiếp thu của cơ thể. Điều này có nghĩa là phải luôn suy xét đầy đủ đến đặc điểm chịu.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> đựng lượng vận động huấn luyện của vận động viên và tính tương đối của lượng vận động. 2. Xếp sắp lượng vận động trong huấn luyện cần chú ý đảm bảo tính cân bằng và tính hiệu quả giữa các bài tập, nghĩa là phải đảm bảo tiến hành thuận lợi quá trình thích nghi về sinh học của cơ thể. 3. Nội dung lượng vận động huấn luyện cần phải có một tỷ lệ hợp lý, phù hợp với những yêu cầu cá biệt của môn chuyên sâu. 4. Khối lượng và cường độ của lượng vận động huấn luyện phải có một tỷ lệ thích hợp. 5. Phải có khả năng thực tế nâng cao và lập nên các thành tích xuất sắc môn chuyên sâu. Đây mới chỉ là một yêu cầu, nếu muốn nâng cao thành tích thể thao ở một trình độ tương đối cao thì cần phải nguyên cứu xu thế phát triển huấn luyện thể thao hiện nay của quốc tế. Kết hợp tình hình cụ thể của bản thân vận động viên ma chọn biện pháp tương ứng. Bất kỳ một điều nào đã nói ở trên đều không thể thiếu đối với lượng vận động huấn luyện hợp lý.. Bảng 7: TỶ LỆ CÁC LOẠI CƯỜNG ĐỘ KHÁC NHAU CỦA LƯỢNG VẬN ĐỘNG Ở CÁC MÔN KHÁC NHAU KHI BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN CHUYÊN MÔN HÓA. Môn thể thao. Cấp cường độ. Chạy cự ly trung bình. Tổng khối lượng thể thao cùng thời kỳ Nam. Nữ. I. 1250 – 1550. 1200 – 1450. II. 900 – 1000. 900 – 1050. III. 500 – 570. 350 – 400.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trượt tuyết. Bơi lội. Trượt. băng. (toàn. năng). IV. 110 – 130. 100 – 110. V. 40 – 50. 30 – 40. I. 300 – 400. 300 – 330. II. 1200 – 1335. 1050 – 1100. III. 3000 – 3200. 2500 – 2650. IV. 700 – 750. 585 – 625. V. 100 – 115. 90 – 95. I. 135 – 175. 135 – 175. II. 700 – 800. 700 – 800. III. 650 – 750. 650 – 750. IV. 170 – 200. 170 – 200. V. 65 – 75. 65 – 75. I. 464 – 600. 350 – 450. II. 1000 – 1250. 750 – 950. III. 700 – 850. 550 – 600. IV. 200 – 250. 125 – 175. V. 35 – 50. 25 – 35. Chú thích: I: Cường độ thấp II: Cường độ trung bình III: Cường độ lớn IV: Cường độ cao V: Cường độ cực hạn..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Bảng 8: TỶ LỆ LƯỢNG VẬN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ MÔN ĐIỀN KINH TRONG GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN CHUYÊN MÔN HÓA SÂU Tổng khối lượng trong chu. Môn. Cách tập luyện với lượng vận động kỳ lớn của năm. thể thao Chạy. Nam. Nữ. 16,5 – 19,0. 16,0 – 18,0. 25,0 – 28,0. 24,5 – 28,0. - Cường độ 100 – 91%. 17,0 – 19,5. 15,5 – 18,0. 90 – 81%. 22,5 – 26,0. 24,5 – 28,0. Cường độ thấp 80%. 27,0 – 30,5. 25,5 – 29,0. - Cường độ 100 – 91%. 14,5 – 16,5. 14,0 – 16,0. - Cường độ dưới 90%. 20,5 – 23,0. 17,5 – 20,0. - Cường độ 100 – 91%. 23 – 26,5. 19,5 – 22,0. - Cường độ 90 – 81%. 36,0 – 41,0. 37,0 – 43,0. - Cường độ dưới 80%. 51,0 – 58,0. 50,0 – 57,0. Số lần ném với trọng lượng chuẩn. 1400 – 1650. 1700 – 2000. Số lần ném với trọng lượng nhẹ. 1200 – 1400. 1550 – 1800. Số lần ném với tăng trọng lượng. 900 – 1000. 850 – 900. 1350 – 1000. -. Số lần ném với trọng lượng nhẹ. 1150 – 1250. -. Số lần ném với tăng trọng lượng. 700 – 850. -. Giai đoạn sau của chạy 80’’’. 100 – 200m - Tốc độ 100 – 96% - Cường độ dưới 95% Giai đoạn trước của chạy 80’’’. Chạy 400m. Giai đoạn sau của chạy 100’’’. Giai đoạn trước của chạy 100’’’. Đẩy tạ. Ném xích. tạ Số lần ném với trọng lượng chuẩn.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Ném đĩa. Số lần ném với trọng lượng chuẩn. 1500 – 1700. 1700 – 1900. Số lần ném với trọng lượng nhẹ. 1050 – 1150. 1500 – 1700. Số lần ném với tăng trọng lượng. 850 – 950. 800 – 900. Câu 14: Thế nào gọi là huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn? Huấn luyện chung (còn gọi là huấn luyện toàn diện) là quá trình huấn luyện được sử dụng nhiều phương pháp và biện pháp huấn luyện khác nhau nhằm nâng cao chức năng của các hệ thống cơ quan của vận động viên phát triển toàn diện tố chất vận động, làm thay đổi hình thái của cơ thể, nắm được kỹ thuật vận động và tri thức lý luận của một số môn không phải chuyên sâu và cải thiện phẩm chất tâm lý chung. Huấn luyện chung bao gồm tất cả các biện pháp có thể để giải quyết một cách có hiệu quả nhiệm vụ phát triển cơ thể toàn diện, đặc biệt là các bài tập chuyên môn có ảnh hưởng tốt đối với phát triển các tố chất thể lực cơ bản và các bài tập có thể mở rộng kỹ năng cơ bản và kỹ xảo vận động cho vận động viên. Mục đích chủ yếu của huấn luyện thể lực chung là căn cứ vào đòi hỏi của môn chuyên sâu, đặt nền móng tốt về nhiều mặt giúp cho vận động viên đạt được những thành tích tốt nhất. Huấn luyện chuyên môn là quá trình sử dụng các bài tập có đặc điểm vận động chuyên sâu và các bài tập có đặc điểm tương tự với vận động chuyên sâu nhằm nâng cao khả năng của các hệ thống cơ quan cần thiết trong môn chuyên sâu, phát triển tố chất thể lực chuyên sâu, nắm vững tri thức lý luận, kỹ thuật, chiến thuật của môn chuyên sâu và cải thiện phẩm chất tâm lý theo sự đòi hỏi của môn chuyên sâu. Những loại bài tập này gồm 2 loại:.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Bản thân môn chuyên sâu: Tức là toàn bộ bài tập giống như thi đấu môn chuyên sâu, chúng ta thường gọi là bài tập mang tính thi đấu. - Các bài tập mà thành phần động tác bao hàm tính thi đấu và những bài tập có đặc điểm và hình thức biểu hiện năng lực cơ thể đều giống với bài tập mang tính thi đấu. Chúng ta gọi là bài tập huấn luyện chuyên sâu. Nội dung của huấn luyện chuyên sâu thì có hạn, các biện pháp của nó không đủ để giải quyết tất cả các nhiệm vụ bồi dưỡng vận động viên mà chỉ có tác dụng trực tiếp đối với thành tích chuyên sâu. Mục đích của việc huấn luyện chuyên sâu là nâng cao thành tích chuyên sâu của vận động viên với mức độ lớn nhất. Nguyên nhân của việc chia thành huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn là vì: Thứ nhất là do yêu cầu khách quan của môn chuyên sâu; Thư hai là do nhiệm vụ và tác dụng của 2 loại huấn luyện này không giống nhau. Câu 17: Năng lực thể thao của vận động viên do nhân tố nào tạo thành? Thành tích thể thao của vận động viên là do năng lực thể thao. Năng lực thể thao là bản lĩnh vốn có tốt nhất mà vận động viên đạt được trong quá trình huấn luyện và thi đấu, là sự tổng hợp của năng lực về tố chất thể lực, năng lực về kỹ chiến thuật, năng lực về trí tuệ và năng lực về tâm lý. Con đường dẫn đến việc đạt được năng lực thể thao này có khác nhau. Chúng ta có thể chia năng lực đó thành 2 loại. Một loại là do trời phú và một loại là do rèn luyện mà có. Ví dụ như một vận động viên bóng rỗ ưu tú, có chiều cao 2,28m, chiều cao này chủ yếu là do di truyền mà có, nó thuộc về năng lực mang tính trời cho; còn năng lực thi đấu là do ảnh hưởng môi trường bên ngoài dẫn đến sự thay đổi về sinh học và năng lực thể thao không phải trời.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> cho. Năng lực thể thao không phải trời cho mà chúng ta thu được quả ảnh hưởng của các mặt hoàn cảnh gia đình, điều kiện sinh sống thì được gọi là: “hiệu ứng sinh hoạt”, còn năng lực thi đấu thu được là do sản sinh sự thích ứng sinh học của quá trình huấn luyện thì được gọi là “hiệu ứng huấn luyện”. Năng lực trời phú thì không thay đổi hoặc thay đổi rất nhỏ khi thông qua quá trình huấn luyện, nhưng ở một mức độ nhất định nào đó năng lực thể thao lại có ảnh hưởng chủ yếu thậm chí ở một số môn thể thao nó có tác dụng quyết định. Đó là vấn đề cần phải xem xét trong khi định hướng và tuyển chọn nhân tài thể thao. Năng lực thể thao thu được không phải trời phú mà chủ yếu là do công tác huấn luyện sau này. Cho nên chúng ta đem trình độ thích ứng của vận động viên thu được thông qua quá trình huấn luyện một cách hệ thống đối với thi đấu và huấn luyện gọi là trình độ huấn luyện (hoặc hiệu ứng huấn luyện) của vận động viên. Bởi vì thông qua công tác huấn luyện thì hình thái cơ thể, chức năng của hệ thống cơ quan nội tạng, tố chất thể lực, kỹ năng kỹ xảo động tác, nhu cầu về hoạt động môn thể thao chuyên sâu, năng lực tư duy mà môn chuyên sâu đòi hỏi và đạo đức, phẩm chất, ý chí mới được hình thành, phát triển và nâng cao. Từ đó dẫn đến sự thích ứng với đòi hỏi của huấn luyện chuyên môn và thi đấu. Những biến đổi mang tính thích nghi này được sản sinh ở cơ thể vận động viên thông qua thi đấu thể thao, tập trung biểu hiện thành sự biến đổi thành tích thể thao. Câu 19: Thế nào gọi là trạng thái thể thao? Trạng thái thể thao phát triển theo quy luật nào? Trạng thái thể thao được coi là trạng thái chuẩn bị thích hợp nhất về mọi mặt, để vận động viên đạt được thành tích thể thao tốt nhất. Nội dung chủ yếu của nó bao gồm các điểm sau đây:.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 1. “Thành tích ưu việt” là thành tích thể thao thu được nhờ nâng cao trình độ kỹ thuật vận động trong một giới hạn thời gian không giống nhau của vận động viên (các giai đoạn trong quá trình huấn luyện nhiều năm, các chu kỳ lớn của quá trình huấn luyện 1 năm) không phải là thành tích cá nhân cao nhất của vận động viên. Do đó trạng thái thể thao mang tính tương đối về thời gian. 2. Do trạng thái thể thao là trình độ kỹ thuật của một vận động viên nào đó, nên trạng thái thể thao mang tính cá nhân. 3. Trang thái thể thao là sự tập trung hoạt động lượng và chất của các mặt có liên quan đến thành tích thể thao tốt nhất có thể đạt được của toàn bộ sự hoạt động huấn luyện trong một giới hạn ở thời gian nào đó của vận động viên và là sự thể hiện tổng hợp, do đó có tính khách quan khi đánh giá. 4. Trạng thái thể thao đương nhiên là trạng thái chuẩn bị thích hợp. Được coi là “trạng thái” tất nhiên thể hiện tính liên tục trên góc độ thời gian. Do đó đứng ở góc độ tồn tại hiện thực của trạng thái thể thao, thì không nên cho rằng biểu hiện một “điểm” của thời gian mà cần phải nhận thức rằng nó là sự biểu hiện của một “quá trình thời gian”. 5. Chính vì do nó là “một quá trình thời gian”, tức là phải thừa nhận nó không ổn định từ đầu đến cuối mà không thay đổi chút nào. Nên nó có “tính dao động”, chỉ có điều là phải làm thành một loại trạng thái thích nghi nhất, và sự “dao động” nên có một phạm vi nhất định. Quá trình phát triển của trạng thái thể thao có thể chia làm 3 giai đoạn thay nhau biến đổi như sau: - Giai đoạn thu nhận; - giai đoạn tương đối ổn định – và giai đoạn mất đi tạm thời..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Giai đoạn thu nhật trạng thái thể thao do hai giai đoạn nhỏ kế tiếp nhau cấu thành. Ví như: Giai đoạn hình thành trạng thái thể thao và giai đoạn phát triển, trong đó giai đoạn hình thành là điều kiện trước tiên của “trạng thái thể thao” Kinh nghiệm thực tiễn của huấn luyện cho thấy sự hình thành các bộ phận cấu thành trạng thái thể thao không giống nhau. Ví như: khi tố chất cơ thể đạt được trình độ tương đối cao nhưng trình độ huấn luyện kỹ thuât, chiến thuật có lúc vẫn ở tình trạng lạc hậu. Cần thấy được ở cuối thời kỳ của giai đoạn nhỏ này, tuy rằng các bộ phận cấu thành đã hướng tới sự thống nhất, nhưng mối quan hệ phản xạ có điều kiện giữa chúng với nhau vẫn chưa có thể hoàn toàn ổn định khi gặp ảnh hưởng của điều kiện không có lợi, rất dễ bị phá vỡ, đứt đoạn. Trong giai đoạn ổn định tương đối của trạng thái thể thao, các đặc trưng của trạng thái thể thao có sự biểu hiện rõ nhất. Nhưng cần phải hiểu là: sự ổn định tương đối của trạng thái thể thao không có nghĩa là trạng thái thể thao dừng lại không tiến triển nữa và lúc này đã đạt được tất cả các nhân tố có liên quan đến thành tích vận động, mà nó vẫn phải tiếp tục được hoàn thiện thêm một bước nữa. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành trạng thái thể thao, cùng với sự thay đổi của các bộ phận khác, mà dần dần từng bước điều chỉnh tinh tế hơn. Từ đó làm cho nên móng được xây dựng trên điều kiện tiền đề của trạng thái thể thao được hình thành có thể phát huy tác dụng càng đầy đủ hơn. Trong giai đoạn này mức độ cải tạo chức năng trong cơ thể vận động viên sẽ có giảm thấp, sự biến đổi về chức năng lấy điều tiết lẫn nhau làm định hướng chính. Ở phạm vi cao nhất mà trạng thái thể thao có thể đạt được là kết quả của thành tích thi đấu thể thao. Mặc dù trong giai.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> đoạn này trạng thái thể thao đạt được mức phát triển cao, nhưng nó cũng không thể vượt qua được phạm vi khả năng mà giai đoạn lớn trước cung cấp. Trang giai đoạn này, động thái phát triển các thành phần cấu thành trạng thái thể thao cũng đồng thời không tránh khỏi sự dao động, nó nắm ở “trạng thái ổn định tương đối”. Vì vậy mà chúng ta cần phân biệt giữa sự thay đổi trọng phạm vi nhỏ này với sự mất đi thật sự của trạng thái thể thao. Trong giai đoạn “Ổn định tương đối” này sẽ xuất hiện hiện tượng suy thoái của trạng thái thể thao. Hiện tượng này có thể kéo dài từ một tháng đến một tháng rưỡi. Khi qua giai đoạn suy thoái này qua đi thì thành tích thể thao lại được nâng cao nhanh hơn, đạt mức trình độ cũ và luôn vượt hơn trình độ cũ. Điều này chứng tỏ đại bộ phận của các yếu tố cấu thành trạng thái thể thao vẫn được duy trì nguyên vẹn. Trạng thái thi đấu ở giai đoạn giảm tạm thời là do có các đặc điểm sau: - Chức năng của cơ thể có sự chuyển hóa sang một trình độ khác. Chính vì thế sự hoạt động trong giai đoạn này của vận động viên phát sinh sự thay đổi. Nhưng cũng không phải tất cả các bộ phận cấu thành trạng thái thể thao trong thời gian này đều đồng thời mất đi, mà cái mất đi trước tiên là mối liên hệ tinh tế chặt chẽ về tiết tấu (nhịp điệu) của việc chuyên sâu hóa. Song thời gian duy trì trình độ chung của chức năng đã được nâng cao và kỹ xảo vận động cơ bản lại tương đối dài. Thời gian mất tạm thời trạng thái thể thao và sự sút kém về trình độ huấn luyện ngắn hay dài là do biện pháp huấn luyện được sử dụng quyết định. Nếu biết sử dụng nghỉ ngơi tích cực thì có thể luôn giữ được trình độ huấn luyện ở mức tương đối cao..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Câu 20: Trạng thái thi đấu có những đặc trưng gì? Trạng thái thể thao là làm thành trạng thái chuẩn bị thích hợp nhất (tốt nhất) cho vận động viên lập được thành tích thi đấu xuất sắc, nó bao gồm tất cả các mặt chuẩn bị cho vận động viên để họ đạt thành tích tốt nhất. Thành tích thi đấu thể thao là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá trạng thái thể thao, đó là đặc trưng cơ bản nhất thể hiện trạng thái thể thao. Nhìn từ góc độ sinh học thì việc nâng cao trình độ chức năng của cơ thể và việc cải thiện sự điều hòa (nhịp điệu) quá trình hoạt động của các hệ thống cơ quan đều phản ánh đặc trưng cơ bản của trạng thái thể thao. Tóm lại có một số đặc điểm sau đây: Trình độ chức năng của cơ thể được nâng cao thêm một bước sẽ hoàn thiện việc điều hòa quá trình hoạt động của hệ thống các cơ quan. Sự điều hòa này được biểu hiện ở tính linh hoạt của cơ thể được nâng cao, khả năng chuyển đổi từ một hoạt động này sang một hoạt động khác được cải thiện tốt hơn, dễ tiếp thu các hoạt động khác nhau. Với điều kiện trình độ tốt chất thể lực tương đối cao (như sức nhanh, sức mạnh, sức bền) có thể hoàn thành kỹ thuật động tác chuyên môn vượt lúc trạng thái cơ thể bình thường, động viên ở mức lớn nhất việc tăng thêm khả năng của các loại năng lực chức năng. Có hiện tương tiết kiệm hóa của các hoạt động chức năng. Đặc biệt là sự biểu hiện năng lượng tiêu hao của mỗi đơn vị công suất có sự giảm xuống, quá trình hồi phục lại được rút ngắn. - Sự kết hợp hữu cơ của việc hình thành kỹ thuật môn chuyên sâu và tố chất vận động đạt đến sự thống nhất cao. Tính thuần thục, tính nhịp điệu và độ chuẩn xác của động tác có hiệu quả rất cao. Lúc này, tố chất thể lực cũng được phát huy ở mức độ rất lớn. Cùng với sự hình thành trạng thái thể.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> thao các loại động tác cấu thành kỹ thuật và chiến thuật môn chuyên sâu có sự liên kết thành một tổng thể hoạt động nhịp nhàng. Đồng thời các động tác thừa không cần thiết và những bộ phận trở ngại cho nhau bị loại bỏ; không chỉ tính chuẩn xác mà tính nhịp điệu của động tác được nâng cao mà thời gian hoàn thành động tác cũng theo đó được rút ngắn. Nhìn từ góc độ tâm lý, ta thấy có một số biểu hiện sau: - Quá trình tâm lý học được cải thiện sau khi hình thành trạng thái thể thao. Trong quá trình hoàn thành động tác, vận động viên không chỉ được tự động trên lĩnh vực sinh lý, mà về mặt tâm lý cũng có tính tự giác cao, làm cho vận động viên tập trung sức lực lớn hơn để hoàn thành nhiệm vụ một cách sáng tạo; không chỉ chú trọng khâu then chốt và khâu quan trọng nhất của động tác, mà khi cần còn có thể tự giác chú ý nắm bắt cả những chi tiết nhỏ nhất. - Cảm giác vận động đặc biệt là tăng thêm độ chính xác. Ví như: Vận động viên trượt tuyết có cảm giác tố với ván trượt, vận động viên bơi lội có cảm giác với nước, vận động viên nhảy cao có cảm giác với xa ngang, vận động viên chạy có cảm giác với thời gian và cự ly… Tất cả các cảm giác đó đều rất chuẩn xác. Điều này có thể nói rằng sự phân tích và tổng hợp của các cơ quan phân tích đối với các tiêu chí (mốc đánh dấu) càng chính xác hơn. - Các loại phản ứng vận động tiến hành tương đối nhanh chuẩn xác và hoàn thiện; năng lực định hướng đối với môi trường xung quanh, đặc biệt là năng lực định hướng trong điều kiện thi đấu có sự tiến bộ rõ rệt, phạm vi sức chú ý mở rộng, sự phân phối sức tập trung và năng lực tập trung chuyển dịch cũng được hoàn thiện hơn; năng lực phát huy tư duy sáng tạo chiến thuật được biểu hiện đầy đủ hơn..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Câu 23: Thế nào là tố chất sức mạnh? Trong thực tế nó có những hình thức biểu hiện nào? Trong thực tiễn sức mạnh có rất nhiều loại hình thức biểu hiện, do đó chỉ dùng 1 định nghĩa để biểu đạt sức mạnh mà không xác thực. Trong thực tiễn thể thao biểu hiện của sức mạnh đại thể có thể phân ra các loại sau: 1. Sức mạnh tối đa: Loại sức mạnh này thông thường được gọi với cái tên “Sức mạnh tuyệt đối” hoặc “Sức mạnh đơn thuần”, sức mạnh tối đa nói chung là chỉ năng lực của cơ thể hay một bộ phận của cơ thể có thể khắc phục được lực cản lớn nhất. Khi xác định sức mạnh tối đa không tính đến nhân tố trọng lượng cơ thể của vận động viên. Cùng với sự tăng trọng lượng cơ thể nói chung, sức mạnh tối đa của họ cũng tăng tương ứng. 2. Sức mạnh tương đối: Sức mạnh tương đối phản ánh mối quan hệ giữa trọng lượng cơ thể với sức mạnh tố đa của vận động viên, xác định chỉ tiêu này thường dùng chỉ số sức mạnh trọng lượng cơ thể tức là sức mạnh của mỗi kg trong lượng cơ thể để biểu thị. Có thể dùng công thức tính như sau: Sức mạnh tối đa Sức mạnh tương đối = Trọng lượng cơ thể Nếu như sức mạnh tuyệt đối không đổi hoặc thay đổi rất ít, nhưng trọng lượng cơ thể lại tăng thì sức mạnh tương đối sẽ nhỏ lại. Điều nay đối với các môn thể thao sức mạnh tương đối (như môn cử tạ hay môn thể thao nghệ thuật) thì rất không lợi. 3. Sức mạnh tốc độ:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Sức mạnh tốc độ là một loại tố chất sức mạnh có biểu hiện đặc biệt. Nó là sự hòa trộn giữa sức mạnh và tốc độ. Trên thực tế sức mạnh tốc độ là năng lực tăng tốc độ được biểu hiện ra khi khắc phục một lực cản nhất định của vận động viên. Sức mạnh tốc độ này lớn hay nhỏ có quan hệ đến tốc độ vận động của các chi của cơ thể nhằm khắc phục lực cản: Trên thực tế, sức mạnh tốc độ tức là tốc độ động tác lớn nhất được thực hiện trong điều kiện lượng vận động quy định đặc biệt. Do đó bản chất của huấn luyện “sức mạnh tốc độ” là huấn luyện tốc độ động tác. Sức mạnh tốc độ cũng chỉ có thể dùng chỉ số quy định đặc biệt để biểu thị, có thể dùng công thức sau đây để tính: Tốc độ lớn nhất có thể đạt được Sức mạnh tốc độ = Thời gian (giây) bỏ ra để đạt tốc độ ở trên. Hình thức biểu hiện điển hình của sức mạnh tốc độ là lực bột phát. 4. Sức mạnh bền: Sức mạnh bền là khả năng của vận động viên có thể duy trì thời gian dài nhất hoặc có thể lặp lại số lần nhiều nhất khi khắc phục một lực cản nhất định bên ngoài. Thực chất của huấn luyện sức mạnh bền là huấn luyện sức bền. 5. Sức mạnh tĩnh lực: Khi một bộ phận cơ thể hay toàn bộ cơ thể con người trong quá trình hoạt động mà không sản sinh ra việc di chuyển vị trí, đó là biểu hiện sức mạnh tĩnh. Sức mạnh tối đa mang tính động lực của một người nhỏ hơn sức mạnh tối đa mang tính tĩnh lực. Câu 31: Làm thế nào để phát triển sức bền?.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Nhìn chung trong lúc chọn bài tập huấn luyện chuyên sâu, nên suy xét chọn những bài tập có thể đáp ứng điều kiện có thể đáp ứng điều kiện cần thiết thích hợp với đặc điểm của những hoạt động thi đấu. Do đó nhất thiết phải sử dụng những bài tập gần giống với thi đấu cả về nội dung lẫn hình thức. 1. Phương thức hoạt động của cơ bắp. Phương thức làm việc chủ yếu của cơ bắp là phương thức làm việc mang tính động lực kết hợp giữa hai pha căng nhanh và thả lỏng. Cũng có thể sử dụng tập luyện sức mạnh mang tính tĩnh lực ở một phạm vi tương đối rộng. Tập luyện mang tính tĩnh lực có tác dụng trong việc nâng cao năng lực của vận động viên ở giai đoạn tương đối chậm của một số động tác cá biệt. 2. Độ lớn hay nhỏ của lực cản. Phạm vi thay đổi của lực cản có thể rất lớn, mặc dù trong khi hoàn thành bài tập cá biệt, có thể dùng sức đạt tới mức 70 – 80% lực tối đa. Nhưng khi sử dụng bài tập có phụ tải, phạm vi phụ tải của các bài tập chủ yếu sử dụng trọng lượng từ 40 – 60% phụ tải tối đa. Khi huấn luyện chuyên sâu, muốn chọn được lực cản lớn hay nhỏ có thể sử dụng bằng lực cản bài tập mang tính chất thi đấu hoặc vượt từ 10 – 30% chỉ tiêu lực cản này. Lực cản lớn (nhỏ) trong tập luyện tĩnh lực thì có thể sử dụng lực từ 70 – 100% sức mạnh có thể đạt được trong mỗi bài tập cụ thể. 3. Tốc độ hoàn thành bài tập: Tốc độ hoàn thành các bài tập huấn luyện các môn chuyên sâu chủ yếu là thời gian cơ bản cần phải làm cho bài tập đảm bảo các đặc trưng của bài tập mang tính thi đấu. Do đó tốc độ của nó thường gần giống với tốc độ.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> bài tập mang tính thi đấu. Khi hoàn thành bài tập với phụ tải mang tính chung và tính bổ trợ, tốc độ chủ yếu của động tác cũng nên giống như tốc độ của bài tập mang tính thi đấu, song cũng có thể có biến động lớn, có thể tăng dần từ tốc độ đạt được mức trung bình đến tiếp cận tốc độ bài tập mang tính thi đấu. 4. Thời gian hoàn thành một tổ bài tập. Bài tập mang tính động lực thông thường cần làm nhiều lần cho đến khi xuất hiện mệt mỏi mới thôi. Khi tập luyện bài tập sức mạnh có phụ tải, số lần lặp lại có thể từ 20 – 30 lần. Cho đến 150 lần. Sự biến động của chỉ số này căn cứ vào đặc điểm về trình độ huấn luyện, trình độ kỹ thuật của vận động viên môn chuyên sâu và đặc điểm bài tập được sử dụng. Thời gian của 1 lần tập luyện tĩnh lực có thể từ 10-12 giây đến 20-30 giây. Điều này căn cứ vào trình độ huấn luyện của vận động viên và phụ tải lớn hay nhỏ mà quyết định. Khi vận dụng các bài tập huấn luyện chuyên sâu, thời gian tập luyện của chúng ở mức độ lớn, được xác định bởi đồ dài của cự ly môn chuyên sâu mà họ tham gia tập luyện. Có thể từ 30 giầy đến 2 phút, tình huống cá biệt có thể đạt từ 5-10 phút. 5. Thời gian và tính chất của nghỉ giữa. Thời gian nghỉ giữa có thể bố trí từ 30 – 90 giây. Điều này được quyết định bởi thời gian tập luyện và số lượng cơ tham gia làm việc nhiều hay ít. Nếu như thời gian tập luyện tương đối ngắn (từ 20 – 60 giây) mà cần phải làm cho mệt mỏi tích lũy thì nên tiến hành lần tập luyện tiếp sau khi mà năng lực làm việc chưa được hồi phục hoàn toàn. Thời gian nghỉ giữa có thể căn cứ vào tình hình hồi phục của mạch đập mà xác định, khi mạch đập hồi.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> phục xuống 120-140 lần/phút thì có thể tiến hành lần tập luyện tiếp theo. Nếu như thời gian tập luyện tương đối dài (từ 2-10 phút) và mong muốn mỗi lần tập đều có thể đạt được hiệu quả tốt, thì thời gian nghĩ giữa nên đạt được mức làm cho năng lực làm việc đã hồi phục như mới bắt đầu tập luyện hoặc ít nhất cũng tiếp cận năng lực trước khi tập luyện. 6. Số lần lặp lại trong một buổi tập (giáo án). Nếu như trong một buổi tập, nội dung nâng cao sức mạnh bền là một trong những nội dung tập luyện thì thông thường số lần lặp lại không vượt quá 10-12 lần. Nếu như cả buổi lên lớp chỉ có một nội dung là nâng cao sức mạnh bền, thì số lần lặp lại có thể tăng lên từ 40-50 lần. Ví dụ vận động viên bơi lội ưu tú của Cộng hòa dân chủ Đức (cũ) thường áp dụng cách này để nâng cao sức mạnh bền: 20 lần tập luyện thành một tổ, tập 2 tổ như vậy, mỗi lần tập hết 1 phút, thời gian nghỉ giữa các lần tập là 15 giây. Như vậy, kể cả nội dung khởi động, nội dung của phần này ước tính mất 1 giờ. Câu 32: Sức mạnh tĩnh có những đặc điểm gì? Sức mạnh của cơ bắp được biểu hiện khi có sự đối kháng với lực cản cố định được gọi là sức mạnh mang tính tĩnh lực. Cơ bắp khi biểu hiện sức mạnh tĩnh lực thì độ dài của nó cơ bản là không thay đổi, nhưng trương lực của cơ thì tăng lên. Sức mạnh tĩnh lực cực đại là sức mạnh lớn nhất mà cơ bắp có thể đạt được. Sức mạnh đơn thuần lớn nhất mang tính động lực ở cơ bắp nào đó không thể vượt qua trị số lớn nhất của sức mạnh tĩnh lực của chính nó. Sự biểu hiện sức mạnh mang tính tĩnh lực, có đặc tính lực chọn đối với góc độ của các khớp. Sự lựa chọn đó có ý nghĩa nói là: sức mạnh tĩnh thu được trong việc sử dụng góc độ khớp khi tiến hành huấn luyện. Chỉ có ở góc độ.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> này mới biểu hiện ra đầy đủ. Nếu như góc độ khớp thay đổi thì cần phải tiến hành tập luyện ở góc độ khớp đó mới có thể đạt được trị số lớn nhất về sức mạnh tĩnh. Khi huấn luyện sức mạnh tĩnh cần xem xét các vấn đề sau: 1. Một số lần co cơ và cường độ co cơ. Các nhà khoa học Đức chỉ ra rằng: Mỗi tuần tập luyện 5 lần, huấn luyện dùng sức mạnh tối đa, thời gian co cơ là 5 giây có hiệu quả tốt nhất. Phương pháp tập luyện dùng sức mạnh tốt nhất để co cơ với số lần lặp lại là 5 -10 lần của một lần tập, trong thực tiễn dễ làm được. Bởi vì dùng tỷ lệ phần trăm để thẩm định co cơ tĩnh lực lớn hay nhỏ, cần phải có máy chuyên dụng đặc biệt. Ví dụ như có thể dùng người đứng trên cái cân, hai tay bám trên 2 thanh sắt cố định dưới đất, căn cứ vào vị trí số kim chỉ lớn hay nhỏ mà xác định phần trăm dùng tĩnh lực. Nếu có điều kiện có thể dùng sự điều chỉnh tỷ lệ phần trăm lớn hay nhỏ của sức mạnh co cơ để tăng trưởng sức mạnh tĩnh lực, song cường độ co cơ không được dưới 25% sức mạnh tối đa. 2. Chu kỳ và số lần huấn luyện mang tính tĩnh lực. Huấn luyện sức mạnh tĩnh lực trong thời kỳ đầu huấn luyện, có thể mỗi tuần bố trí 5 lần, nhưng cũng có những quan điểm cho rằng chỉ cần huấn luyện 3 lần mỗi tuần, cũng có thể thúc đẩy sự phát triển của sức mạnh tĩnh và sức bền tĩnh lực. Song bất kể mỗi tuần huấn luyện mấy lần thì cũng phải làm sao nâng cao được sức mạnh tĩnh lực và ít nhất cũng nên huấn luyện từ 4 đến 6 tuần. Nếu muốn có sự nâng cao lớn hơn thì chu kỳ huấn luyện cũng phải dài hơn. 3. Góc độ của khớp..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Nếu muốn nâng cao sức mạnh tĩnh ở một góc độ dùng lực nào đó, thì trong khi huấn luyện phải chọn lựa các bài tập có góc độ của khớp phù hợp. Nếu như muốn nâng cao một cách toàn diện sức mạnh tĩnh một bộ phận nào của cơ thể thì trong huấn luyện phải tiến hành tập luyện riêng cho từng góc độ khác nhau, nếu chỉ dựa vào huấn luyện ở một góc độ thì không ổn định, vì đây là điểm riêng biệt của huấn luyện sức mạnh tĩnh. Do đó, khi cần nâng cao sức mạnh tĩnh trong một động tác then chốt nào đó, khi huấn luyện nên sử dụng góc độ tương đồng với góc độ động tác. 4. Sử dụng phương thức huấn luyện “tính công năng” Huấn luyện sức mạnh mang “tính công năng” trên thực tế là một loại hình thức tập luyện kết hợp giữa hai loại co cơ đẳng trương và đẳng trường. Khi động tác bắt đầu, trước tiên cho cơ bắp co cơ theo đẳng trương tốc độ nhanh hoặc bộc phát, rồi sau đó cố định bất động chuyển sang duy trì cơ co đẳng trường trong một số giây…Phương pháp huấn luyện này có thể đạt được hiệu quả của 2 loại co cơ đẳng trương và đẳng trường. Thời gian duy trì sức mạnh tĩnh trong cách huấn luyện này là từ 3-7 phút thích hợp. 5. Sắp xếp huấn luyện trong chu kỳ nhỏ. Nếu như trong chu kỳ nhỏ mà bố trí tập luyện mang tính động lực và tĩnh lực, thì tốt nhất nên bố trí huấn luyện động lực ở ngày thứ 2 và thứ 5, còn huấn luyện tĩnh lực ngày thứ 3 và thứ 6, ngày thứ 4, thứ 7 và chủ nhật thì dùng để điều chỉnh và nghỉ ngơi. Câu 36: Tố chất vận động là gì? Nó do các bộ phận nào cấu thành? Tố chất vận động là tên gọi chung của năng lực cơ thể hoàn thành nhanh động tác và thời gian phản ứng động tác. Cũng có thể giải thích một.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> cách đơn giản: Tố chất tốc độ là năng lực tiến hành các vận động với tốc độ nhanh của cơ thể (hoặc một bộ phận nào đó của cơ thể) Tố chất tốc độ bao gồm 3 bộ phận: - Tốc độ phản ứng, tốc độ đơn giản hoặc phức tạp, tức là thời gian tiềm phục của phản ứng động tác. - Tốc độ của động tác đơn là mức độ lớn nhỏ của tốc độ và gia tốc mà một bộ phận nào đó của cơ thể biểu hiện ra khi hoàn thành động tác với điều kiện không có lực cản bên ngoài. - Tần số của động tác là số lượng động tác được hoàn thành trong một đơn vị thời gian. Tố chất tốc độ cũng giống như tố chất sức manh. Hiện tại được người ta gọi là năng lực tốc độ. Nguyên do là vì sự biểu hiện tốc độ không phải là sự biểu hiện đơn thuần một mình nó, cũng không phải là sự biểu hiện của bản chất. Ba phần nói trên vẻn vẹn chỉ là vì đòi hỏi phân tích về mặt lý luận mới đem chia ra riêng biệt như vây để làm thành đối tượng nghiên cứu. Trong thực tiễn thì 3 bộ phận này và những nhân tố và kỹ thuật, nhịp điệu, sức mạnh….quấn quyện với nhau. Trong một số cuốn sách thì đem tốc độ chuyển dịch vị trí trong các môn chu kỳ, tức là năng lực vượt qua một cự ly nhất định trong một đơn vị thời gian, coi đó là nhân tố tạo thành tố chất tốc độ. Điều đó cũng là xuất phát từ nguyên nhân này. Tốc độ duy chuyển không thể được làm thành thành phần cấu tạo nên tố chất tốc độ, mà trên thực tế nó là một tổng hòa của tố chất sức mạnh, sức bền, mềm dẽo, kỹ thuật và nội dung 3 bộ phận tạo thành tố chất tốc độ nói ở trên. Nó là một trong những hình thức biểu hiện tố chất tốc độ. Những phần được tạo thành tố chất tốc độ được biểu thị ở sơ đồ sau..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Tố chất tốc độ. Tốc độ phản ứng. Tốc độ động tác. Tần số động tác. Câu 46: Thế nào là tố chất sức bền? Trong thực tế nó có các loại hình biểu hiện nào? Tốc chất sức bền là chỉ năng lực của cơ thể khắc phục mệt mỏi sản sinh trong quá trình hoạt động; còn mệt mỏi là sự giảm sút tạm thời năng lực làm việc của cơ thể do làm việc tạo ra, biểu hiện của mệt mỏi là sự làm việc tương đối khó khăn hoặc hoàn toàn không thể tiếp tục làm việc theo cường độ trước đó. Ví như có một người nào đó hoàn thành một công việc nào đó trong điều kiện tương đối căng thẳng qua một thời gian ngắn thì anh ta sẽ cảm giác thấy hoàn thành công việc đó không nhẹ nhàn và thoải mái như lúc ban đầu mà sản sinh căng thẳng, mồ hôi nhễ nhại…lúc này mặc dù hoàn thành công việc khó khăn hơn trước, nhưng do có ý chí ngoan cường chi phối, trong một giai đoạn thời gian nhất định vẫn có thể bảo đảm duy trì được cường độ làm việc như giai đoàn này. Lúc này thuộc về giai đoạn mệt mõi mang tính có thể bù đắp được. Nếu như với ý chí chủ quan của mình vẫn muốn khắc phục sự căng thẳng đã sản sinh ra bởi thể lực, nhưng cường.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> độ làm việc vẫn giảm xuống, lúc này thuộc về giai đoạn mệt mõi mất sự bù đắp. Căn cứ vào sự khác nhau của đặc trương hoạt động, mệt mỏi có thể phân ra: Mệt mỏi về trí lực và mệt mỏi về phương diện cảm giác, mệt mỏi về thể xác (thể lực), và mệt mỏi về tinh thần (tình cảm). Sự mệt mỏi về thể xác được tạo ra bởi sự hoạt động của cơ bắp có một ý nghĩa trong quá trình huấn luyện thể thao. Tốc chất sức bền ở đây chủ yếu nói lên khả năng khắc phục sự mệt mỏi của cơ thể trong quá trình hoạt động thể thao. Trong thực tiễn, sức bền thể lực có thể phân thành: Sức bền ưa khí (aerobis) và sức bền yếm khí (anaerobis). Sức bền yếm khí có thể phân thành sức bền hệ thống cung cấp năng lượng (ATP, CP) phốt pho rin và sức bền hệ thống cung cấp năng lượng lác tát. Đây là sự phân chia loại hình sức bền từ trạng thái năng lực làm việc của hệ thống cung cấp năng lượng. Nếu quan điểm xem sức bền chỉ là làm việc trong một thời gian dài mới có tác dụng chỉ là sai lầm. Kỳ thực là có tình hình mệt mỏi sản sinh thì ắt có vấn đề sức bền. Từ tình hình cung cấp năng lượng mà xem xét chạy 100m có thể phân ra làm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 là giai đoạn phản ứng; giai đoạn 2 là giai đoạn tăng tốc; giai đoạn 3 là giai đoạn duy trì tốc độ cao nhất; giai đoạn 4 là giai đoạn tốc độ giảm. Giai đoạn thứ 4 ATP và CP và sản sinh ra tình trạng năng lượng yếm khí mang tính axit lactic. Làm thế nào để nâng cao dự lượng dự trữ nguồn năng lượng ATP và CP trở thành vấn đề sức bền của chạy 100m. Trong thực tiễn, từ góc độ chuyên môn mà xem xét thì sức bền có thể chia thành sức bền chung và sức bền chuyên môn. Trong bất kỳ môn thể thao nào, sức bền vẫn là một năng lực đa nhân tố. Do đó sức bên chung của vận động viên là tương đối so với sức bền chuyên môn mà thôi, nó là sự.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> tổng hợp đặc trưng các loại cơ năng và cơ thể của vận động viên. Đặc trưng các cơ năng nói ở đây không có ý chỉ đối với một bộ phận đặc biệt cần của hoạt động chuyên môn nào đó. Nhìn chung nó có các đặc điểm sau đây: - Thời gian duy trì hoạt động dài. - Hoạt động liên tục. - Cường độ không lớn lắm. - Các nhóm cơ lớn đều tham gia hoạt động. - Hệ thống tim mạch có sự bảo đảm tương đối tốt. Trong thực tiễn không thể đem sức bền chung đổ đồng như nhau với sức bền ưa khí một cách đơn giản. Chỉ có thể coi nó như cơ sở của sức bền chuyên môn và nó biểu hiện trên nhiều phương diện. Sức bền chuyên môn là chỉ năng lực chức năng cơ thể được động viên tới mức tối đa cho thành tích môn chuyên sâu trong điều kiện có phụ tải chuyên môn, là năng lực chống lại mệt mỏi. Sức bền chuyên môn có thể dung chỉ tiêu chuyên môn để xác định (trong cuốn sách này sẽ trình bày vấn đề này ở mục khác). Câu 47: Nhân tố nào ảnh hưởng tới tố chất sức bền? Tố chất sức bền có liên hệ chặt chẽ với tố chất khác của vận động viên, nó là một năng lực đa nhân tố. Những nhân tố ảnh hưởng tới nó ngoài cấu trúc tổ chức cơ thể bẩm sinh ra, như tỷ lệ cấu thành sợi cơ màu sẫm, màu sáng của cơ bắp và đặc trưng thần kinh ra, còn có những nhân tố ảnh hưởng sau: 1. Đặc trưng cá tính tâm lý của vận động viên. Tính ham thích và động cơ hoạt động của vận động viên cùng với những phẩm chất, ý chí khác của vận động viên như: Tính chủ động, tính.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> kiên trì, mức độ nỗ lực, tính ổn định tâm lý của vận động viên, đối với các hoạt động sẽ diễn ra và các phẩm chất ý chí khác đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sức bền. 2. Năng lực chức năng trao đổi và thu được năng lượng khi cơ thể hoạt động. Khi cơ thể hoạt động, việc cung cấp năng lượng, việc đảm bảo trao đổi năng lượng cũng như năng lượng thu được, đó là một năng lực chức năng của hệ thống cung cấp năng lượng. Trong đó việc tính trữ các loại năng lượng của cơ thể vận động viên, việc tiến hành và huy động quá trình trao đổi năng lượng…đối với tố chất sức bền cũng có ảnh hưởng rất lớn. 3. Tính ổn định chức năng cơ thể. Tính ổn định chức năng cơ thể giúp cho các hệ thống trong cơ thể khi mệt mỏi phát triển, môi trường bên trong cơ thể phát sinh sự thay đổi, thì tính tích cực của chức năng vẫn duy trì được ở mức độ cần thiết. 4. Sự tiết kiệm hóa chức năng cơ thể, sự hoàn thiện về nhịp điệu và sự phân phối hợp lý sức mạnh. Sự tiết kiệm hóa chức năng chủ yếu biểu hiện ở chỗ: Cùng với tăng trưởng trình độ huấn luyện, sự giảm thiểu tiêu phí năng lượng trong một đơn vị thời gian hoạt động; việc hoàn thiện về nhịp điệu có thể làm giam tối thiêu năng lượng hao phí không cần thiết; việc phân bố hợp lý sức mạnh thì có thể nâng cao mức lợi dụng và hiệu suất của năng lượng. Tất cả những điều này đều trực tiếp quyết định hiệu suất sử dụng năng lượng dự trữ của cơ thể. Rất nhiều chỉ tiêu trong các nhân tố nói trên có thể dụng để đánh giá nhất định đối với chất lượng, số lượng và tỷ trọng sức bền trong các môn thể.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> thao. Ví dụ: có thể dùng rất nhiều chỉ tiêu về năng lực ưa khí và yếm khí của cơ thể. Để phân biệt sự cấu tạo thành năng lượng cung ứng và đặc trưng chức năng của nó. Như vậy oxy cần thiết lớn nhất khi hoạt động (VO 2max), Thời gian cực hạn khi đạt VO2max, ngưỡng vô dưỡng không có oxy (anaerbis), nồng độ axic lactic khi tiến hành hoạt động nợ dưỡng… Câu 51: Thế nào là tố chất mềm dẻo? Có mấy loại tố chất mềm dẻo? Tố chất mềm dẻo là chỉ biên độ hoạt động của các khớp xương và khả năng vươn duỗi ra của gân, dây chằng, cơ bắp. Tố chất mềm dẻo có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thể thao, tổ chất mềm dẽo có tác dụng khác nhau ở các môn thể thao khác nhau. Tố chất mềm dẻo được phân ra làm 2 loại: Tố chất mềm dẻo chung và tố chất mềm dẻo chuyên môn. Tố chất mềm dẻo chung là tố chất mềm dẻo nhằm thích ứng và đảm bảo yêu cầu của công tác huấn luyện chung của vận động viên khi tiến hành huấn luyện được thuận lợi. Ví dụ: khi tập tốc độ cho vận động viên bóng nhằm nâng cao độ dài bước chạy phải cần đến tính mềm dẻo của khớp đùi, còn vận động viên điền khi gánh tạ đòn tập ngồi xuống đứng lên đòi hỏi nhóm cơ sau đùi phải có tính mềm dẻo. Tố chất mềm dẻo mang tính chuyên môn là sự mềm dẻo mà kỹ thuật thể thao cần đến. Ví dụ: Vận động viên thể dục dụng cụ để hoàn thành việc tập luyện với các loại dụng cụ cần có sự hoạt động của các bộ phận như khớp vai, lưng, hông, chân với biên độ hoạt động lớn, hoặc như vận động viên bợi lội trong thi đấu cần sự hoạt động với biên độ lớn của khớp vai và lưng. Tố chất mềm dẻo chuyên môn được dựa trên cơ sở của tố chất mềm dẻo chung. Nhìn chung, tố chất mềm dẻo tối thiểu có tính tuyển lựa, vì vậy tính mềm dẻo cần có ở mỗi bộ phận của một cơ thể trong các.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> môn thể thao khác nhau đều có thể biểu hiện ra, chỉ khác là biên độ lớn hay nhỏ mà thôi. Câu 52: Những nhân tố nào ảnh hưởng đến tố chất mềm dẻo? 1. Tính đàn hồi của tổ chức cơ và dây chằn. Tính đàn hồi của tổ chức cơ và dây chằn không chỉ được quyết định bởi đặc tính về tuôi tác, về giới tính mà còn phụ thuộc vào sự hứng phấn của hệ thần kinh trung ương. Dưới sự ảnh hưởng của hệ thần kinh trung ương, tính đàn hồi của cơ diễn ra sự thay đổi rõ rệt. Như trong khi thi đấu, khi hưng phân dân cao thì tính mềm dẻo cũng được nâng lên. 2. Cấu trúc của khớp xương: Kết cấu của khớp xương là nhân tố ảnh hưởng rất khó thay đổi đối với tính mềm dẻo, bởi vì cái chính là do tính duy truyền quyết đinh. Tuy rằng dưới tác dụng của huấn luyện cấu trúc của xương có thay đổi cục bộ (ví dụ như sự biến đổi hình thái phần mềm của xương trong các khớp). Nhưng sự biến đổi này chỉ có thể trong phạm vi cấu trúc xương của khớp thôi. 3. Thể tích lớn, nhỏ của các tổ chức xung quanh các khớp xương. Mức độ to, nhỏ về thể tích của tổ chức xung quanh các khớp có tác dụng hạn chế sự hoạt động của các khớp. Điều này một mặt chịu sự ảnh hưởng duy truyền ngoại ra còn chiệu sự ảnh hưởng hiệu quả của huấn luyện. Thông qua công tác huyến luyện luôn làm tăng lên thể tích của các tổ chức xung quanh khớp, thúc đẩy sự phát triển của tố chất mềm dẻo. Ví dụ như việc tăng lớn thể tích cơ bắp làm ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động của các tổ chức bao quanh các khớp. Trong 3 nhân tố đã nêu ở trên thì nhân tố thứ 3 có ảnh hưởng rất lớn trong việc nâng cao tính mềm dẽo. 4.Tính linh hoạt của sự chuyển đổi quá trình thần kinh..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Tính linh hoạt của sự chuyển đổi giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh và trương lực cơ bản của cơ bắp trong hoạt động thể thao có mối quan hệ vớ nhau. Đặt biệt là cải thiện tính nhịp nhàng giữa sự điều tiết của hệ thần kinh trung ương đối với cơ đối kháng và năng lực điều tiết quá trình căng cơ và thả lỏng của cơ bắp. Do mức độ phát triển của ức cheesphaan biệt trong quá trình thần kinh có tác dụng rất quang trọng đối với khả năng thả lỏng tự nhiên của cơ bắp của vận động viên, do đó đối với tố chất mềm dẻo cũng có mối quan hệ mật thiết. 5. Mức độ căng thẳng về tâm lý. Mức độ căng thẳng về tâm lý có thể thong qua ảnh hưởng của hệ thống thần kinh trung ương tác động đến trạng thái hoạt động của các bộ phận cơ thể. Mức độ căng thẳng tâm lý nếu quá mạnh, quá lâu sẽ dẫn đến làm cho quá trình thần kinh từ hưng phấn chuyển sang ức chế, làm ảnh hưởng quan trọng đến khả năng điều tiết đối với các bộ phận, từ đó ảnh hưởng đến tính mềm dẻo. 6. Nhiệt độ của môi trường bên ngoài và thời gian trong ngày. Nếu nhiệt độ tự nhiên trên 180C là nhiệt độ lý tưởng phù hợp với sự biểu hiện (phát huy) của tố chất mềm dẻo, còn dưới 18 0C thì rất bất lợi. tính mềm dẻo trể hiện ở các mốc thời gian khác nhau trong ngày cũng không giống nhau. Tuy nhiên sự thay đổi này có liên quan đến nhiệt độ thay đổi trong một ngày, nhưng điều quan trong hơn là sự biến đổi nhất định về trạng thái về trạng thái cơ năng của cơ thể trong ngày đó. Ví dụ: vừa mới ngũ dậy sự mềm dẻo kém, buổi sáng sớm kém rõ nhất, còn buổi trưa so với buổi sáng thi tốt hơn..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> 7. Tính mềm dẻo chủ động có quan hệ trực tiếp với sức mạnh của cơ bắp. Sức mạnh lớn, tính mềm dẻo chủ động tốt. Nhưng tập sức mạnh có thể khiến cho tính linh hoạt của khớp bị hạn chế. Song sự ảnh hưởng không tốt này là hoàn toàn có thể khắc phục được. Nếu biết kết hợp sử dụng phương pháp hợp lý giữa tập luyện sức mạnh và tập luyện mềm dẻo, có thể phát triển hai tố chất này đạt đến một mức độ cao. 8. Mức độ mệt mỏi. Trong tình trạng mệt mỏi, tố chất mềm dẻo có sự thay đổi lớn lúc này chỉ tiêu tố chất mềm dẻo chủ động hạ thấp, ngược lại chỉ tiêu tố chất mềm dẻo bị động lại tăng cao. Ngoài ra, việc khởi động tốt hay xấu, thời gian huấn luyện ngăn hay dài…cũng có sự ảnh hưởng tương đối rõ nét đối với tố chất mềm dẻo. Câu 64: Huấn luyện kỹ thuật cần chú ý những gì? 1. Xây dựng khái niệm kỹ thuật đúng. Việc xây dựng một khái niệm chính xác về kỹ thuật của vận động viên là tiền đề để tiền tới nắm vững kỹ thuật một cách chính xác. Khái niệm kỹ thuật không chính xác sẽ dẫn đến kỹ thuật động tác sai. Khi định hình động lực của động tác sai đã được hình thành và củng cố thì rất khó sửa chữa. Cuối cùng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tương lai phát triển của vận động viên. 2. Phải đứng trên góc độ tổng thể mà tiến hành phân tích tính phức tạp của kỹ thuật động tác chuyên môn cần làm cho vận động viên ngay từ đầu phải tạo điều kiện tiền đề cần thiết để nắm vững kỹ thuật chuyên sâu hợp lý..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Kỹ thuật chuyên sâu là biện pháp nhằm đạt thành tích cao, cấu tạo của nó phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi nhiều loại nhân tố. Nếu muốn nắm chắc kỹ thuật chuyên sâu một cách hợp lý, Nhất thiết phải có một nền tảng về thể lực, về tâm lý. Những cơ sở này không phải ngày một, ngày hai mà huấn luyện nên, do đó đối với mỗi vận động viên trong quá trình huấn luyện nhiều năm cần phải đặt ra cho minh mục tiêu cụ thể để nổ lực phấn đấu. Đó là điều kiện để sáng tạo ra thành tích, tránh được sau này phải học lại và sửa chữa các động tác khác như vậy sẽ tốn rất nhiều công sức. 3. Trong quá trình huấn luyện kỹ thuật cần nghiêm chỉnh tuân thủ quy luật giảng dạy chung. Quá trình huấn luyện kỹ thuật không giống với huấn luyện thể lực vì những phương pháp những biện pháp sử dụng để huấn luyện thể lực phải phù hợp với yêu cầu của quá trình dạy học nếu không sẽ không thu được hiệu quả tốt. Càng không thể dùng huấn luyện thể lực để thay thế quá trình học tập kỹ thuật động tác cần thiết. 4. Nên bố trí xắp sếp một cách hợp lý huấn luyện thể lực trong huấn luyện kỹ thuật có như vậy mới thúc đẩy việc hoàn thành huấn luyện kỹ thuật một cách tốt nhất. Việc nắm vững động tác được xác lập trên cơ sở huấn luyện thể lực nhất định của vận động viên. Sự phát triển của tố chất thể lực có thể thúc đẩy kỹ thuật động tác đạt đến chỉ tiêu dự định, nên không thể xem thường huấn luyện thể lực. 5. Kỹ thuật động tác đã được nắm vững cần phải đạt đến yêu cầu chuẩn xác, thuần thục phù hợp với thực tiễn thi đấu. Mục đích cuối cùng của việc huấn luyện kỷ thuật là làm sao phát huy cao độ khả năng hoạt động của cơ thể vận động viên trong thi đấu thể thao..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Do đó, các loại chỉ tiêu của kỹ thuật động tác đã nắm vững cần phải nỗ lực phấn đấu đạt được yêu cầu như trong thi đấu. Cần phải đưa động tác đã nắm vững vào thực tiễn rèn luyện, tập luyện đạt đến trình độ cao về cường độ rèn luyện trong môi trường… Có như vậy mới có thể đảm bảo được thi đấu trong tương lai đạt trình độ chính xác, điêu luyện và giành được hiệu quả tối ưu. 6. Trong từng thời gian và giai đoạn của quá trình huấn luyện khác nhau. Việc huấn luyện kỹ thuật cần có nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau, cần phải mang tính kế hoạch, tính hệ thống, tính kế thừa liên tục. Xem xét từ các thời kỳ của chu kỳ lớn, các giai đoạn lớn của hệ thống huấn luyện nhiều năm thì nhiệm vụ mỗi giai đoạn, chu kỳ, thời kỳ huấn luyện cũng khác nhau; huấn luyện kỹ thuật nên thích ứng với nhiệm vụ huấn luyện khác nhau đó, chỉ có như vậy mới có thể đảm bảo cho vận động viên “thành tài” một cách thuận lợi. 7. Trong quá trình huấn luyện kỹ thuật cần chú ý học tập lý luận và huấn luyện tâm lý. Bản thân việc huấn luyện kỹ thuật cũng bao hàm thành phần huấn luyện tâm lý, tư duy, biểu tượng và động cơ tập luyện của vận động viên… cũng có tác dụng trong quá trình huấn luyện. Do đó cần đặc biệt coi trọng huấn luyện tâm lý và học tập lý luận, những điều này là những nhân tố làm thay đổi năng lực tư duy và nhận thức tư tưởng của vận động viên. 8. Cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của vận động viên, sở trường cá nhân của vận động viên.. Câu 66: Chiến thuật là gì? Chiến thuật do bộ phận nào cấu thành?.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Chiến thuật là nghệ thuật tiến hành thi đấu thể thao – nó là mưu kế và hành động được sử dụng nhằm đạt được mục đích của thi đấu bằng năng lực của mình (đội mình) được phát huy một cách hợp lý (nó bao gồm năng lực kỹ thuật, thể lực và tâm lý) với việc sử dụng sự tiêu hao các mặt thất nhất để khắc phục sự chống lại của đối phương dựa trên điều kiện thi đấu và tình hình thi đấu của hai đội. Xuất phát điểm của việc đặt ra chiến thuật là phương châm chủ yếu của trận đấu được xác định trước trận đấu. Ở đây phương châm cơ bản của thi đấu là những dự kiến về tổ chức các hoạt động, khắc phục sự chống đở của đối phương nhằm đạt được mục đích trong trận đấu. Ví dụ mục đích của vận động viên tham gia thi đấu lần này là lặp kỷ lục mới về môn chạy, thì phương châm của anh ta là khả năng phân phối thể lực trọng quá trình chạy một cách hợp lý, dần dân nâng thành tích vốn có của mình, hoặc phấn đấu ở giai đoạn nước rút về đích, hoặc phấn đấu đừng để bản than ở vào tư thế bất lợi… bất cứ đội bóng nào tham gia thi đấu đều muốn đạt được chiếc cúp vô địch, do đó bất cứ phương châm cơ bản nào cũng cần phải làm cho vận động viên chủ lực của đối phương ở thế bất lợi, mặt khác cũng phải khống chế (hạn chế) đấu thủ chủ… Thậm chí trong trường hợp đặt biệt, vận động viên của đôi tham gia thi đấu không thể giành được phần thắng, thì ít nhất phương châm cơ bản cũng có thể làm cho đối phương không thắng nổi mình – tức là hòa. Chiến thuật được cấu thành do 3 bộ phận sau: Tri thức chiến thuật, hành động chiến thuật và ý thức chiến thuật. Tri thức chiến thuật là sự nắm vững kiến thức về những vấn đề có liên quan đến việc cấu thành chiến thuât. Tri thức chiến thuật bao gồm:.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> - Hình thức tổ chức thi đấu (đội hình thi đấu), sự phối hợp của các cầu thủ trong đội về quy trình thi đấu và những nhân tố đội mình có thể lợi dụng được ở những phương diện này. - Vận dụng luật thi đấu một cách hợp lý, tạo ra những điều kiện có tác dụng tốt nhất cho thi đấu. Trong phạm vi cho phép của luật, cần vận dụng hết khả năng có lợi cho đội mình. - Đặc điểm chuyên sâu là hình thức hợp lý của sự thể hiện và nguyên tắc thể hiện trong chiến thuật. - Trào lưu phát triển chiến thuật chuyên môn. - Tình hình của đối phương bao gồm: Đặc điểm huấn luyện, đặc điểm chiến thuật thường dung, điểm mạnh, yếu về thể lực của đối phương, những quy luật, thói quen của họ được thể hiện qua quá trình tham gia thi đấu… Tất nhiên, tính linh hoạt, độ tin cậy, tính hợp lý trong thực tiễn, trong ý thức chiến thuật của vận động viên chủ yếu được quyết định bởi việc nắm vững nhiều hay ít một số kiến thức nói trên. Hành động chiến thuật là sự biểu hiện một cách cụ thể các loại hình kỹ thuật động tác và các hoạt động cần thiết khác về ý đồ chiến thuật đã dự định. Kỹ thuật động tác của ý đồ chiến thuật dự định cụ thể là động tác cần thiết, có chọn lựa kỹ để thực hiện có hiệu quả ý đồ này; Ngoài ra các hoạt động khác cũng cần được bố trí sắp xếp cũng nhằm mục đích thực hiện ý đồ này. Nội dung chủ yếu của hành động chiến thuật nói trên có thể bao gồm: - Sự phối hợp và sự biến hóa động tác một cách hợp lý trong thi đấu. Sự phối hợp và biến hóa của động tác trong thi đấu được tiến hành dựa trên tình hình trận đấu. Điều này do thói quen của bản thân trong thực tế thi đấu chuyên môn quyết định. Ví dụ: Đối với môn thể thao mang tính chu kỳ thì.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> căn cứ vào sự thay đổi thể lực của đối phương rồi quyết định. Còn đối với các môn thể thao 1 đối 1 và các môn bóng thì cần phải căn cứ một cách tổng hợp về sự biến đổi động tác tấn công, đòn phản kích, sự phòng thủ của đối phương mà quyết định. - Phương pháp phân phối thể lực trong quá trình thi đấu. - Phương pháp gây ảnh hưởng về mặt tâm lý cho đối phương và phương pháp che đấu ý đồ chiến thuật của chính mình. Ví dụ: Trước khi thi đấu hoặc trong quá trình khởi động vận động viên biểu hiện lòng tin đối với trận đấu và tình hình chuẩn bị cho trận đấu, hoặc không để lộ ra năng lực của bản thân cho đến thời điểm quyết định mới thể hiện thực lực đích thực của mình. Ý thức chiến thuật – phát triển theo hành vi chiến thuât. Nó được phản ảnh chủ yếu qua năng lực của vận động viên, nó thể hiện qua quá trình thực hiện cụ thể của hành động chiến thuật. Ý thức chiến thuật của vận động viên được biểu hiện trước tiên là sự tự giác thực hiện những hành động chiến thuật đã dự định trước một cách tích cực. Chủ động trong quá trình thi đấu; Sau đó là khả năng đối phó (khả năng ứng biến) của vận động viên. Khả năng ứng biến bao gồm: - Cảm giác phán đoán, phân biệt nhanh chóng các thông tin có tác dụng quan trọng đối với ý đồ chiến thuật dự định. - Trong quá trình thi đấu căn cự vào tình hình 2 mặt đã nói ở trên tìm ra các phương pháp đơn giản, tối ưu để đạt được thành công và tạo ra khả năng thực hiện của huấn luyện kỹ thuật, huấn luyện thể lực, huấn luyện trí lực và tự giáo dục của vận động viên. Câu 67: Nhiệm vụ và nội dung của huấn luyện chiến thuật là gì?.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Huấn luyện chiến thuật là một bộ phận của toàn bộ nội dụng huấn luyện, nó có mối quan hệ rất mật thiết với huấn luyện kỹ thuật và huấn luyện thể lực. Thông qua huấn luyện chiến thuật vận động viên cần phải làm được những công việc sau: Phải nắm thuần thục các loại hành động chiến thuật dự định và vận dụng một cách như ý trong những tình huống thi đấu khác nhau và trong mọi điều kiện của trận đấu. - Biết quan sát và phân tích tình hình, đi đến chỗ tìm hiểu và quyết định loại chiến thuật nên sử dụng thích hợp và được thực thi từ suy nghĩ đến hành động trong một thời gian rất ngắn. - Một mặt cần tiết kiệm sức lực của bản thân trong thi đấu, mặt khác cần phát huy tới mức tối đa sức mạnh vốn có, nhằm khống chế đối phương phát huy sở trường (mặt mạnh). Từ đó, chiến thắng đối thủ hoặc giành được những thành tích xuấn sắc nhất. - Trong điều kiện thi đấu cực kỳ khó khăn biết vận dụng một cách có thể, để thực hiện bằng được ý đồ chiến thuật đã hoạch định trước. - Có khẳ năng độc lập trong sửa đổi tổng thể kế hoạch thi đấu và ý đồ chiến thuật dự định, độc lập giải quyết mọi vấn đề chưa lường trước được xảy ra trong quá trình thi đấu. 1. Nội dung cơ bản của huấn luyện chiến thuật bao gồm các mặt sau đây: - Yêu cầu vận động viên phải hiểu rõ luật thi đấu, điều lệ thi đấu và có khả năng vận dụng trong quá trình hoàn thành ý đồ chiến thuật cá nhân và chiến thuật tập thể..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> - Vận động viên phải hiểu được những tri thức thi đấu cần thiết nhất và có biện pháp giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thi đấu. - Vận động viên cần phải có vốn kiến thức của quá trình thi đấu để thông qua đội hình thi đấu mà tự biến hóa sao cho phù hợp. Trong môn thể thao thi đấu đối kháng (1 chọi 1), vận động viên còn phải biết được hiện tại vận động viên giỏi nhất thế giới thường sử dụng những thủ đoạn và phương pháp nào để thi đấu, để từ đó tìm cho mình một cách vận dụng để đối phó. Trong các môn thể thao cá nhân, nhất thiết phải tìm hiểu quy luật kỹ thuật của đối thủ. - Vận động viên còn phải nắm chắc phương thức hành động cơ bản và hoàn thành chiến thuật có đặc thù chuyên môn, những thường thức về chiến thuật, những điều cần ghi nhớ có liên quan đến chiến thuật. Ví dụ: Trong thi đấu môn xe đạp nhìn chung không nên đi trước một mình. - Vận động viên trong quá trình thi đấu phải nắm chắc kỹ thuật động tác để vừa tiết kiệm sức lực vừa mang lại hiệu quả cao. Làm thế nào để lợi dụng được trức trách và sự thay đổi tâm lý của trọng tài và các nhân viên hữu quan. Ở thời điểm nào sử dụng loại chiến thuật nào là có lợi nhất… 2. Nắm vững kỹ xảo của chiến thuật. Kỹ xảo chiến thuật ở đây là chỉ việc thể hiện chiến thuật được biểu hiện thành 1 hệ thống đồng bộ hay tính tri giác, tự động hóa không cần phải đem sức chú ý tập trung vào việc hoàn thành nó. Nói một cách cụ thể: Kỹ xảo chiến thuật là 1 chuỗi động tác đã qua tập luyện thuần thục mà đạt tới mức tự động hóa. Có được một loạt động tác liên tục này, nhiệm vụ chiến.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> thuật cá nhân và tập thể mới được hoàn thành. Nó là một bộ phận trong hành động chiến thuật và là bộ phận chủ yếu cấu tạo thành chiến thuật. Do tình hình trong trận đấu luôn luôn thay đổi, nhất thiết phải sử dụng nhiều loại hình kỹ thuật động tác đễ hoàn thành nhiệm vụ chiến thuật của cùng một môn thể thao hoặc chỉ dung một loại kỹ thuật động tác để hoàn thành nhiệm vụ chiến thuật khác nhau. Do đó, nếu yêu cầu tất cả các chiến thuật đều đạt trình độ tự động hóa thì không thể được. Chính vì thế có thể nói động tác chiến thuật đạt đến mức tự động hóa hoặc thuần thục cũng chỉ là tương đối mà thôi. Bình thường không có sự khác biệt, mà chỉ máy móc vận dụng động tác chiến thuật thì nhất định sẽ dẫn đến phạm sai lầm. Do đó khi phát huy kỷ xảo của chiến thuật cần phải vận dụng một cách linh hoạt biến hóa nhiều, giỏi về năng lực tư duy suy luận đối chiếu, so sánh. Tư duy sáng tạo đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chiến thuật cá nhân cũng có tác dụng rất tốt, song cũng có thể sản sinh tác dụng tiêu cực. 3. Bồi dưỡng năng lực thực hành tư duy chiến thuật. Có rất nhiều bộ phận của việc tư duy chiến thuật được thực thi từ trước khi thi đấu cho đến khi kết thúc thi đấu. Mỗi bộ phận cấu thành trong tư duy chiến thuật trên thực tế là sự thể hiện các loại tri thức và kỹ thuật – thể lực, tâm lý của vận động viên, chính vì vậy yêu cầu vận động viên hàng ngày phải xây dựng và tích lũy các mặt cần thiết này. Nhưng cũng không phải việc vận động viên đã có được những điều này là có thể thực hiện một cách hoàn mỹ không có thiếu sót các ý đồ chiến thuật. Năng lực thực hiện các ý đồ chiến thuật nhất thiết phải được rèn luyện trong một hoàn cảnh nào đó mới có được. Chỉ có trong thi đấu mới là hình thức thực tiễn cao nhất để thực hiện sự rèn luyện này. Do đó, năng lực thực hiện ý đồ chiến thuật được được coi là một trong những nội dung huấn luyện chiến thuật. Đặc điểm.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> huấn luyện của nó mang tính chuyên môn hóa tính thực tiễn và tính phức tạp. Câu 97: Nội dung và yêu cầu chính ở các phần của 1 giáo án huấn luyện ra sao? 1. Phần chuẩn bị. Khi mới bắt đầu nên sử dụng biện pháp tổ chức nhất định để nhanh chóng đưa các vận động viên hướng vào việc tôn trọng kỹ luật, tập trung sự chú ý, để vận động viên thích ứng nhanh chóng với việc tập luyện sẽ tiến hành; Mục đích của phần khởi động là thông qua các bài tập mang tính tổng hợp chuyên sâu đã được chọn lựa làm cho cơ thể vận động viên có một sự chuẩn bị tốt nhất cho bài tâp sắp tới. Chuẩn bị khởi động có thể được chia làm 2 phần: - Phần thứ nhất là phần khởi động chung, mục đích của nó là làm cho hệ thống chức năng quan trọng nhất của cơ thể hoạt động tích cực lên như hệ thống thần kinh trung ương, hệ thống thần kinh thực vật, các cơ quan vận động. - Phần thứ 2 là phần khởi động chuyên môn, mục đích của nó là làm cho các cơ quan vận động có tham gia luyện tập ở các phần chủ yếu của bài tập xuất hiện trạng thái tốt nhất, giúp vận động viên đạt được kết quả tốt nhất ở phần luyện tập cơ bản. Đồng thời làm cho hoạt động chức năng mang tính thực vật tiến them 1 bước, tạo cơ sở đảm bảo có hiệu quả của việc tập luyện các phần cơ bản. Cần căn cứ vào năng lực cá nhân của vận động viên, đặc điểm nội dung phần cơ bản của bài tập, điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài,...để quyết định thời gian khởi động, chọn lựa bài tập, tỷ lệ các loại bài tập, hình thức.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> hoạt động. Thông thường, tỷ lệ khối lượng làm việc của toàn bộ phận chuẩn bị chiếm 15 – 20% tổng lượng của bài tập. 2. Phần cơ bản. Phần này nhằm giải quyết nhiệm vụ chính của bài tập. Bố trí nội dung tập luyện phải căn cứ vào nhiệm vụ của chu kỳ nhỏ mà quyết định. Biện pháp áp dụng trong tập luyện có thể đa dạng, nhưng phải đảm bảo nâng cao đươc trình độ huấn luyện về tố chất thể lực chuyên môn và tâm lý. Kỹ thuật chiến thuật phải được cãi thiện thêm 1 bước. Thời gian của phần cơ bản được quyết định bởi phương pháp, đặc điểm bài tập được sử dụng và mưc độ lớn, nhỏ của lượng vận động huấn luyện. Việc chọn lựa biện pháp tập luyện và số lượng quyết định mục đích và tính chất của lượng vận động bài tập đó. Lượng thực hiện của phần này ước tính chiếm từ 40 – 60% tổng lượng của bài tập. 3. Phần kết thúc. Bố trí phần kết thúc có 2 loại tình huống. Tình huống thứ nhất: Tiến hành bố trí khi hoạt động chức năng của vận động viên giàm xuống một cách tự nhiên. Tình huống thứ hai: Cường độ làm việc giảm khi thời gian bài tập ở vào trạng thái ổn định về sự hoạt động chức năng, làm cho sự hoạt động cơ năng các cơ thể giảm nhanh. Mục đích chủ yếu của việc bố trí ở phần kết thúc này là tạo điều kiện thuật lợi và nhanh nhất cho quá trình hồi phục sau khi tập luyện. Nếu như khi sản sinh hiện tượng mệt mỏi tiềm ẩn thì lượng công việc phần kết thúc nên chiếm từ 30 – 40% tổng lượng bài tập. Nếu như sự mệt mỏi biểu hiện rõ, thì có thể bố trí lượng công việc từ 15 – 20% so với tổng lượng bài tập..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Do cơ thể vận động viên tồn tại có sự khác biệt với nhau, vận động viên ở lứa tuổi thành thiếu niên có nhịp độ trưởng thành rất nhanh, tổng thời gian biến đổi của hoạt động chức năng giữa các vận động viên ở các nhóm lứa tuổi cũng không giống nhau. Do đó, đối với các vận động viên khác nhau cũng cần sử dụng bài tập huấn luyện với thời gian khác nhau, sau đó phân bài tập ra làm 3 phần. Có như vậy mới hợp lý và khoa học. Câu 105: Xây dựng kế hoạch buổi tập (giáo án) như thế nào? Kế hoạch buổi tập tức là giáo án. Nó là chỗ dựa của hoạt động giáo dục và giáo dưỡng của huấn luyện viên, là sự biểu hiện cụ thể của các loại kế hoạch và là sự biểu hiện cụ thể ý đồ của huấn luyện viên. Các bước tiến hành soạn giáo án huấn luyện gồm có: 1. Trước tiên là tìm hiểu tình hình về sân bãi, thiết bị dụng cụ, khí hậu và tình trạng sức khỏe của vận động viên. 2. Căn cứ vào kế hoạch của chu kỳ nhỏ mà tiền hành cụ thể hóa nhiệm vụ. Việc cụ thể hóa này được thể hiện dựa trên việc chon lựa phương pháp, biện pháp được sử dụng đối với nội dung ở phần cơ bản của giáo án. 3. Căn cứ vào phương pháp và biện pháp được sử dụng ở phần cơ bản của giáo án mà chọn cách tiến hành khởi động tương ứng và luyện tập bổ trợ cho phù hợp,… 4. Định ra khối lượng và cường độ của các phương pháp và biện pháp cho các loại tập luyện. 5. Xác định thời gian của phần khởi động, của phần nội dung chính, của phần kết thúc và các biện pháp tập luyện..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> 6. Chọn lựa phương pháp giảng dạy và hình thức tổ chức buổi tập cần thiết và hợp lý. 7. Thực hiện sự quan tâm đối xử cá biệt với một số vận động viên. Khi soạn giáo án huấn luyện cần lưu ý mấy vấn đề sau đây: 1. Giáo án được soạn thảo phải dựa vào kế hoạch huấn luyện của chu kỳ nhỏ một cách nghiêm khắc và trung thực, nhiệm vụ, lượng vận động phải thật cụ thể phù hợp với yêu cầu của kế hoạch ỏ chu kỳ nhỏ. 2. Phương pháp và biện pháp huấn luyện chủ yếu được chọn đưa vào giáo án phải mang tính khả thi, thiết thực và có thể hoàn thành được nhiệm vụ đã xác định trong kế hoạch của chu kỳ nhỏ. 3. Biện pháp tập luyện không chủ yếu, mang tính bổ trợ (như khởi động, điều chỉnh hoạt động…) yêu cầu phải có hiệu quả huấn luyện thật tốt và có thể điều chỉnh nhịp độ của quá trình huấn luyện. 4. Dựa trên nguyên tắc phải đảm bảo được lượng vận động huấn luyện dự định, cần phải tập trung suy nghĩ ở các khâu giáo án, phương pháp và hình thức tổ chức tập luyện. 5. Khi chuấn bị giáo án, cần phải tính đầy đủ tới những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện giáo án như: không hoàn thành được lượng vận động dự định trong giáo án…Đối với những vấn đề có thể xảy ra cần phải dự đoán và có những biện phạp suy nghĩ trước để chuẩn bị đối phó kịp thời. Câu 124: Thế nào là phương pháp huấn luyện thể thao? Nó khác với biện pháp huấn luyện ở chỗ nào?.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Phương pháp huấn luyện và biện pháp huấn luyện là 2 khái niệm có quan hệ với nhau. Trong thực tiễn huấn luyện và những lời truyền miệng luôn rất khó phân biệt rành rọt giữa 2 khái niệm này. Trên thực tế, khi nói đến phương pháp huấn luyện thì phải dựa trên một nguyên lý nhất định – đó là một quá trình tổ chức giảng dạy được hình thành bởi các loại biện pháp độc lập, bố trí thành một tổ hợp tuần tự. Biện pháp huấn luyện là các loại bài tập thể lực. Ví dụ: chạy 100m với cường độ là 12 giây, chạy trong 10 lần, giữa mỗi lần chạy nghĩ 3 phút. Như vậy, chạy 100m là biện pháp còn làm thế nào để hoàn thành quá trình chạy 10 lần 100m là phương pháp huấn luyện. Trong quá trình huấn luyện thể thao, phương pháp huấn luyện thường được coi như là phương pháp tập luyện thể lực, phương pháp giảng dạy kỹ thuật động tác thường sử dụng như: Phương pháp ngôn ngữ (lời nói), Phương pháp trực quan, phương pháp phân chia, phương pháp hoàn chỉnh, phương pháp quan sát…thường dùng lý luận giáo dục thể chất để lý giải. Phương pháp tập luyện thể lực có thể phần ra làm 2 loại lớn: - Phương pháp tập luyện với nội dung và lượng vận động cũng như điều kiện tập luyện được quy định rất nghiêm ngặt (chặt chẽ). - Phương pháp tập luyện với nội dung và lượng vận động được quy định không nghiêm ngặt như phương pháp trò chơi, phương pháp thi đấu. Phương pháp tập luyện với nội dung và lượng vận động cũng như điều kiện tập luyện quy định nghiêm ngặt có thể phân ra làm 2 loại lớn: - Một là các loại phương pháp giảng dạy nhằm làm cho các em nắm vững động tác và cải tiến cấu trúc như phương pháp phân chia, phương pháp hoàn chỉnh,….

<span class='text_page_counter'>(55)</span> - Thứ hai là phương pháp tập luyện với thời gian nghỉ giữa và lượng vận động được quy định. Khi sử dụng phương pháp tập luyện phân chia hay phương pháp hoàn chỉnh để nắm vững động tác và cải tiến cấu trúc động tác, luôn luôn phải sử dụng các loại phương pháp tập luyện của loại thư hai để tiến hành tập luyện. Phương pháp tập luyện với thời gian nghỉ giữa và lượng vận động được quy định có thể bố trí theo sự phân loại dưới đây (xem sơ đồ). Trong đó phương pháp luyện tập mà thời gian nghỉ giữa quảng được quy định có thể gọi là phương pháp nghỉ giữa quảng hoặc giãn cách. Còn các phương pháp khác có thể gọi là phương pháp luyện tập liên tục, phương pháp tập luyện thay đổi, phương pháp lập lại. Tổ hợp phương pháp khác nhau lại thành phương pháp huấn luyện tổng hợp và từ phương pháp huấn luyện tổng hợp tiến hành theo vòng tròn mà trở thành huấn luyện vòng tròn.. Phương pháp luyện tập với thời gian nghỉ giữa và khối lượng quy định. Phương pháp tập luyện lặp lại với khối lượng và thời gian nghỉ giữa không đổi. Phương pháp tiến hành liên tục theo quy định. Phương pháp luyện tập lặp lại cùng một biện pháp tập luyện với thời gian nghỉ giữa cố định. Phương pháp luyện tập lặp lại với thời gian nghỉ giữa và khối lượng thay đổi. Phương pháp thay đổi khối lượng trong quá trình luyện tập được tiến liên tục. Phương pháp luyện tập với khối lượng biện pháp tập luyện, thời gian nghỉ giữa thay đổi.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Phương pháp huấn luyện tổng hợp. Phương pháp huấn luyện vòng tròn. 125: Thế nào là phương pháp huấn luyện liên tục? Phương pháp huấn luyện liên tục là phương pháp huấn luyện không có thời gian nghỉ giữa mà thực hiện liên tục các biện pháp tập luyện. Nhìn chung, thời gian hoạt động của phương pháp huấn luyện liên tục tương đối dài, nó được sử dụng trong rất nhiều môn thể thao. Ví dụ: Việc tập luyện cự ly tương đối dài trong huấn luyện các môn thể thao mang tính chu kỳ, hay việc tập luyện liên tục đối với một động tác nào đó trong môn thể dục dụng cụ hoặc môn bóng… Cường độ hoạt động của phương pháp huấn luyện liên tục có nhiều loại biến đổi như: Tập luyện tốc độ đều cự ly dài, tập luyện biến đổi tốc độ… Có thể dùng phương pháp huấn luyện liên tục để phát triển sức bền chuyên môn, sức bền ưa khí và tốc độ cho vận động viên. Trong các môn thể thao không có chu kỳ cũng vẫn có thể dùng để nắm vững và cũng cố ký thuật động tác. Những điều cần chú ý khi bố trí phương pháp huấn luyện liên tục..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> - Nên căn cứ vào nhiệm vụ huấn luyện để chọn thời gian hoạt động ngắn dài, cự lý dài hay ngắn và cường độ thực hiện là bào nhiêu. - Cự ly và thời gian tập luyện phải phù hợp với mức độ hạn chế mà cơ thể vận động viên có thể chịu đựng được. - Khi sử dụng phương pháp tập luyện biến tốc, đối với cường độ tập luyện được bố trí cần phải sớm xác định tính chất của cường độ và mục đích có thể đạt được, sau đó mới tính đến các quy định nghiêm khắc trong việc chấp hành. Câu 126: Thế nào là phương pháp huấn luyện lặp lại? Phương pháp huấn luyện lặp lại là phương pháp tập luyện được tiến hành lặp lại. Trong tình huống kết cấu động tác không thay đổi, thời gian nghỉ giữa, các thông số về lượng vận động và được tiến hành theo yêu cầu đã định. Thông thường, thời gian nghỉ giữa nhấn mạnh ở đây là thời gian được bố trí sau một lần tập luyện cơ thể có thể đạt được mức hồi phục như cũ (lúc chưa tập luyện). Sử dụng phương pháp thời gian nghỉ giữa khi sự hồi phục chưa đạt được mức cũ, nói chung người ta quy nạp thành phương pháp nghỉ giữa quảng lập lại. Tác dụng của phương pháp huấn luyện lặp lại: - Nâng cao hiệu quả phát triển tố chất vận động cho vận động viên, nâng cao trình độ huấn luyện thể lưc. - Giúp nắm vững, cải tiến, nâng cao và củng cố kỹ - chiến thuật vận động. - Bồi dưỡng phẩm chất ý chí cho vận động viên..

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Khi sử dụng phương pháp huấn luyện lặp lại cần phải chú ý các mặt sau đây: - Trong khi huấn luyện kỹ - chiến thuật, nên có yêu cầu nghiêm khắc về quy cách hoàn thành, còn khối lượng và cường độ không yêu cầu quá cao, chi khi đã củng cố và nâng cao được kỹ thuật mới dần dần nâng cao khối lượng và cường độ. - Cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể về đối tượng, về nhiệm vụ huấn luyện để tiến hành xác định số lượng lặp lại và cường độ của mỗi lần tập luyện. - Khi tiến hành huấn luyện thể lực, cần dựa trên cơ sở đã hình thành mà yêu cầu khối lượng không ngừng nâng cao lên. - Cần sử dụng phương pháp khả thi thiết thực trong thực tiễn, nên dùng mạch đập để xác định thời gian nghỉ giữa, đảm bảo cho cơ thể có thể hồi phục đến mức cũ. - Nên sử dụng biện pháp giảng dạy nhất định đối với nội dung tập luyện, cần bố trí xen kẽ các nội dung tập luyện để kích thích tích cực của vận động viên, làm giảm bớt cảm giác khô khan nhàm chán trong tập luyện. Câu 127: Thế nào là phương pháp huấn luyện thay đổi? Phương pháp huấn luyện thay đổi là phương pháp thay đổi khối lượng tập luyện tổ hợp động tác, môi trường và điều kiện một cách có mục đích trong quá trình huấn luyện. Phương pháp huấn luyện thay đổi là do sự thay đổi là do sự thay đổi trên thực tế về tần số, tốc độ, lượng phụ tải và thời gian tập luyện, thay đổi về hình thức thực hiện động tác, điều kiện bên ngoài khác nhau… vì vậy.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> trên thực tế đã đề ra các yêu cầu mới cao hơn đối với cơ thể củ vận động viên. Do đó nó có tác dụng: - Làm cho cơ thể vận động viên xảy ra sự thay đổi thích ứng mới, mở rộng khả năng thích ứng đối với huấn luyện và thi đấu của vận động viên. - Chàm cho năng lực chuyên sâu của vận động viên có khả năng ứng biến tốt hơn. - Giúp cho việc mở rộng phạm vi nắm vững và điều chỉnh động tác. - Giúp cho việc hình thành cảm giác không gian, cảm giác thời gian và các loại tri giác vận động (như cảm giác bóng, cảm giác nước, cảm giác tốc độ…) - Điều chỉnh sự đơn điệu, loại trừ sư khô khan nhàm chán trong quá trình huấn luyện,… nhằm kích thích đối với việc nâng cao tính tích cực của vận động viên, đẩy lùi sự xuất hiện mệt mỏi. Khi sử dụng phương pháp huấn luyện thay đổi cần chú ý mấy điểm sau: - Dựa vào nhiệm vụ cụ thể của đông tác huấn luyện mà thay đổi các điều kiện huấn luyện như: Trong quá trình học tập và nắm vững động tác mới cần giảm độ khó xuống một ít, cho đến khi động tác đạt được một trình độ thuần thục nhất định mới nâng cao độ khó. - Sự thay đổi trong các tình huống đều phải được tiến hành từ từ không thể quá đột ngột. - Khi cần thiết để đạt được độ khó cao hơn, có thể tiến hành bài tập mang tính dẫn dắt nhất định. Câu 128: Thế nào là phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng?.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng là một phương pháp sau khi tiến hành một nội dung tập luyện nhất định, vận động viên được nghỉ ngơi theo một phương thức nào đó với thời gian nghỉ giữa được bố trí rất chặt chẽ, rồi sau đó lại tiến hành tập luyện tiếp. Phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng có 5 nhân tố cấu thành, đó là: - Cường độ bài tập. - Số lượng mỗi lần tập luyện (hoặc thời gian duy trì của buổi tập). - Thời gian nghỉ giữa bao gồm: Giữa mỗi lần tập và giữa mỗi tổ với nhau. - Phương thức nghỉ ngơi. - Số tổ bài tập. Sư khác biệt lớn nhất giữa phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng và các phương pháp huấn luyện khác ở chỗ xác định thời gian nghĩ giữa. Trong cả phương pháp huấn luyện được tiến hành, thời gian nghỉ giãn cách có thể là giống nhau, cũng có thể thay đổi. Do có sự khác nhau của thời gian nghĩ giữa nên hệ thống chức năng và tác dụng sinh ra đối với cơ thể vận động viên ở cả phương pháp cũng không giống nhau. Thời gian nghỉ giữa nói chung có thể được phân ra làm 3 loại: 1. Nghỉ giữa bình thường là loại nghỉ mà sau lần tập luyện trước, sự hồi phục của cơ thể đạt đến mức hoàn toàn bình thường, thời gian nghỉ giữa được bắt đầu tiến hành sau bài tập trong lục mất đi sự căng thẳng của chức năng..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> 2. Nghỉ giữa được quy định nghiêm ngặt là loại nghỉ giữa mà sau thời gian nghỉ giữa lần tập trước, vẫn còn một hệ thống chức năng nào đó của cơ thể hoặc toàn bộ cơ thể chưa hoàn toàn hồi phục lại như mức cũ. 3. Nghỉ giữa đỉnh điểm là chỉ nghỉ giữa làm cho bài tập tiếp theo được tiến hành vào lúc cơ thể hồi phục vượt mức. Khi vận dụng loại huấn luyện có nghỉ giữa quãng nào, đều nhất thiết phải căn cứ vào đặc điểm cá thể của vận động viên, vào trình độ huấn luyện và sự và sự bố trí sắp xếp bài tập mà quyết định. Ngoài ra còn được quyết định bởi mục đích tập luyện và tính chất của khối lượng tập luyện. Đặc điểm của phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng là có thể nâng cao năng lực của hệ thống chức năng cơ thể. Do có sự cấu thành bởi nhiều yếu tố dễ bị thay đổi mà sự thay đổi của một yếu tố bất kỳ nào đó cũng có thể làm ảnh hưởng (lớn nhỏ) đến lượng vận động, làm lợi cho sự điều chỉnh và biến động trong thực tiễn công tác huấn luyên, hình thức huấn luyện đa dạng, lượng vận động hoàn toàn lớn hơn so với phương pháp huấn luyện liên tục, có thể đảm bảo tổng lượng vận động huấn luyện đạt chất lượng nhất định. Phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng đạt hiệu quả nhanh và mất hiệu quả cũng nhanh, nó thể hiện rất rõ nét ở sự thay đổi hình thái chức năng của hệ thống tuần hoàn tim. Phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng cũng có một hạn chế, đó là: - Nó có thể nâng cao năng lực trao đổi chất của tim nhưng không được ổn định. - Đối với cơ thể vận động viên có thể sản sinh tác dụng có hại nhất định, đầu tiên là đối với tim, hệ thống thần kinh..

<span class='text_page_counter'>(62)</span> - Rất dễ làm cho tim hoạt động căng thẳng. Do đó, khi vận dụng phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng cần chú ý: - Cần xác định rõ nhiệm vụ huấn luyện, cần phải có chủ định khi chọn cường độ tập luyện. - Cần tìm hiễu kỹ năng lực chịu đựng lượng vận động thực tế của vận động viên. - Cần chọn thời gian nghỉ giữa thích hợp nhất. - Thực hiện nghiêm túc các chỉ tiêu dự định, nhưng cũng không thể xem thường sự điều chỉnh cần thiết khi tiến hành huấn luyện. - Tăng cường kiểm tra sức khỏe. - Trong huấn luyện thiếu niên – nhi đồng không nên sử dụng, nếu trong tình huống đặc biệt phải sử dụng thì phải hạ thấp cường độ, kéo dài thời gian nghỉ giữa. Nhất định phải thận trọng tránh xảy ra hậu quả xấu. Ngày nay nguyên tắc chủ yếu của việc huấn luyện cũng có nghỉ giữa quãng thường được vận dụng đối với các môn thể thao mang tính chu kỳ. Thông qua việc nghiên cứu đối với các môn thể thao không mang tính chu kỳ đã chứng minh: Phương pháp này cũng có thể phù hợp với một số môn thể thao không có chu kỳ, đặc biệt trong giai đoạn hai của chu kỳ chuẩn bị có thể sử dụng rộng rãi. Phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng có thể ảnh hưởng một cách có lựa chọn đến một số chức năng khống chế phát triển sức bền chuyên môn, nhưng không thể xây dựng được tất cả các loại điều kiện cần thiết để phát triển năng lực này. Ngoài ra, trong lúc bồi dưỡng năng lực thể lực thể.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> lực như sức mạnh, tốc độ và thể lực tổng hợp thì phương pháp huấn luyện khác cũng có hiệu quả lớn. Do đó, khi vận dụng phương pháp huấn luyện có nghỉ giữa quãng cần phải xem xét để phối hợp với các phương pháp khác, đặc biệt là phải phối hợp với phương pháp huấn luyện lặp lại bài tập thi đấu hoàn chỉnh. Như vậy, mới có thể làm cho năng lực chuyên sâu của vận động viên được nâng cao một cách ổn định. Câu 129: Thế nào là phương pháp huấn luyện vòng tròn? Phương pháp huấn luyện vòng tròn là phương pháp dựa vào nhiệm vụ huấn luyện, dung các biện pháp huấn luyện khác nhau làm thành các trạm, sau đó liên kết các trạm đó với nhau thành vòng tròn. Song khi hoàn thành biện pháp trên mỗi “trạm” cần đưa ra yêu cầu về số lượng của tập luyện và tiến hành tập lặp lại các vòng tròn đó. Phương pháp này là phương pháp giảng dạy sớm nhất ở bộ môn thể dục trong trường học nước Anh. Mục đích của việc phát minh này trước hết là nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh, sau đó được sử dụng trong công tác huấn luyện để nâng cao trình độ huấn luyện thể lực. Phương pháp tiến hành cụ thể của phương pháp huấn luyện vòng tròn là thiết kế “trạm”, quy định khối lượng vận động huấn luyện của mỗi “trạm”, sau đó theo con đường nhất định lần lượt liên kết các trạm lại với nhau. Loại phương pháp huấn luyện này tương đối sinh động, linh hoạt, rất dễ động viên tính tích cực và sư ham thích tập luyện của vận động viên. Do các vận động viên có thể đồng thời bắt đầu tập luyện, cho nên có thể tăng cường mật độ tập luyện. Do việc điều chỉnh lượng vận động được tiến hành theo “trạm”, nên biểu hiện tính linh hoạt tương đối lớn. Phương pháp huấn luyện vòng tròn có thể thích hợp cho việc huấn luyện thể lực, dung nó để nâng cao năng lực chức năng của cơ thể, cũng có.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> thể dung nó để huấn luyện kỹ - chiến thuật, cũng có thể dùng để củng cố và hoàn thiện (thuần phục) kỹ - chiến thuật. Khi vận dụng phương pháp huấn luyện vòng tròn cần chú ý mấy điểm sau: - Hiệu quả tổng hợp của các “trạm” được xây dựng lên phải phù hợp với nhiệm vụ huấn luyện. Cần chú ý đến tác dụng của biện pháp huấn luyện được sử dụng ở mỗi “trạm”, cần bố trí tuần tự theo ảnh hưởng của hiệu quả huấn luyện ở các “trạm”. - Cần làm rõ lượng vận động ở các “trạm”. - Cần phải tính đến tổng thời gian của một vòng và thời gian luyện tập cần thiết cho mỗi “trạm”, và cũng cần xác định rõ số người tham gia tập luyện. - Cần có sự chuẩn bị đầy đủ về thiết bị, dụng cụ, sân bãi tập luyện. Khi bố trí cần tận dụng địa hình, địa vật và cố định dụng cụ hiện có. - Khi điều chỉnh lượng vận động cần phải nghiên cứu tới sự tăng, giảm số vòng lặp lại; tăng, giảm số lượng và cường độ tập luyện ở mỗi “trạm”; tăng giảm thời gian giản cách của mỗi lần luyện tập ở mỗi “trạm”; tăng, giảm thời gian nghỉ giữa các “trạm” với nhau; tăng, giảm thời gian nghĩ giữa mỗi vòng. - Sau khi đã sử dụng 1 vòng nhất định phải thay đổi cấu trúc và bài tập được cấu thành buổi tập. - Không thể chỉ tập trung hoàn thành vòng tập luyện mà xem nhẹ chất lượng của công tác huấn luyện..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Câu 130: Trong thực tiễn huấn luyện, chọn lựa phương pháp huấn luyện như thế nào? Trong thực tiễn huấn luyện khi chọn phương pháp huấn luyện nên suy nghĩ tới mấy nhân tố sau: 1. Cần phải phù hợp với quy luật phát triển cơ thể của người tập một cách khách quan. Mục đích cuối cùng của huấn luyện thể thao là nhằm nâng cao thành tích thể thao ở môn chuyên sâu của vận động viên. Muốn đạt được mục tiêu này, chỉ có dựa trên cơ sở phát triển một cách toàn diện thể lực cho vận động viên, làm cho quá trình huấn luyện thể thao được tiến hành thuận lợi, liên tục và có hệ thống. Sự phát triển sức khỏe lành mạnh của con người, nhất thiết phải dưới tác dụng kích thích một cách thích hợp, mới có thể mang lại sự thay đổi mang tính thích ứng bình thường tương ứng, mới có thể hoàn thành một cách thuật lợi việc cải tạo sinh học bên trong cơ thể. Phương pháp huấn luyện là tập trung phục vụ cho mục tiêu huấn luyện thể thao, vì vậy mà nó có đặc trung tính thể thao và tính kỹ thuật rất cao. Song cái “cao độ” này cũng chỉ ở trong một phạm vi mang tính thay đổi thích ứng bình thường, không thể sử dụng phương pháp không phù hợp làm cho chức năng của cơ thể vượt quá giới hạn cho phép và lâm vào trạng thái bệnh lý. Cho dù tuyển chọn phương pháp huấn luyện như thế nào cũng phải đảm bảo được sự phát triển bình thường của cơ thể vận động viên. Điều này rất quan trọng đối với thiếu niên – nhi đồng. Thực tiễn của phương pháp huấn luyện nghỉ giữa quãng có yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với thời gian nghỉ giữa và cường độ sử dụng, nhưng lại không thích hợp đối với thiếu niên – nhi đồng, bởi vì nó sẽ làm tổn thương rất lớn đối với cơ thể của thiếu niên – nhi đồng..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> 2. Cần phải thích ứng với đòi hỏi của đặc điểm môn thể thao chuyên sâu. Đối với bất cứ môn thể thao nào thì việc phát triển các loại tố chất vận động, nắm vững kỹ năng – kỹ xảo vận động, việc bố trí và cấu trúc tổ chức quả quá trình huấn luyện, việc cải tạo hệ thống các cơ quan nội tạng và hình thái bên ngoài của vận động viên… tất cả đều có yêu cầu đặc biệt cho từng môn, do đó việc chọn lựa phương pháp huấn luyện ở mỗi phương diện và bất cứ lúc nào đều cần phải thích ứng với nhu cầu của môn chuyên sâu. Có như vậy mới làm cho thành tích môn chuyên sâu không ngừng được nâng cao. 3. Cần phải thực tế và mang lại tính khả thi. Phương pháp huấn luyện là nhằm phục vụ cho việc giành được hiệu quả tốt trong huấn luyện. Bởi việc bố trí huấn luyện chứa nhiều sự khống chế của điều kiện khách quan, ví dụ như: Sân bãi, thiết bị, thời gian,…Tất cả những cái đó là hạn chế đến hiệu quả của huấn luyện. Do đó, việc chọn lựa phương pháp huấn luyện không thể đòi hỏi có sự cao siêu xa vời thực tế mà yêu cầu phải được thích hợp phải đơn giản phù hợp với điều kiện thực tế có thể thực hiện được, trong điều kiện không tốn nhiều công sức. 4. Cần phải đạt được hiệu quả tốt nhất. Động cơ và hiệu quả trong thực tiễn công tác huấn luyện nên có sự thống nhất. Chỉ dựa vào nguyện vọng chủ quan tốt đẹp mà không thu được hiệu quả thì là điều viển vông không thực tế, bởi vì nếu sử dụng phương pháp huấn luyện không thích hợp với tình hình cụ thể của đối tượng huấn luyện thì không thể là phương pháp tốt để hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> và cũng không phải là phương pháp mang lại hiệu quả lớn. Vì vậy không nên sử dụng phương pháp như vậy. 5. Phương pháp huấn luyện thu kết quả nhanh và thu kết quả chậm nên sử dụng đúng lúc. Tố chất vận động của vận động viên là có hạn. Giai đoạn biểu hiện năng lực tối đa của cá nhân vận động viên trong việc nâng cao thành tích thể thao, nói một cách tương đối là một khoảng thời gian ngắn ngủi, tạm thời, còn xu thế thành tích thể thao hiện nay lại có tốc độ phát triển rất nhanh. Do đó phương pháp huấn luyện đạt hiệu quả nhanh và phương pháp huấn luyện đạt hiệu quả chậm cần phải căn cứ vào khoảng thời gian cho phép của quá trình huấn luyện vận động viên mà thực hiện. Khi cần thiết, cần đẩy mạnh phương pháp huấn luyện nhằm đạt hiệu quả thành tích nhanh, nếu không sẽ kéo dài thời gian xuất hiện thành tích của vận động viên làm cho việc huấn luyện gặp rất nhiều khó khăn mà không thu được kết quả như mong muốn. 6. Cần phải thúc đẩy các nhân tố hình thành trang thái thể thao đạt đến sự thống nhất và kết hợp một cách hữu cơ. Một phương pháp huấn luyện nào đó sẽ có tác dụng chủ yếu đối với một nhân tố hình thành trạng thái thể thao nào đó. Song trạng thái thể thao lại là kết quả thống nhất của rất nhiều loại nhân tố phối hợp hữu cơ với nhau. Do đó trong công tác huấn luyện không thể vận dụng một cách ngẫu hứng mù quáng một loại phương pháp huấn luyện nào đó tạo thành một nhân tố nào đó rất nổi trội mà không nghĩ đến các nhân tố khác. Sự phát triển không nhịp nhàng giữa các nhân tố của trạng thái thể thao không những không thể đạt được thành tích tốt mà thậm chí còn dẫn đến sự thất bại, cơ bản nhất là giai đoạn trước thi đấu càng có kết cục như vậy..

<span class='text_page_counter'>(68)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×