Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc làm của người lao động Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.34 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ĐẾN VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Phạm Ngọc Hịa
Học viện Chính trị khu vực IV
Tóm tắt: Sự phát triển của nhân loại trong hơn ba thế kỷ qua chịu ảnh hưởng rất lớn bởi
những thay đổi từ các cuộc cách mạng công nghiệp. Cũng như ba cuộc cách mạng công nghiệp lần
trước, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra thời cơ mới, cũng như thách thức không nhỏ
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam nói chung và việc làm của người lao động Việt
Nam nói riêng. Bài viết nêu ra những tác động tích cực và tiêu cực của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đến việc làm của người lao động Việt Nam; từ đó, đưa ra một số gợi ý chính sách để Việt
Nam thích ứng với những tác động từ cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0.
Từ khó : cách mạng công nghiệp 4.0; công nghệ mới; người lao động.
1. MỞ ĐẦU
Cách mạng công nghiệp (CMCN) là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi
cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật. Cách mạng cơng nghiệp khiến lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo ra lực lượng vật chất khổng lồ cho xã hội. Có nhiều cách phân loại
khác nhau, nhưng nhìn chung hầu hết các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng, cho đến nay
lịch sử loài người đã và đang trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Nếu như cuộc CMCN 1.0
(1784) là việc chấm dứt sự phụ thuộc của con người vào sức kéo động vật và sức người, chuyển
sang sử dụng năng lượng hóa thạch, sức nước và hơi nước, thì cuộc CMCN 2.0 (1870) có bước đột
phá là điện khí hóa, liên lạc hữu tuyến, vơ tuyến và các hình thức phát điện. Đến cuộc CMCN 3.0
(1969) là sự ra đời của các hệ thống kỹ thuật số, thơng tin liên lạc và những tiến bộ nhanh chóng
trong cơng nghệ máy tính, lập trình, tạo ra, xử lý và chia sẻ thông tin. Cuộc CMCN 4.0 được ra đời
trên cơ sở nền tảng của cuộc CMCN 3.0, trọng tâm là các phát minh, phát kiến và sự kết hợp của ba
đại xu hướng: vật lý, số hóa và sinh học hay nói cách khác đó là sự kết hợp của ba thế giới: thế giới
vật chất, thế giới ảo (thế giới số) và thế giới sinh vật11. Khái niệm CMCN 4.0 lần đầu tiên được đề
cập trong bản “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” được Chính phủ Đức thơng qua vào
năm 2012. Từ đó đến nay, thuật ngữ “công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới để mơ tả
cuộc CMCN 4.0.


Có thể nói, cuộc CMCN 4.0 sẽ rất khác so với ba cuộc cách mạng đã làm thay đổi năng lực
sản xuất của con người trước đó và được dự báo đảo lộn toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Cuộc cách
mạng này càng thêm phức tạp bởi ở nhiều vùng trên thế giới (bao gồm cả Việt Nam), những cuộc
CMCN 3.0 và thậm chí là CMCN 2.0 cịn chưa hồn tất và các cơng nghệ mới có thể “nhảy cóc”
qua những chuyển biến đó, gây ra sự xáo trộn chưa từng thấy với mọi xã hội 12. Thực vậy, so sánh
với các cuộc CMCN trước đây, cuộc CMCN lần này sẽ phát triển với tốc độ cấp số nhân chứ không
phải cấp số cộng như các cuộc CMCN trước đó về cả phạm vi và sự tác động mang tính hệ thống.
Các công nghệ mới từ cuộc CMCN 4.0 được phát triển với tốc độ cao vượt bậc, với những đột phá
đã được hiện thực hóa: xe hơi tự lái, các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo vào hoạt động kinh doanh
trực tuyến, y khoa, tài chính13. Tất cả đang và sẽ mang lại nhiều thay đổi cơ bản và sâu rộng trong
11

Trần Hồng Quang, Nguyễn Hồng Hà (2016), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và dự báo tác động đến nền kinh tế
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 10-2016, tr. 14.
12
Hải Minh (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0: Đảo lộn tất cả, Báo Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 26-2-2017, tr. 24.
13
Lê Bảo Long (2016), Dưới ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Những ai phải lo?, Báo Tuổi trẻ cuối
tuần, ngày 11-9-2016, tr. 12.

83


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội nói chung và việc làm của người lao động Việt Nam nói
riêng. Cho nên, dưới tác động của cuộc CMCN 4.0, chắc chắn sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực và
tiêu cực đến việc làm của người lao động Việt Nam.
2. NỘI DUNG
2.1. Tác đ ng từ cu c cách mạng c ng nghiệp 4.0 đến việc làm củ người l o đ ng Việt

Nam
Ở Việt Nam thời gian qua, thuật ngữ CMCN 4.0 được nhắc tới nhiều trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Đầu tháng 5/2017, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị về việc tăng cường năng
lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 cho các bộ ngành liên quan. Tuy nhiên ý kiến của giới nghiên cứu
xung quanh vấn đề này còn rất khác nhau, trong khi một số nhà khoa học, đặc biệt là các nhà công
nghệ cho rằng cần thay đổi nhận thức về CMCN 4.0 và có những giải pháp ứng phó thì một số ý
kiến khác lại cho rằng năng lực tiếp cận của Việt Nam với cuộc cách mạng này vẫn là rất xa vời.
Tuy nhiên, thế giới việc làm đang trải qua những biến đổi to lớn về cơ cấu do tiến bộ công nghệ, sản
xuất chuyên môn hóa phát triển, nhu cầu thành thạo nhiều kỹ năng mới và mối quan hệ việc làm
đang thay đổi mang lại. Một mặt cơng nghệ và số hóa hứa hẹn những cải thiện về năng suất, tăng
sản lượng kinh tế và tạo công ăn việc làm, mặt khác cũng tiềm ẩn những nguy cơ như làm cho một
số công việc trở nên lỗi thời và khiến tính dễ bị tổn thương và phi chính thức càng tăng lên14. Theo
những nghiên cứu gần đây, tự động hóa sẽ tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể tới những loại hình lao
động truyền thống. Những ngành nghề gắn với lao động thủ công sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất, kế
đến là ngành nghề gắn với q trình tự động hóa như dệt may, lắp ráp điện tử... Bên cạnh đó, những
thay đổi mạnh mẽ trong kỷ nguyên số sẽ đòi hỏi người lao động mới tham gia thị trường lao động
phải đáp ứng được những bài kiểm tra về kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.
Có thể nói, sự bùng nổ của cuộc CMCN 4.0 đã và đang tạo ra những thay đổi đột phá, có tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, từng khu vực và toàn cầu. Với nền
tảng là cơng nghệ số và tích hợp các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức
sản xuất, cuộc cách mạng này dần tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam, giúp chúng ta rút
ngắn khoảng cách phát triển về kinh tế so với các nước trong khu vực. Đây còn là cơ hội để Việt
Nam đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm thực hiện mục tiêu trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, đi cùng với mặt tích cực, thì những tác động tiêu cực
cũng lớn hơn bao giờ hết. Bởi vì cuộc cách mạng này sẽ làm giảm, thậm chí làm triệt tiêu lợi thế
truyền thống của Việt Nam bấy lâu nay, đó là nhân cơng rẻ, dồi dào, sản xuất dựa trên lợi thế tài
nguyên. Với cuộc cách mạng này, việc làm của hàng nghìn, thậm chí là của hàng triệu người lao
động Việt Nam có thể sẽ bị “cướp đi” trong tương lai. Hiện tại, cuộc cách mạng này đang và sẽ làm
thay đổi cơ cấu việc làm của Việt Nam. Về tác động của cuộc CMCN 4.0 đến việc làm của người
lao động Việt Nam được biểu hiện ở những nét sau:

M t là về tác đ ng tích cực
Khi nghĩ về tác động của cuộc CMCN 4.0 đến việc làm của người lao động, nhiều người
nghĩ rằng sẽ có nhiều lao động bị thất nghiệp do cuộc CMCN lần này mang lại. Tuy nhiên, trái
ngược với những lo ngại trước đó khi cho rằng kỷ nguyên số, với những con robot, Internet vạn vật
kết nối, trí tuệ nhân tạo... sẽ lấy đi việc làm của người lao động. Điều này chưa trở thành hiện thực ở
Việt Nam. Bởi vì, “quá trình này sẽ mất vài thập kỷ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơng nghệ,
chi phí, thị trường lao động, lợi ích kinh tế và quan trọng là sự chấp thuận của xã hội đối với các vấn
đề của tự động hóa như an tồn, an ninh, gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Nếu các yếu tố này thuận lợi,
hơn 50% cơng việc có thể tự động hóa vào năm 2035, cịn nếu khơng, chúng ta phải chờ đến năm
14

Thái An (2017), Kỷ nguyên số: Cơ hội và thách thức với lực lượng lao động trẻ, Báo Lao động – Xã hội, Số 60, ngày
18/5/2017, tr. 4.

84


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

2075”15. Trong khi đó, Liên đồn quốc tế về người máy tự động đưa ra số liệu về tỷ lệ thay thế này
là 10%, nhưng việc thay thế lao động bằng người máy cũng phải nhận được sự chấp thuận của xã
hội. Do đó, nhiều lao động của Việt Nam,vẫn có thể ở lại làm việc trong vài thập niên tới nữa. Theo
ông Guru Mallikarjuna, Tổng giám đốc Công ty Bosch VN, cho rằng tự động hóa khơng có bất kỳ
tác động tiêu cực nào đến tuyển dụng và việc làm tại nhà máy. Nhu cầu lao động lành nghề tại nhà
máy vẫn tiếp tục gia tăng, để đáp ứng việc mở rộng sản xuất16.
Cuộc CMCN 4.0 cịn tạo ra nhiều mơ hình mới, cơng việc mới. Bởi muốn tiếp tục tăng
trưởng, doanh nghiệp phải tăng thêm dây chuyền sản xuất. Vì vậy, số lượng cơng nhân tại một dây
chuyền giảm đi nhưng tăng số lượng dây chuyền, khiến số lượng công nhân của cả nhà máy tăng
lên. Chưa kể khi tăng hoạt động kinh doanh, các khâu khác như bán hàng, phụ trợ, mở rộng thị
trường… cũng phải tăng quy mô, tuyển dụng thêm nhiều nhân sự. Cho dù tự động hóa theo cách gì

cũng phải cần con người, nhưng là con người theo một cách khác. Do đó, Nhà nước cần có chính
sách để các doanh nghiệp này không chỉ làm mỗi công đoạn gia cơng, mà phải có thêm các bộ phận
thiết kế, chế tạo, sản xuất theo chuỗi. Vì nếu trong một doanh nghiệp, ngồi gia cơng (cần sức khỏe)
thì cịn có thiết kế, chế tạo và đây là những lĩnh vực cần kinh nghiệm của người lao động17. Thực
vậy, CMCN 4.0 chỉ xóa bỏ các cơng việc kỹ năng thấp và mang tính lặp đi lặp lại nhưng nó cũng tạo
ra cơng việc mới mà hiện nay chưa có. Cịn đối với những cơng việc hiện tại thì dưới tác động của
công nghệ, nhu cầu công việc hướng tới khách hàng, công việc trong lĩnh vực kỹ thuật, vận tải, cơ
sở hạ tầng... sẽ tăng. Ngồi ra, mặt tích cực của CMCN 4.0 cũng khiến thời gian lao động ít hơn,
hiệu quả công việc cao hơn, tăng nhu cầu cho các ngành dịch vụ, giải trí. Bên cạnh đó, những thay
đổi mạnh mẽ trong kỷ nguyên số sẽ đòi hỏi người lao động mới tham gia thị trường lao động phải
đáp ứng được những kỹ năng đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, đây có thể là một “cơ hội vàng” nhằm
thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Việc sử dụng robot và thúc đẩy xu hướng tự động hóa
có thể giúp Việt Nam chuyển đổi từ phát triển quy trình sản xuất sang phát triển sản xuất một cách
trực tiếp. Thực chất tác động tiêu cực của robot tới các ngành sản xuất và lao động cho tới hiện tại
vẫn chỉ là sự thổi phồng, hoặc chưa có nhiều bằng chứng cụ thể hơn để cho rằng robot sẽ thay thế
người lao động và lấy đi việc làm của người lao động Việt Nam. Trong khi đó thì cơ hội tạo ra nhờ
cải thiện cơng nghệ và robot là hết sức rõ ràng đối với sự phát triển kinh tế. Đặc biệt, Việt Nam có
thể liên kết với các nhà cung ứng toàn cầu dựa vào các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã
ký kết để tạo thành một mạng lưới sản xuất phục vụ các mục tiêu cơng nghiệp hóa và tăng trưởng
của mình.
Cuộc CMCN 4.0 cịn tạo ra nhiều loại hình kinh doanh mới ở Việt Nam, công nghệ đang tạo
điều kiện cho sự xuất hiện của các mơ hình mới có thể giúp giải quyết những vấn đề trong thị trường
lao động hiện nay, đó là hàng nghìn việc làm ngắn hạn được tạo ra khi hình thành các startup công
nghệ như: Uber, Grab... Dưới tác động của kỷ nguyên số, là cơ hội lớn phát triển nguồn nhân lực
trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong gần 5 năm qua, nhu cầu tuyển dụng lao động trong lĩnh
vực công nghệ thông tin của Việt Nam đã tăng gấp đôi. Nếu như năm 2013, nhu cầu tuyển dụng lao
động công nghệ thơng tin chỉ khoảng 6.800 việc làm thì đến năm 2016 đã tăng lên gần 15.000 việc
làm. Đồng thời, mức lương trong lĩnh vực này cũng tăng lên đáng kể, giúp người lao động nâng cao
mức thu nhập.

H i là về tác đ ng tiêu cực
15

Trần Phương (2017), Tự động hóa khơng diễn ra ồ ạt, Báo Tuổi trẻ, Số 178/2017, ngày 05-7-2017, tr. 19.
Đăng Nguyên (2017), Người lao động không lo mất việc, Báo Thanh niên, Số 290, ngày 17-10-2017, tr. 11.
17
Đức Bình (2016), Cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và lao động lớn tuổi, Báo Tuổi trẻ, Số 162/2017, ngày 19-62017, tr. 18.
16

85


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

Bên cạnh mặt tích cực, cuộc CMCN 4.0 cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến việc làm của
người lao động Việt Nam. Với sự mở rộng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thơng tin, điều
khiển, tự động hóa, các hệ thống robot có trí thơng minh nhân tạo sẽ thay thế con người trong nhiều
cơng đoạn hoặc trong tồn bộ dây chuyền sản xuất, nhất là trong những ngành sử dụng nhiều lao động.
Các mơ hình cơng nghệ này sẽ thách thức mơ hình “sản xuất hàng loạt” bằng mơ hình “tùy chỉnh hàng
loạt” và tự động hóa với chi phí thấp hơn. Vậy mà, nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào
các ngành thâm dụng lao động giá rẻ. Trong khi đó, theo xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức,
nguồn nhân lực có trình độ chun mơn giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế. Đây là một trong
những thách thức lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam khi mà 44% lao động vẫn hoạt động trong
ngành nông nghiệp18.
Sở dĩ, Việt Nam chịu nhiều tác động từ cuộc CMCN 4.0 còn xuất phát từ chính đặc điểm của
nền kinh tế Việt Nam. Đó là bởi chuyển dịch cơ cấu lao động hơn 30 năm qua của Việt Nam rất
chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng
“nhờ vào gia công”, chủ yếu dựa trên lợi thế về lao động rẻ. Những yếu tố này đến nay đã cạn kiệt,
do đó, sẽ tác động bất lợi đến việc làm cho người lao động trước sự phát triển của cuộc CMCN 4.0.
Bên cạnh đó, trình độ lạc hậu của người lao động và của cả nền kinh tế là trở ngại lớn nhất để chúng

ta bắt kịp với các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 và ứng dụng hiệu quả các thành tựu này cũng là
một vấn đề nan giải. Theo các chuyên gia, trong tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của
Việt Nam có thể thất nghiệp, ví như lao động ngành nơng nghiệp, dệt may, kế tốn, lắp ráp và sửa
chữa thiết bị. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố tháng 7 năm 2016 cho
thấy, khoảng 70% vị trí cơng việc của Việt Nam có nguy cơ cao bị thay thế bởi tự động hóa, con số
này thấp hơn so với Trung Quốc (75%) nhưng lại cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực
như Singapore (35%), Thái Lan (khoảng 45%), Philippines (gần 50%). Trong đó, theo ILO, lao
động nữ và lao động giản đơn là nhóm chịu ảnh hưởng lớn nhất bởi tự động hóa. Ước tính, có
khoảng 86% lao động trong các ngành dệt may – da giày và 75% lao động trong ngành điện tử của
Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ tự động hóa cao do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật.
Trong khi đó, số lao động này hiện đang chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lực lượng lao động
của nước ta hiện nay. Chẳng hạn, Canon, một nhà đầu tư ở nước ngồi có mặt ở Việt Nam từ lâu, đã
tiến hành cải tiến máy móc, cơng nghệ. Sau gần 8 năm thay đổi, số lao động của Canon đã giảm từ
13.000 lao động xuống còn 8.000 lao động nhưng doanh thu là lợi nhuận vẫn giữ nguyên19. Như
vậy, có khoảng 5.000 lao động, chủ yếu là lao động giản đơn đã bị thay thế bởi máy móc. Bởi vì,
nguồn nhân lực của chúng ta so với các nước trong khu vực hiện vẫn còn khoảng cách nhất định.
Theo số liệu năm 2016, tỷ lệ lao động của Việt Nam đã qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ là 20,6%.
Như vậy, chúng ta vẫn còn gần 80% lao động chưa có bằng cấp chứng chỉ, chưa được đào tạo một
cách bài bản. Ngoài ra, lực lượng lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhìn ở
một khía cạnh khác, lao động Việt Nam hầu hết làm việc trong khu vực phi chính thức, sản xuất
giản đơn, nhỏ lẻ với quy mơ gia đình. Bên cạnh đó, lao động của Việt Nam phần lớn chưa được qua
đào tạo; việc sở hữu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng công
nghệ thông tin và khả năng sáng tạo vẫn còn rất hạn chế. Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0, đây sẽ
là thách thức không nhỏ đối với người lao động Việt Nam.
Một vấn đề kinh tế quan trọng, đồng thời cũng là vấn đề xã hội lớn nhất đối với Việt Nam,
đó là sự bất bình đẳng về nguồn lực lao động. Đặc biệt là gây ra nguy cơ gây phá vỡ thị trường lao
động. Khi tự động hóa thay thế con người trong tồn bộ các loại hình kinh tế, người lao động sẽ bị

18


Trần Hồng Quang, Nguyễn Hồng Hà (2016), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và dự báo tác động đến nền kinh tế
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 10-2016, tr. 16.
19
Thùy Dung (2017), Cơ hội việc làm từ kỷ nguyên số, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 21-2017, tr. 48.

86


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

dư thừa và điều đó làm trầm trọng hơn khoảng cách giàu, nghèo cũng như lợi nhuận so với đồng vốn
và lợi nhuận so với sức lao động. Thực vậy, cuộc CMCN 4.0 tác động rất lớn đến các nhóm yếu thế,
nhóm lao động có tay nghề thấp, làm việc trong khu vực phi chính thức, lao động làm việc trong nhà
máy theo dây chuyền… Nếu các doanh nghiệp ứng dụng các robot, dây chuyền sản xuất tự động thì
những lao động làm các cơng việc trên các dây chuyền lắp ráp sẽ bị thất nghiệp. Do đó, cuộc cách
mạng này gây nên sự xáo trộn lớn đến đời sống xã hội của người lao động, đó là nhu cầu sử dụng
lao động tay nghề cao đang có xu hướng gia tăng, trong khi nhu cầu tuyển dụng lao động tay nghề
và trình độ thấp đã giảm. Nhóm lao động chịu tác động mạnh nhất là lao động phổ thông do rất dễ bị
thay thế bởi q trình tự động hóa và người máy.
2.2. Một số gợi ý chính sách để Việt Nam thích ứng với những tác động từ cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của xã hội về cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0
Để ứng phó với tác động của cuộc CMCN 4.0, chúng ta cần xây dựng một nhận thức chung
trong toàn xã hội đối với những thay đổi nhanh chóng do cuộc CMCN 4.0 mang tới. Việc nghiên
cứu về những tác động tích cực và tiêu cực từ CMCN 4.0 sẽ giúp cho Việt Nam có được những luận
cứ khoa học và sát thực như là một nội dung bắt buộc của việc phân tích bối cảnh để điều chỉnh
những chỉ tiêu, thông số của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn. Đồng thời, xây
dựng những kịch bản nhằm thích ứng với tình hình thay đổi do CMCN 4.0 đem lại, nhất là ứng phó,
quản lý rủi ro từ những hệ quả của nó, nhất là vấn đề việc làm cho người lao động.
Thứ hai, tăng lượng cầu về lao động

Để tăng lượng cầu về lao động, Nhà nước cần khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, xây dựng
nhiều doanh nghiệp cơng nghiệp, dịch vụ mới. Đồng thời, khuyến khích phát triển tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề truyền thống, thúc đẩy sản xuất nơng nghiệp theo hướng hàng hóa, phát triển hình
thức trang trại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm cho số lao động bị ảnh hưởng từ
cuộc CMCN 4.0,... Đồng thời, cần tạo ra cơ hội để người lao động tự tạo việc làm cho mình thơng
các chính sách giải quyết việc làm dài hạn và ngắn hạn như chính sách cho vay khởi nghiệp nhằm
thúc thẩy tinh thần sáng tạo trong lao động, sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách và
biện pháp khuyến khích các cơ sở cơng nghiệp ưu tiên tuyển dụng, thu hút lực lượng lao động dôi
dư từ các doanh nghiệp dệt may, da giày và điện tử bị thất nghiệp do tác động từ cuộc CMCN 4.0.
Thứ ba, nâng cao chất lượng cung lao động
Nguồn cung lao động của nước ta hiện nay phần lớn là lao động nơng thơn, có chất lượng rất
thấp, hầu hết chưa qua đào tạo nghề. Vì vậy, lực lượng lao động nói trên chưa đáp ứng được nhu cầu
của những ngành nghề có sử dụng cơng nghệ hiện đại, trong khi trên thị trường lao động đang xảy ra
nghịch lý là thiếu hụt rất lớn nguồn lao động chất lượng cao, nhưng lại dư thừa lao động phổ thơng.
Do đó, cần phải có nhiều hình thức đào tạo phù hợp với từng lứa tuổi và sở thích của người lao động
để nâng cao chất lượng cung lao động. Cùng với việc mở rộng quy mơ và các loại hình đào tạo
nghề, phải coi trọng nâng cao chất lượng đào tạo, rèn luyện thể lực và tác phong công nghiệp cho
người lao động, nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo và kỹ năng mềm.
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước với người sử dụng lao động và người lao
động
Cách mạng CMCN 4.0 sẽ giúp tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh
hơn, từ đó nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần cho mỗi người lao động và cho tồn xã hội.
Thế nhưng, để thích ứng với những tác động từ cuộc CMCN 4.0 địi hỏi phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa Nhà nước với người lao động và người sử dụng lao động (doanh nghiệp). Đây không chỉ là
trách nhiệm tự thân của người lao động, mà còn là trách nhiệm của Nhà nước và của các doanh
nghiệp. Trong đó, Nhà nước cần hỗ trợ cho người lao động trong đào tạo nghề, nâng cao kiến thức,
kỹ năng chun mơn, cũng như có cơ chế chính sách để người lao động tham gia tích cực vào thị

87



TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

trường lao động, đồng thời cần quy định trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp trong việc
thu hút người lao động vào làm việc tại cơ sở của mình.
Thứ năm, đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo
Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng để phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp, có
thể tiếp thu, làm chủ và khai thác vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ làm nên cuộc CMCN
4.0. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các trường, các cơ sở đào tạo đổi mới phương thức
đào tạo, làm sao gắn được việc đào tạo với thị trường, gắn cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp để
sản phẩm của đào tạo phục vụ ln được cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam phải phát triển
một hệ thống các Viện nghiên cứu năng động, hiệu quả và liên kết với mạng lưới tri thức toàn cầu.
Các Viện nghiên cứu của Nhà nước phải được tái cơ cấu theo hướng tự chủ cao để phù hợp với nền
kinh tế thị trường. Khuyến khích Viện nghiên cứu của các doanh nghiệp hình thành và phát triển
nhằm cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo của cả khu vực tư nhân và khu vực nhà nước.
KẾT LUẬN
Như vậy, cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh theo cấp số nhân đã làm thay đổi
bối cảnh tồn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến việc làm của người lao động Việt Nam. Nếu
tận dụng tốt cơ hội, nhiều lao động Việt Nam sẽ được việc làm phù hợp với khả năng của mình.
Trong trường hợp ngược lại, sẽ có nhiều lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Do vậy, Việt Nam cần
thực hiện một tiến trình kép, đó là: Thứ nhất, tiếp tục giải quyết những vấn đề liên quan đến người
lao động còn tồn đọng từ trước đến nay như thời gian làm việc, chế độ chính sách, tiền lương... Thứ
hai, nhanh chóng hồn thiện thể chế chính sách về việc làm để người lao động tận dụng được cơ hội
và vượt lên thách thức liên quan đến cuộc CMCN 4.0.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái An (2017), Kỷ nguyên số: Cơ hội và thách thức với lực lượng lao động trẻ, Báo Lao động
– Xã hội, Số 60, ngày 18/5/2017.
2. Chu Ngọc Anh (2017), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Cơ hội và thách thức đối với mục
tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Số 891 (1-2017).
3. Đức Bình (2016), Cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và lao động lớn tuổi, Báo Tuổi trẻ, Số

162/2017, ngày 19-6-2017.
4. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0 – Cơ hội
và thách thức, Tạp chí Tài chính, Số 6/2017 (Kỳ 1).
5. Thùy Dung (2017), Cơ hội việc làm từ kỷ nguyên số, Thời báo Kinh tế Sài Gịn, Số 21-2017.
6. Trần Phương (2017), Tự động hóa không diễn ra ồ ạt, Báo Tuổi trẻ, Số 178/2017, ngày 05-72017.
7. Phạm Ngọc Hòa (2017), Cơ hội và thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến sự
phát triển nền hành chính nhà nước, Tạp chí Thông tin đối ngoại, Số 6-2017.
8. Trần Hồng Quang, Nguyễn Hồng Hà (2016), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và dự báo tác
động đến nền kinh tế Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 10-2016.
9. Lê Thị Tình, Đồn Thị Mai Liên (2017), Về cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, Tạp chí
Cộng sản, Số 896 (6-2017).
10. Lê Bảo Long (2016), Dưới ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Những ai phải lo?,
Báo Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 11-9-2016.
11. Hải Minh (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0: Đảo lộn tất cả, Báo Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 262-2017.
12. Đăng Nguyên (2017), Người lao động không lo mất việc, Báo Thanh niên, Số 290, ngày 17-102017.

88


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

Impact of the industrial revolution 4.0 on the employment of Vietnamese workers
Abstract: The development of humanity over the past three centuries has been greatly
influenced by changes from industrial revolutions. Just as the previous three industrial revolutions,
the 4.0 industrial revolution is creating new opportunities, as well as a considerable challenge to
the sustainable development of the Vietnamese economy in general and the employment of workers.
Vietnam in particular. The paper outlines the positive and negative impacts of the 4.0 industrial
revolution on the employment of Vietnamese workers; From there, give some policy suggestions for
Vietnam to adapt to the impacts of the Industrial Revolution 4.0.
Keywords: industrial revolution 4.0; new technology; workers


89



×