Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BTL DS 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.77 KB, 13 trang )

Thiệt hại và cách xác định thiệt hại trong trách nhiệm
bồi thường ngồi hợp đồng
TRÌNH BÀY
HỌ VÀ TÊN SV: TRẦN MIH TRUNG
MÃ SV:
A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định pháp lý của bồi
thường dân sự, trong lịch sử pháp luật việc bồi thường dân sự thường được giải
quyết bằng phạp trù đạo đức, khi xã hội chưa có nhà nước, chưa có pháp luật vấn
đề bồi thường dân sự được giải quyết theo phong tục tập quán của từng bộ tộc
người hoặc của từng nhớm người.
Khi xã hội phát triểu nhà nước và pháp luật ra đời, bồi thường dân sự nói chung là
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự thường hết
sức đa dạng, phúc tạp và khó giải quyết, khó xác định các chủ thể tham gia trong
quan hệ pháp luật này, nhung theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì
người nào gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
khi xảy ra thiệt hại trong các trường hợp sau đây:





Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Thiệt hại do thính mạng bị xâm phạm.
Thiệt hại do danh dự nhâm phẩm và uy tin bị xâm phạm.

Người bị thiệt hại có quyền yêu cần người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho
minh nhưng phải theo nguyên tắc cơ bản đó là: Phải có thiệt hại xảy ra, người gây
ra thiệt hại phải là người có lỗi, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu


quả.


Trong thực tế xét xử, tòa án xác định yếu tố lỗi trong trường hợp này hết sức phức
tạp, thương là lỗi hỗn hợp, do đó tơi chọn đề tài này nhằm nghiên cứu giữa lý luận
và thực tiễn
2. Mục địch nguyên cứu đề tài
Như đã nói ở trên, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một phạm trù hết
sức phức tạp về cả lý luật và thực tiễn, do đó tơi chọn đề tài này để đối chiếu so
sánh và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp vần vào việc hồn chỉnh chế
định pháp lý của đề tài này.

A. PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
1.1. Khái quát về trách nhiệm và căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hiểu một cách đơn giản là loại trách nhiệm
bồi thường không phát sinh từ quan hệ hợp đồng; người nào có hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
1.2. Khái niệm về trách nhiệm và căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là cở sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm BTTH có phát sinh trên thực tế
hay khơng. Vấn đề xác định chính xác căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng là vấn đề cực kỳ quan trọng. Về nội dung này, BLDS 2015 đã được
chỉnh lý và có nhiều khác biệt so với BLDS 2005, cụ thể:
Một là, so với BLDS 2005, quy định tại Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 có những
điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý) được

sử dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng thì
trong BLDS 2015, căn cứ xác định trách nhiệm BTTH đầu tiên lại là hành vi xâm


phạm của người gây thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Rõ ràng, BLDS 2015 đã thay
đổi quy định theo hướng người bị thiệt hại khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của
bên gây thiệt hại nữa, họ chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây
thiệt hại là đã có thể yêu cầu bồi thường. Trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ
thuộc về người gây thiệt hại trong trường hợp muốn được miễn trách nhiệm BTTH
(Khoản 2 Điều 585 BLDS 2015) hoặc được giảm mức bồi thường (Khoản 2, 4
Điều 586 BLDS 2015). Sự thay đổi này, theo tôi là hợp lý hơn và đã giảm bớt được
gánh nặng chứng minh cho người bị thiệt hại.
Thứ hai, khi xác định chủ thể được BTTH, BLDS 2015 đã quy định theo hướng
khái quát hơn, không còn chia ra trường hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể
khác như BLDS 2005 nữa. Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 chỉ quy định: “Người
nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường”. “Người khác” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả cá
nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác và như vậy đã bao hàm được tất cả các loại chủ
thể được BTTH như quy định tại BLDS 2005 trước đây.
Thứ ba, cùng với việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH, việc xác
định chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH cũng là vấn đề hết sức cần thiết. Theo
nguyên tắc chung, người nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này về cơ bản giống với
quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy định thêm trường hợp
ngoại lệ, đó là “trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Đây là một quy định rất phù hợp, bởi vì trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng về
nguyên tắc là được đặt ra cho chính chủ thể có hành vi gây thiệt hại, nhưng có khi

lại là người khác, ví dụ như Điều 586 về Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá
nhân, trong trường hợp này, người gây ra thiệt hại là con nhưng người chịu trách
nhiệm bồi thường lại là cha mẹ hay người giám hộ; Điều 598 quy định về BTTH
do người thi hành công vụ gây ra, trong trường hợp này, người gây thiệt hại là
người thi hành công vụ nhưng người chịu trách nhiệm bồi thường là cơ quan, tổ
chức quản lý cán bộ, công chức hay cơ quan tiến hành tố tụng v.


Việc BLDS 2015 mở rộng trường hợp làm phát sinh trách nhiệm BTTH do người
khác gây ra là nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bị thiệt hại trong việc
đạt được mục đích bồi thường. Điều mà pháp luật về BTTH ngồi hợp đồng ln
tìm cách hướng tới là tìm được một hay nhiều chủ thể có điều kiện thực hiện trách
nhiệm BTTH. Càng có nhiều người chịu trách nhiệm BTTH thì người bị thiệt hại
càng có cơ hội được bồi thường tốt hơn.
Hai là, BLDS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là “tài
sản gây thiệt hại”. Cụ thể, theo Khoản 3 Điều 584 BLDS 2015, chủ sở hữu người
chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình
gây ra (Ví dụ Điều 605 quy định về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
cơng trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác...”). Bởi lẽ trên thực tế,
trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự kiện tài sản gây
ra thiệt hại. BLDS 2015 đã khắc phục được sự thiếu rõ ràng của BLDS 2005 về
trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra thiệt hại, tạo nên sự thống nhất trong quy định
về thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần làm ổn định và lành mạnh hóa các quan
hệ pháp luật dân sự. Ngồi ra, tại Khoản 3 Điều 584 cũng đã quy định thêm về
những trường hợp loại trừ trách nhiệm BTTH để đảm bảo tính thống nhất trong
mọi trường hợp khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật

dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
1. Có thiệt hại xảy ra:
Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trong nhất của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng, bởi nếu khơng có thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khơng bao giờ phắt sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
khôi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hịa, do đó phải có thiệt hại thì
mục đích đó mới đạt được
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định “ có thiệt hại ” là vấn đề
khơng mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản... của


cá nhân và chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây là sự giám sát, mất
mát về lợi ích vật chất, tinh thần, hay những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Thiệt hại
vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tàn sản đã mất mát, những chi phí
cần thiết để ngăn chặn, hạn chết, sửa chữa thay thế tài sản bị hư hỏng, những khoản
thu nhập thực tế bị mất.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hịa về tính mạng, sức
khỏe... của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào? Tính mạng của con
người là vơ giá khơng thể tính thành tiền, do vậy bồi thường thiệt hịa ở đây phải là
bồi thường về tính mạng, sức khỏe mà còn là những bồi thường về mặt thiệt hại vật
chất. Những chi phí cho việc cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng
cho bên bị thiệt hại hoặc những chi phí cần thiết khác.
Theo thơng tư 173/UBTP-TANDTC của tòa án nhân nhân tối cao ngày 23-3-1972
hưỡng dân thì thiệt hại được xác định: “ Đó là thiệt hại vật chất, biểu thiện cụ thể
là thiệt hịa về tìa sản hoặc những chi phí và những thu nhập bị mất, do có sự thiệt
hịa về tính mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải thực sự xảy ra và tính tốn
được”.
Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân

phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và vô cùng phức
tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại vật chất, khơng thể có
cơng thức chung quy định ra tiền áp dụng các trường hợp. Việc giải quyết bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng chỉ nhằm an ủi, động viên
làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân. Đây là vấn đề rất khó, nhưng cho đến nay,
về căn bản các cơ quan có thẩm quyền chưa có ban hành văn bản hưỡng dẫn cụ thể
để áp dụng cho thống nhất, vì vậy khi vận dụng thực tiễn gây nhiều tranh cãi, chưa
thơng nhất.
Thiệt hại phải tính tốn được tương đương với một số lượng tiền xác định mới đảm
bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt hại về mặt tinh thần
khơng thể tính tốn bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm cịn khá trìu tượng, bởi
“tinh thần ” thì làm sao có thể cân đo, đong, đếm cụ thể để xác định thiệt hại, do
vậy Tịa án chỉ có thể căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định thiệt hại, để


xác định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần, nhằm đảm bảo quyền lợi của
người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy ra. Tòa án cũng chỉ
chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thơi, những thiệt hại mang tính suy diễn như:
“thu nhập một người nông dân ở quê nghèo là từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000
đồng / 1 tháng”.
Có thiệt hại tức là có tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải tính được bằng
một số tiền cụ thể nhất định, cịn những thiệt hại mang tính suy diễn, chủ quan sẽ
khơng được thừa nhận nếu khơng có căn cứ xác đáng.
Như vậy, những thiệt hại về vật chất là những thiệ hại trị giá được bằng tiền, đó là
thiệt hại thơng thường trong các vụ kiện địi bồi thường thiệt hại. Đó là những thiệt
hại vật chất trong cá thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm...
Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, khơng thể có công thức chung để
quy định tiền áp dụng cho mọi trường hợp cụ thể nhằm mục đích an ủi, động viên
và phần nào tạo điều kiện để khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính

người bị thiệt hại hay cho những người thân thích của họ.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy sụp
về tâm lý, tình cảm hoặc sự suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. HÌnh thức
biểu hiện thiệt hịa vè tinh thần rất đa dạng như : Suy sụp về tâm lý của người bị
thiệt hịa sau khi sức khỏe bị xâm phạm làm cho bị tàn tật, bị biến dạng bế ngồi
( ví dụ như bị sẹo ở mặt, bị gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà nhắc... )
Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh chịu thì
có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải gánh chịu tổn thất về tinh
thần này. Ví dụ. đó có thể là sự suy sụp, haong mang, lo lắng, sự đau thương của
những người thân thích với cái chết của nạn nhân. Khác với thiệt hại vật chất, thiệt
hại tinh thần khơng có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện,
hoàn cảnh của từng cá nhân là không giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần
thường đi kèm với thiệt hại vật chất
Pháp luật Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy nhiên có quan điểm cho
rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và ở phạm vi tình cảm. Nhưng có
quan điểm cho rằng bồi thường bằng tiền có thể khắc phục phần nào thiệt hại về


tinh thần, không thể dùng tiền bù đắp được. Tuy nhiên , pháp luật dân sự VIệt Nam
quy định mức tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần tại khoản 2 điều 609 và khaorn
2 điều 610 nghị quyết số 03/2006/NQ-HDTP của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao ngày 08 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn
cụ thể về bồi thường tổn thất tinh thần
 Thiệt hại về tính mạng sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm
chi phó cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu
nhậm thực tế bị mất, giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
 Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý
để ngăm chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do
danh dự, nhân phẩm, uy tin bị xâm phạm

 Thiêt hại do bị tổn thât về tinh thần. Bộ luật dân sự quy định: Tịa án có thể
cáo buộc người xâm hại bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho người bị hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân.
Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho những người
thân thích của người bị hại trong vụ bị xâm p Qzxhạm về tính mạng là hợp lý
cả về lý luận và thực tiễn, phù hợp với phong thục tập quán, truyền thông tương
thân tương ái của dân tốc Việt NAM
Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi
thường thiệt hại. Bởi vậy, Tòa án là người phải xác định trong trường hợp nào được
bồi thường, bồi thường bao nhiêu cho ai?
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nếu hnahf
vi đó được thực hiện, thực hiện mà pháp luật khơng cấm thì người thực hiện hành
vi đó khơng phải bồi thường thiệt hại. Khơng thể có người gây thiệt hịa khi khơng
có hành vi gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con người
diền ra trái với quy định và gây ra thiệt hại tới các đối tượng của pháp luật bảo vệ.
Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động hoặc không hành động, hành động và
không hành động đều là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khác
quan, được ý thức kiểm sốt, lý trí điều khiển và đều có khả năng làm biến đổi tình


trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đượ
pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thế
vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thế vào đối
tượng thông qua công cụ, phương tiện gây ra thiệt hại. Không hành động, gây thiệt
hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình
thường của dối tượng tác động, gây thiệ hại cho khách thể bằng việc chủ thể không
làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để
làm việc đó

Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động khơng khó, bởi vì
nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn,
đâm, chém... Nhưng ở dạng khơng có hành động hoặc được thực hiện thơng qua
hành vi của người khác thì cần xác định mối quan hệ giữa thiệt hại của hành vi của
người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với thiệt hại xảy ra. Ví dụ:
người gây thiệt hại do phịng về chính đáng, do tình thế cấp thiết thì khơng phải bồi
thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phịng vệ chính đáng và tình thế cấp thiệt đó mà
vượt qua giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái pháp luật và phải bồi
thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tịa án thường căn cú vào Thơng từ số
173/UBND-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tịa án nhân dân tối cao để phải giải
quyết các quan hệ pháo luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo
tinh thân nội dung Thơng tư thì hành vi pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng: “ Có thể là một việc phạm pháp về hình sự, một vi phạm pháp
luật về dân sự, một vi pháp đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi
phạp quy tắc sinh hoạt xã hội ”
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền
tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó
của chủ thế khác, khơng được thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến các
quyền đó. Bởi vậy Điều 584 bộ luật dân sự 2015 có quy định rõ
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền lợi lợi ích hợp pháp khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do


lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc có luật khác
quy định
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản

phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh
theo quy định tại khoản 2 Điều này
3. Có lỗi của người gây thiệt hại
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi
là thía độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố
ý hay vô ý.
 Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của minh sẽ
gây thiệt hại cho người khác màvẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại sảy ra
 Vô ý gây thiệt hại là một người khơng thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trước hành vi của mình có khẳ năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại
sẽ khơng xảy r hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu
trách nhiệm kho họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi. Bởi
vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
sẽ khơng có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Lỗi được cấu thành bởi hai yếu tố là lý trí và ý chí. Lý trí là sự thể hiện năng lực
nhận thức tại khác quan, còn ý chú là yếu tố biểu hiện năng lực điều khiền hành vi
trên cơ sở nhận thức thực tại khác quan.
Có thể xem xet hành vi của người ngây thiệt hại trên các mặt sau:
- Nhận thức của người gây thiệt hại.
- Hành vi gây thiệt hại có đúng pháp luật hay trái pháp luật.
- Hành vi cụ thể của người gây thiệt hại.


Nếu xét lỗi dưới góc độ quan hệ của cá nhân thì lỗi của người gây thiệt hại là sự
biểu hiện quan hệ giữa bản thân người gây thiệt hịa và xã hội mà nội dung của nó
là sự phủ định chủ quan của những quy tắc ứng xử chung của xã hội, địi hỏi các

nhân phải tơn trọng được thể hiện bằng các quy định của pháp luật
Tuy nhiên, có tường hợp người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường
nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu
dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì khơng phải bồi
thường
4. Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Mối quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có chứa đựng
nguyên nhân và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên nhân tỏng
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả. Hành vi vi
phạm pháp luật là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là hậu quả. Xét về nguyên tắc,
nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định và hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp ( nguyên nhân quyết định đối với thiệt hại
xảy ra ). Có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong hành vi. Một hành vi vi phạm
nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra hậu quả này chứ
không phải là hậu quả khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành
vi vi phạm và ngược lại, nếu khơng có hành vi thì thiệt hại khơng xảy đến. Nếu
khơng xác định được mối quan hệ này sẽ không xác định được trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cảu người có hành vi vi phạm và không được người gây thiệt hại
phải bồi thường cho người thiệt hại
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trai pháp luật hay ngược lại hành vi pháp
luật là nguyên nhân xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự
2015 dưới dạng: “người nào...xâm phạm...mà gây thiệt hại...thì phải bồi thường ”.
Ở đây chúng ta có thể thấy rõ hành vi đó
Tuy nhiên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trai pháp luật và thiệt
hại xảy ra trương nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân
thích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và
tồn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác
định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại



CHƯƠNG II; MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG.
1. Vấn đề về trách nhiệm bồi thường trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trong trong luật dân sự.
Theo quy định tại điều 275 BLDS năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát
sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây ra thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương
ứng với căn cứ này là các quy định tại chương XX, Phần thứ ba BLDS “trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng .
Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây
thiệt hịa ngoài hợp đồng với nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật. Điều 584
BLDS đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định: “người nào có hành vi xâm
phạm tính mạng , sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp
pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường...”. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường
thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định
tại điều 274 BLDS: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể ( bên có
nghĩa vụ ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền, hoặc giấy tờ có giá,
thực hện cơng việc hoặc khơng thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác ( bên có quyền ) ”
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý, chúng ta thấy rằng mỗi người sống trong
xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hộ, khơng thể vì lợi ích của mình
mà xâm phạm đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác thì chính người đó
phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khái niệm về
trách nhiệm bồi thường thiệt hịa ngoài hợp đồng cũng chỉ được xây dựng dưới
dạng quan điểm mà chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản pháp
luật nào. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đươc hiểu là
một trách nhiệm dân sự theo đó, người có hành vi trai pháp luật dân sự phải bồi

thương cho người bị thiệt hại


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể dân sự có
hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngồi ra,
trách nhiệm bồi thường thiệ hại ngồi hợp đồng cịn phát sinh ngay cả khi hai bên
có quan hệ hợp đồng trong trường hợp gây thiệ hại về sức khỏe, tính mạng hoặc
các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệ hại xảy ra không liên quan đến việc thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
Là một loại trách nhiệm dân sự nên ngồi nhưng đặc điểm của trách nhiệm dân sự
nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn
những điều kiện nhất định do pháp luật quy định, giữa các bên khơng có quan hệ
hợp đồng, thiệt hại xảy ra không liên quan đến hợp đồng
2. Cơ sở xác định thiệt hại và nguyên tắc bồi trong bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng
2.1 Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều
kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra, hành vi gây
thiệ hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quản giữa hành vi gây thiệt
hại và thiệ hại xảy ra, có lỗi. Lỗi khơng phải là điều kiện bắt buộc làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong một số trường hợp, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt
hại khơng có lỗi ( khoản 2 điều 584 BLDS 2015 )
2.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Việc bồi thường thiệ hại ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau
 Thiệt hịa phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều
lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

 Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thương, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình


 Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thay đổi mức bồi thường
3. Thực tiễn xét xử và không hạn chế trong công tác bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
Bộ luật dân sự 2015, mọi cơng dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, quyền sở
hữu hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận. Do đó bất cứ người nào có
lỗi cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tin,
tài sản và các quyền, lợi ích hợp



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×