Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

(Luận văn thạc sĩ) người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.62 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
TRẦN VĂN HÙNG

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HÙNG

NGÀNH LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH
LUẬT KINH TẾ

KHÓA: X

Tp.HCM, năm 2021
1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HÙNG

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ DUNG

Tp.HCM, năm 2021
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian vừa qua, nền kinh tế trên toàn thế giới đã phải gánh chịu hậu quả
nghiêm trọng do đại dịch vi rút đường hô hấp cấp (COVID 19) gây ra. Theo số liệu
do Tổng cục Thống Kê công bố: Năm 2020, nền kinh tế thế giới suy thoái với mức
tăng trưởng âm 4,3%; trong khi đó, Việt Nam ghi nhận tổng sản phẩm trong nước
(GDP) đạt tăng trưởng dương 2,91%. Việt Nam đã ghi dấu ấn đậm nét trên trường
quốc tế, mà theo báo chí nhiều nước đưa tin, cho rằng: Việt Nam là nền kinh tế đang
nổi của khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Thật vậy, trong khi tồn thế giới đang chịu tác động lớn từ đại dịch, sản xuất
kinh doanh bị đình trệ; Chúng ta lại bất ngờ được chứng kiến sự thay đổi môi
trường sản xuất kinh doanh của nhiều cơng ty, tập đồn lớn, đa quốc gia từ các nước
khác dịch chuyển dây chuyền sản xuất tới Việt Nam. Nền kinh tế nước ta chưa bao
giờ lại hội nhập sâu, và rộng như hiện nay. Nói như Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước
Nguyễn Phú Trọng rằng: “… cơ ngơi và tiền đồ của chúng ta chưa bao giờ vững
mạnh đến thế. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng lịng, phát huy sức mạnh tập
thể thì nhất định đất nước sẽ phát triển, sánh vai cùng bạn bè năm châu như Bác
Hồ hằng mong ước…”.
Có lẽ, một trong những nguyên nhân cơ bản là do chính sách mở cửa nền kinh tế
và hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật doanh nghiệp, đầu tư nói riêng của nước ta
hiện nay, ngày càng được đổi mới theo hướng hoàn thiện, tinh gọn, thực tế, hướng tới
việc tạo sự thông thống để các nhà đầu tư trong và ngồi nước có thể dễ dàng và an

tâm hoạt động. Với tinh thần đó, tiếp tục thừa kế và phát huy những thành tựu đạt được
của LDN từ các năm: 1999, 2005, 2014, đồng thời sửa đổi, bổ sung những điểm còn
hạn chế, khắc phục những nội dung chưa phù hợp, thì LDN năm 2020 đã được Quốc
Hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 với nhiều điểm mới, là cở sở pháp lý
quan trọng cho môi trường doanh nghiệp được hoạt động thuận lợi, góp phần thu hút
mọi nguồn lực về doanh nghiệp và đầu tư để phát triển kinh tế.

3


Doanh nghiệp, với tư cách là một tổ chức, và công ty cổ phần với tư cách là một
pháp nhân, thực hiện các hoạt động thông qua người đại diện trong giao dịch, để xác
lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp là người thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch với các đối tác,
khách hàng và với cơ quan quản lý nhà nước (chủ thể ngoài doanh nghiệp) hoặc với các
thành viên, cổ đông, người lao động (chủ thể trong doanh nghiệp).

Như phân tích trên, chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
nói chung, người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần nói riêng theo LDN
năm 2020, là sự tiếp nối và kế thừa của LDN năm 2014, đồng thời đã sửa đổi, bổ
sung thêm nhiều điểm mới, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong các vấn
đề tiến hành các hoạt động kinh doanh, thể hiện tư duy đổi mới, vừa thu hút đầu tư
kinh doanh, vừa tiệm cận hơn với chuẩn mực của quốc tế. Nhưng bên cạnh đó, cũng
vẫn cịn một số quy định chưa thật phù hợp thực tiễn. Lẽ đó, nghiên cứu một cách
đầy đủ và có hệ thống về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo LDN
năm 2020, tác giả đã chọn chuyên sâu về một loại hình doanh nghiệp với đề tài:
“Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm
2020” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” khơng mới, nhưng


tính đến thời điểm hiện nay, riêng về đề tài “Người đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020”, thì tác giả chưa thấy có một
cơng trình nghiên cứu nào đầy đủ và tồn diện. Liên quan đến đề tài này, tác giả
nhận thấy phần lớn là những bài phân tích nhỏ lẻ trên các trang mạng (online) sau
khi LDN năm 2020 được công bố.
Trong bài viết này, tác giả muốn phân tích sâu về lý luận, đồng thời sẽ đối
chiếu, so sánh với thực tiễn để phân tích, và phản biện về các quy định của pháp
luật, để có đánh giá khách quan và toàn diện nhất cho vấn đề được nghiên cứu.
Kể từ khi LDN năm 2020 được ban hành tới nay, một số tạp chí, báo mạng có
viết về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Các bài viết phần lớn tập

4


chung phân tích những điểm mới của LDN năm 2020 về chế định người đại diện
theo pháp luật và nêu ra một số khó khăn, vướng mắc và những điều cần lưu ý khi
áp dụng trên thực tế đối với các quy định về người đại diện theo pháp luật; cũng có
một vài bài viết ngắn gọn chỉ phân tích một số vấn đề cơ bản, xoay quanh người đại
diện theo pháp luật, mà chưa phân tích chuyên sâu về người đại diện theo pháp luật
của loại hình doanh cơng ty cổ phần.
Ngược dịng thời gian, tìm hiểu về các luận văn, luận án đã tiếp cận những vấn
đề pháp lý về người đại diện theo pháp luật, tác giả nhận thấy, những luận văn, luận
án này được triển khai theo LDN năm 1999, năm 2005, hoặc năm 2014, như: Luận
văn thạc sĩ luật học năm 2014 nghiên cứu về “Chế định người đại diện doanh
nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Phạm Lâm Hải Nguyên;
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2017 nghiên cứu về “Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp từ thực tiễn Tổng công ty thuốc lá Việt Nam” của tác giả Bùi Thị
Tâm. Luận án tiến sĩ luật học năm 2011 nghiên cứu về “Đại diện cho thương nhân
thep pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của tác giả Hồ Ngọc Hiền… Có lẽ,

vì LDN năm 2020 mới được công bố gần đây, nên đề tài “Người đại diện theo pháp
luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020” chưa có tác giả nào
khác chọn lựa, là điều dễ hiểu.
Chế định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khá rộng, khó đi
sâu phân tích, biện giải một cách cụ thể hơn là phân tích trọng tâm về người đại
diện theo pháp luật của một loại hình doanh nghiệp, đây là lý do tác giả lựa chọn đề
tài: “Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
năm 2020” thực hiện.
Cho đến nay, có thể nhận định: Trong các cơng trình nghiên cứu là luận văn,
luận án vẫn chưa có cơng trình nào tiếp cận một cách cụ thể các quy định của LDN
năm 2020 về Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Dẫu vậy, một số
các nghiên cứu trước đó về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
– theo các quy định của LDN năm 1999, năm 2005, hay năm 2014 - cũng là những

5


nguồn tài liệu tham khảo rất quý giá, và hữu ích để tác giả nghiên cứu, so sánh với
quy định tương ứng trong LDN năm 2020 – khi thực hiện luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn này hướng tới việc nghiên cứu chi tiết về: “Người đại diện theo pháp
luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020”, nhằm mục đích như

sau:
-

Một là, phân tích kỹ các cơ sở lý luận về người đại diện theo pháp

luật doanh nghiệp và quan hệ pháp luật đại diện.

-

Hai là, phân tích các quy định của LDN năm 2020, các văn bản quy

phạm pháp luật có liên quan, sau đó đối chiếu với thực tiễn, để từ đó, xác
định những vấn đề cịn tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật về
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
-

Ba là, tổng hợp nội dung nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm hoàn

thiện các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu như nêu trên thì cần phải làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, khái niệm “đại diện”, “người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp” dưới các góc độ khác nhau?
Thứ hai, có bao nhiêu hình thức đại diện?
Thứ ba, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có những đặc điểm gì?

Các căn cứ để xác lập?
Thứ tư, giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại
diện theo ủy quyền của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp cơng lập, tổ chức chính trị - xã hội và người đại diện của
cá nhân có những đặc điểm khác nhau cơ bản gì?

6



Thứ năm, pháp luật quy định như thế nào về vai trò, điều kiện, chức danh quản
lý, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp?
Thứ sáu, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về người đại diện
theo pháp luật của cơng ty cổ phần có những kết quả đạt được và khó khăn, vướng
mắc gì?
Thứ bảy, cần đề ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần như thế nào - để đạt được hiệu
quả cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đã đặt ra, tác giả tập trung nghiên cứu về những
vấn đề lý luận từ các quy định của pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp nói
chung, và người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo LDN năm 2020.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả đã tập trung nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp nói chung, và người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần theo LDN
năm 2020, chứ không không nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật của các
chủ thể không phải là doanh nghiệp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Phương pháp luận
Tác giả đã vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước trong công cuộc cải cách tư pháp nói chung và về pháp luật doanh
nghiệp nói riêng để giải quyết vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bản luận văn này, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu như: Tra cứu, thu thập thơng tin, so sánh, phân tích, phản biện,

chứng minh, tổng hợp.
7


- Phương pháp tra cứu, thu thập thông tin: Tác giả tìm kiếm tài liệu như các
văn bản quy phạm pháp luật, sách, luận văn, luận án, tạp chí khoa học chuyên
ngành, trang thông tin điện tử liên quan đến nội dung của đề tài.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng để so sánh các quy định của LDN
năm 1999, năm 2005, 2014, với LDN năm 2020, cũng như so sánh các quan
điểm của các bài phân tích, các bản luận văn, luận án liên quan tới vấn đề
nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phân tích: Từ cơ sở lý luận đến các quy định của pháp luật và
thực tiễn, tác giả tiến hành phân tích các vấn đề dưới nhiều góc độ và khía
cạnh khác nhau để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
- Phương pháp phản biện: Sau khi đối chiếu, so sánh, tác giả sẽ có đánh giá,
và lập luận những nội dung chưa phù hợp theo quan điểm riêng để đưa ra kết
luận cho vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp chứng minh: Tác giả dẫn chứng các tài liệu và các thơng tin
có được từ những nguồn đáng tin cậy để làm rõ các lập luận của mình.
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này để tổng hợp các
tài liệu, dữ liệu, các luận chứng, từ đó đi đến tổng hợp để đưa ra kết luận các
vấn
đề sau khi đã phân tích, chứng minh và so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Bài luận văn này có ý nghĩa góp phần hồn thiện quy định pháp luật Việt Nam
về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói chung, người đại
diện theo pháp luật của cơng ty cổ phần nói riêng theo LDN năm 2020. Mặt khác,
bản luận văn này cũng có thể được sử dụng làm tài liệu cho các cơng ty cổ phần
trong q trình xây dựng điều lệ, khi cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
người đại diện theo pháp luật, hoặc cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục

vụ cho hoạt động học tập, và nghiên cứu về chế định người đại diện theo pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm hai chương:

8


Chương 1: Những vấn đề cơ bản về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Chương 2: Quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp năm 2020, thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về đại diện
1.1.1. Khái niệm đại diện
Trong giao dịch dân sự nói chung, thông thường, người xác lập giao dịch phải
tự thể hiện mong muốn, u cầu của mình, ví như: Trường hợp lập di chúc, hay hủy
bỏ di chúc, đăng ký kết hôn, hiến xác, hiến tạng sau khi chết,… Tuy nhiên, pháp
luật cũng cho phép người muốn thực hiện giao dịch được quyền thơng qua vai trị
của một người khác, thay mặt cho người muốn thực hiện giao dịch đó và nhân danh
người đó triển khai thực hiện, được gọi là người đại diện.
Khoản 1, Điều 134 BLDS năm 2015, quy định: “Đại diện là việc cá nhân,
pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá
nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây được gọi chung là người được đại diện) xác

lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Từ điển Luật học của Bộ Tư pháp nêu rõ: Đại diện là: “Việc một người, một
cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành
vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện”.
Dẫu vậy, không phải trường hợp nào pháp luật cũng cho phép thực hiện thông
qua người đại diện. Đơn cử, việc kết hôn không thể thực hiện thơng qua người đại
diện.
Theo quy định được trích dẫn trên cho thấy: Đại diện là một quan hệ pháp luật
- tức quan hệ pháp luật về đại diện. Chủ thể tham gia quan hệ đại diện là bên đại diện
và bên được/bên nhận đại diện. Bên đại diện nhân danh bên được đại diện xác lập quan
hệ với bên thứ ba, và vì lợi ích của bên được đại diện. Theo quy định tại khoản
1 Điều 139, khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015, thì: Bên được đại diện tiếp nhận
(chịu) các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm
quyền, trong phạm vi nội dung đại đại diện. Theo quy định tại Điều 136 BLDS năm
2015, thì: Người được đại diện có thể là cá nhân khơng có năng lực hành vi hoặc hạn

10


chế năng lực hành vi, nên phải có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Điểm a,
khoản 1, Điều 117, Khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2015 quy định: Người có đầy đủ
năng lực hành vi có thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của
mình. Pháp nhân hoạt động thơng qua hành vi của những người nhất định có thẩm
quyền đại diện cho chủ thể đó.
Quan hệ đại diện có thể được xác lập theo quy định của pháp luật, có thể được
xác lập theo ý chí của các chủ thể tham gia, thể hiện bằng văn bản ủy quyền. Trong
phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự, đem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện. Hay nói cách khác, ý chí
của người đại diện cũng ràng buộc người giao dịch (gọi là người được đại diện) một
khi việc bày tỏ ý chí đáp ứng đầy đủ các điều kiện được pháp luật quy định.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu quan hệ đại diện phát sinh giữa bên đại
diện và bên được đại diện. Việc đại diện nhằm mục đích nhân danh tiến hành xác
lập, thực hiện giao dịch vì lợi ích của bên được đại diện.
1.1.2. Quan hệ pháp luật đại diện
Quan hệ pháp luật đại diện bao gồm các yếu tố: Chủ thể, khách thể và nội
dụng đại diện.
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ đại diện
Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện.
Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngồi ra cịn phải đáp ứng
thêm một số điều kiện khác tùy thuộc vào yêu cầu của công việc đại diện. Chẳng
hạn như người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không rơi vào các trường
hợp pháp luật cấm làm người đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp phải bảo đảm
ln có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Khi chỉ còn
lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất
cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt
Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
Đối với doanh nghiệp, mọi hoạt động phải thông qua hành vi của người đại diện,
và sự ra đời, tồn tại của doanh nghiệp ln gắn bó mật thiết với sự tồn tại của người

11


đại diện theo pháp luật. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì tư
cách đại diện của người đại diện cũng chấm dứt theo.
1.1.2.2. Khách thể của quan hệ đại diện
Bản chất của quan hệ đại diện là người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người
được đại diện. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là người đại diện khơng mong
muốn có được lợi ích từ việc thực hiện cơng việc đại diện của mình. Mục đích của họ
có thể chỉ đơn thuần là nghĩa vụ bắt buộc phải làm (do bị Tòa án chỉ định), vì lợi ích
vật chất (được trả thù lao khi thực hiện cơng việc đại diện) hay vì thực hiện các quyền

và nghĩa vụ được ghi nhận trong hợp đồng ủy quyền, hợp đồng lao động.

Đối với doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật là điều kiện để doanh
nghiệp có thể được thành lập hợp pháp, được vận hành và hoạt động bình thường.
Khơng những vậy, điều mà doanh nghiệp mong muốn nhất là người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp sẽ sử dụng toàn bộ khả năng, tri thức, kinh nghiệm có
được để thúc đẩy việc kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
1.1.2.3. Nội dụng của quan hệ đại diện
Nội dung của quan hệ đại diện là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong
hành vi thực tế sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó. Quyền và nghĩa vụ của người đại
diện được phát sinh trên cơ sở hành vi đại diện của người đại diện trong phạm vi và nội
dung đại diện. Do đó, để các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người đại
diện xác lập trở thành quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, thì người xác lập
giao dịch đó phải có quyền đại diện và phải thực hiện các cơng việc trong phạm

vi

đại diện.
Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, người đại diện có thể vượt quá phạm vi đại

diện khi xác lập, thực hiện giao dịch hoặc giao dịch được xác lập, thực hiện do người
khơng có quyền đại diện. Việc khơng có quyền đại diện, có thể xuất phát từ việc: Cơ sở
pháp lý trao quyền đại diện cho một người khơng có giá trị pháp lý như khi giao dịch
ủy quyền vô hiệu, hoặc xuất phát từ việc khơng có cơ sở pháp lý nào trao cho người đại
diện quyền đại diện như trường hợp: Giám đốc chi nhánh của pháp

12


nhân hay phó giám đốc của cơng ty khơng có ủy quyền, đồng thời cũng khơng có

quy định nào trao cho họ quyền này.
Các vấn đề như nêu trên, pháp luật cũng đã dự liệu và quy định hậu quả pháp lý
của những người khơng có quyền đại diện xác lập, thực hiện - không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng
ý. Bên cạnh đó, giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm

vi đại diện cũng không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối
với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người
đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Tuy nhiên, nếu khơng được sự đồng ý
thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về
phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện và tùy thuộc vào mức độ của hành vi vi
phạm gây ra thiệt hại cho người được đại diện, người đại diện ngoài việc phải bồi
thường thiệt hại cho người được đại diện, còn phải chịu các trách nhiệm pháp lý
khác (nếu có).
1.1.3. Phân loại đại diện
1.1.3.1. Đại diện theo pháp luật
BLDS năm 2015 không đưa ra định nghĩa như thế nào là đại diện theo pháp luật mà chỉ
liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân (Điều 136) và đại diện theo
pháp luật của pháp nhân (Điều 137). Thế nhưng, dựa vào quy định của Điều 135 BLDS
năm 2015 về căn cứ xác lập quyền đại diện thì: Đại diện theo pháp luật là:“Đại diện
được xác lập thông qua quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ
của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”. Theo đó, BLDS năm 2015 đã bổ
sung trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là “Người do Tịa án chỉ
định trong q trình tố tụng tại tịa án”. Bên cạnh đó, LDN năm 2020 cũng quy định:
“Tịa án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác có quyền chỉ định người đại
diện theo pháp luật tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.”. Điều này cho thấy,
thẩm quyền của Tòa án đã được tăng cường hơn trong quá trình giải quyết các tranh
chấp về đại diện nói chung và đại diện theo pháp luật nói riêng. Như vậy, việc chỉ định
của Tòa án cũng là một căn cứ làm phát sinh quyền đại diện của


13


người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Ví dụ điển hình là trường hợp chỉ định
quản tài viên trong một vụ án phá sản doanh nghiệp (khoản 3, Điều 9; khoản 2, Điều

16

Luật Phá sản năm 2014).

BLDS năm 2015 đã mở rộng quyền cho người đại diện và người được đại diện,
khi quy định một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Theo đó,
điều lệ của pháp nhân sẽ quy định cụ thể về số lượng, chức danh quản lý, và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Đồng thời, BLDS năm 2015
cũng cho phép một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp
nhân khác nhau, nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập thực
hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại
diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo tác giả, đây là quy
định tiến bộ và có thể lý giải cho sự cải cách đó là xuất phát từ thực tiễn hoạt động của
pháp nhân, mà chủ yếu là các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh
doanh cho các doanh nghiệp và thống nhất với LDN năm 2020.

1.1.3.2. Đại diện theo ủy quyền
Tương tự như quy định về đại diện theo pháp luật, BLDS năm 2015 cũng
không đưa ra định nghĩa thế nào là đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, dựa vào quy
định tại Điều 135 BLDS năm 2015 về căn cứ xác lập quyền đại diện, có thể hiểu:
“Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại
diện và người được đại diện”. Người đại diện theo ủy quyền phải có năng lực giao
kết hợp đồng, cụ thể là năng lực giao kết hợp đồng ủy quyền. Trong trường hợp đại
diện là cá nhân thì trên nguyên tắc phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên,

cũng có trường hợp ngoại lệ là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi vẫn có thể đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải do người đủ 18 tuổi trở lên xác lập thực hiện.
Khác với đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ
đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên – bên đại diện và bên được đại diện, biểu
hiện được thông qua văn bản uỷ quyền. Nội dung ủy quyền, phạm vi, thẩm quyền đại

14


diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác định thông qua sự
thỏa thuận của người đại diện và người được đại diện.
Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân pháp nhân khác đại diện cho
mình xác lập thực hiện các hành vi pháp lý trong khuôn khổ nội dung ủy quyền đã
thoả thuận với người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền phải trực tiếp
thực hiện các giao dịch dân sự theo nội dung đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, người đại diện theo ủy quyền có thể ủy quyền lại cho một người khác
thực hiện thay thẩm quyền đại diện của mình.
Đối với doanh nghiệp, khơng bắt buộc phải có đại diện uỷ quyền, nhưng phải
có người đại diện theo pháp luật, vì nếu khơng có người đại diện theo pháp luật thì
doanh nghiệp sẽ khơng tự vận hành và hoạt động được.
1.2. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với
các quan hệ đại diện khác
1.2.1. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với
người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp
Khác với đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo ủy quyền là trường hợp
quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên – bên đai diện và bên được đại
diện. Do vậy, để một giao dịch được xác lập một cách có giá trị thơng qua vai trị
của người đại diện, thì người này phải có quyền đại diện và phải bày tỏ ý chí giao

kết với tư cách người đại diện.
Ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có
thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thoả mãn nhanh
chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.
Giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo
ủy quyền của doanh nghiệp có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, về quyền nhân danh doanh nghiệp: Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp được pháp luật trao quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp, quản lý

15


con dấu, được nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp. Còn người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp là người được
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy quyền để thực hiện một hoặc
một số quyền và nghĩa vụ nhất định, tùy thuộc vào nội dung và phạm vi ủy quyền.
Khác với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, người đại diện theo ủy
quyền của doanh nghiệp sẽ khơng có quyền đương nhiên nhân danh doanh nghiệp
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp, mà chỉ được nhân
danh doanh nghiệp trong phạm vi ủy quyền.
Thứ hai, về quyền ủy quyền cho người khác: Đối với người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp, thì họ có quyền ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền
và nghĩa vụ của doanh nghiệp do mình đại diện theo pháp luật. Chẳng hạn như:
Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể ủy quyền cho
phó giám đốc,… thực hiện một số quyền và nghĩa vụ nhất định của doanh nghiệp
hoặc trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt tại Việt
Nam quá 30 ngày, thì phải ủy quyền cho người khác đại diện để thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trong khi đó, người
đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp sẽ không được đương nhiên ủy quyền lại

cho người khác để thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện cho doanh nghiệp mà mình
đã được ủy quyền, trừ trường hợp người ủy quyền đồng ý.
Thứ ba, về thù lao đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
không hưởng thù lao đại diện, mà chỉ hưởng thù lao chức vụ. Còn đối với người đại
diện theo ủy quyền của doanh nghiệp có thể có thù lao đại diện, thù lao đại diện do
các bên thỏa thuận.
Thứ tư, về thời hạn đại diện: Thời hạn đại diện của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp gắn với nhiệm kỳ hoặc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động được ký kết bởi chủ
sở hữu doanh nghiệp. Trong khi đó, thời hạn đại diện của người đại diện theo ủy
quyền của doanh nghiệp được thể hiện rõ ở văn bản ủy quyền; trường hợp các bên

16


khơng ghi rõ thời hạn uỷ quyền thì pháp luật ấn định thời hạn uỷ quyền là một năm
kể từ ngày các bên ký uỷ quyền.
Thứ năm, quy định về điều kiện cư trú tại Việt Nam: Người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam. Ngược lại, người đại diện theo ủy
quyền của doanh nghiệp khơng bị ràng buộc về điều kiện cư trú.
Tóm lại, có thể thấy trong cùng một doanh nghiệp, địa vị pháp lý của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo ủy quyền của
doanh nghiệp là khác nhau. Sự khác nhau này là hoàn toàn hợp lý để phân định
quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mỗi người khi thực hiện quan hệ đại
diện cho doanh nghiệp.
1.2.2. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với
người đại diện theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp cơng
lập, tổ chức chính trị - xã hội.
Doanh nghiệp hay cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp cơng lập hoặc tổ chức
chính trị xã hội, đều là tổ chức có tư cách pháp nhân. Do vậy, các tổ chức này cần

phải cử ra người đại diện theo pháp luật để thay mặt thực hiện các quyền, nghĩa vụ
của mình hoặc xác lập thực hiện giao dịch với bên thứ ba. Tuy nhiên, giữa người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo pháp luật của cơ quan
tổ chức cũng có những điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về căn cứ hình thành tư cách đại diện: Đối với người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp, tư cách của người đại diện được hình thành dựa vào
quy định của LDN và điều lệ cơng ty,… Cịn người đại diện theo pháp luật của cơ
quan đơn vị sự nghiệp công lập, hoặc tổ chức chính trị xã hội thì tư cách đại diện
được hình thành dựa vào các quy định pháp luật liên quan đến từng loại hình của cơ
quan, tổ chức đó và do bầu cử hoặc cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm theo những
trình tự, thủ tục nhất định.
Thứ hai, về luật áp dụng: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp áp
dụng các quy định của BLDS và LDN. Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật
của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, hoặc tổ chức chính trị xã hội áp

17


dụng các quy định của Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, Luật Cơng đồn,
Luật Giáo dục đại học,….
Thứ ba, về nghĩa vụ thông báo tư cách người đại diện: Đối với người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp, khi được doanh nghiệp cử ra thì doanh nghiệp phải có
nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh, và thông báo công khai trên cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp của người đại diện theo pháp luật. Còn
người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính
trị xã hội khi được bầu cử hay bổ nhiệm làm người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, mà chỉ thông báo họ tên và chữ ký cho các cơ quan có liên quan.

Thứ tư, về thời hạn đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
có thời hạn đại diện theo nhiệm kỳ, hoặc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký

doanh nghiệp, hoặc hợp đồng lao động. Còn người đại diện theo pháp luật của cơ
quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội có thời hạn theo nhiệm kỳ
và không được quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Thứ năm, quy định về quốc tịch của người đại diện: Đối với doanh nghiệp, pháp
luật không bắt buộc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là công dân
Việt Nam mà vẫn có thể là người nước ngồi. Trong khi đó, người đại diện theo pháp
luật của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội tuy pháp luật
không quy định bắt buộc phải là công dân Việt Nam, nhưng do đặc thù của quản lý
hành chính và quản lý tài sản cơng, cho nên, tất cả các cơ quan Nhà nước hiện nay đều
bổ nhiệm người đứng đầu đại diện theo pháp luật là công dân Việt Nam.

Thứ sáu, về điều kiện cư trú của người đại diện: Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam, nếu vắng mặt quá 30 ngày thì bắt buộc
phải ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Đối với người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức chính trị xã hội, pháp luật không quy định cụ thể về điều kiện cư trú.
Có thể thấy, tuy cùng là người đại diện theo pháp luật của một pháp nhân trên
lãnh thổ Việt Nam, nhưng các quy định về địa vị của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, và người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự

18


nghiệp, tổ chức chính trị xã hội cịn có nhiều điểm khác nhau. Điều này có thể xuất
phát từ lý do tài sản của doanh nghiệp có thể là tài sản của Nhà nước, hoặc của cá
nhân trong và ngoài nước, còn tài sản của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức chính trị xã hội là thuộc về ngân sách quốc gia. Do đó, cơ chế quản lý đối với
doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội cũng
khơng giống nhau.
1.2.3. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với

người đại diện theo pháp luật của cá nhân
Doanh nghiệp là một tổ chức, nên phải hành động thơng qua người đại diện,
cịn cá nhân, về ngun tắc có thể tự mình thực hiện được quyền và nghĩa vụ của
mình khơng cần người đại diện. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong một số
trường hợp đặc biệt, pháp luật đã quy định một số trường hợp đại diện theo pháp
luật của cá nhân như: cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên, con bị mất năng lực
hành vi dân sự hoặc được Tòa án chỉ định…
Giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện của cá
nhân có một số điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về trường hợp đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp: Doanh nghiệp với tư cách là một tổ chức, mọi hoạt động của doanh nghiệp
nói chung đều thơng qua người đại diện theo pháp luật. Do đó, doanh nghiệp cần có
người đại diện theo pháp luật để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho doanh
nghiệp. Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật của cá nhân xuất hiện với các lý
do: Mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự…
Thứ hai, về quyền của người đại diện: Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp được nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp. Còn đối với người đại diện theo pháp luật của cá nhân được quyền
trực tiếp thay mặt người được đại diện - để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
được đại diện, hoặc đồng ý để cho người được đại diện thực hiện một số quyền liên
quan đến nhân thân mà pháp luật bắt buộc phải do cá nhân đó thực hiện như kết
hơn, bầu cử, ứng cử,…

19


Thứ ba, về thời hạn đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
có thời hạn đại diện gắn với nhiệm kỳ, hoặc theo hợp đồng lao động, hoặc thời hạn
ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Còn đối với người đại diện theo
pháp luật của cá nhân, pháp luật khơng có quy định thời hạn đại diện, tuy nhiên sự

kiện đại diện sẽ được chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, quy định về cư trú: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải
cư trú tại Việt Nam, nếu vắng mặt quá 30 ngày phải ủy quyền lại cho người khác thực
hiện quyền và nghĩa vụ đại diện cho doanh nghiệp. Trong khi đó, ngưởi đại diện theo
pháp luật của cá nhân không bị ràng buộc điều kiện cư trú tại Việt Nam.

Thứ năm, về chấm dứt quan hệ đại diện: Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp chấm dứt tư cách đại diện khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, hoặc
doanh nghiệp thay đổi người đại diện khác. Còn đối với người đại diện theo pháp
luật của cá nhân, quan hệ đại diện chấm dứt khi: Cá nhân đã có đầy đủ hoặc đã khơi
phục năng lực hành vi dân sự, người đại diện hoặc người được đại diện chết.
Từ những phân tích trên cho thấy: Tuy đều là người đại diện theo pháp luật,
nhưng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp
luật của cá nhân vẫn có nhiều điểm khác biệt.
1.3. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
1.3.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Theo từ điển Luật học, người đại diện theo pháp luật là: “Người đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định mà không
phải do các bên thỏa thuận”. Sự giải thích này về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp lại thiên về góc độ pháp lý, và phân biệt giữa đại diện theo pháp luật
với đại diện theo ủy quyền.


Việt Nam, trước đây, LDN năm 2005 không đưa ra khái niệm về người đại diện

theo pháp luật của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý của
các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, LDN năm 2014 đã thể hiện bước tiến khi có
một điều khoản dành riêng để quy định về người đại diện theo pháp luật. Theo đó,


20


khoản 1 Điều 13, LDN năm 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án
và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Khoản 1, Điều 12 LDN năm 2020 tiếp tục kế thừa và quy định rõ: “Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực
hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho
doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa
vụ khác theo quy định của pháp luật.”.
1.3.2. Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.3.2.1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân
Pháp nhân cũng có thể là đại diện cho doanh nghiệp hay pháp nhân khác,
nhưng để có thể thực hiện vai trị đại diện thì cuối cùng vẫn phải có một người cụ
thể - là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hoặc người được ủy quyền; tức
là, pháp nhân chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền, chứ không thể là đại diện theo
pháp luật của cá nhân hay pháp nhân khác. Bởi vì, khác với cá nhân, pháp nhân
khơng có sự lựa chọn nào khác là người được đại diện, do pháp nhân khơng thể hiện
bản thân được nên chúng chỉ có thể biểu hiện ra bên ngồi thơng qua trung gian của
một cá nhân, có nghĩa là đại diện theo pháp luật của pháp nhân được thiệt lập do
bản thân pháp nhân khơng phải là con người, và do đó khơng thể tự mình thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này đã thể hiện rõ khi Điều 136 và Điều 137
BLDS năm 2015 đã liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân và
pháp nhân đều là con người (là cá nhân, chứ không xuất hiện pháp nhân làm đại
diện theo pháp luật của cá nhân và pháp nhân).
Đối với doanh nghiệp, pháp luật quy định rõ: Người đại diện theo pháp luật cũng

phải là một cá nhân cụ thể, có năng lực hành vi dân sự. Hơn nữa, do xuất phát từ đặc
trưng của hoạt động kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp phải là người có

21


năng lực hành vi dân sự đầy đủ, để có thể thực hiệc và chịu trách nhiệm cá nhân
trước các hành vi quản lý, điều hành của mình.
1.3.2.2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh
nghiệp
Đặc điểm này tuy không được thể hiện trong khái niệm được nêu tại khoản 1
Điều 12 LDN năm 2020. Tuy nhiên, thông qua các quy định nằm rải rác trong LDN
năm 2020, chúng ta có thể thấy được đặc điểm này. Cụ thể là đối với loại hình công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, có thể có một hoặc nhiều người đại diện
theo pháp luật tùy thuộc vào nhu cầu của công ty và những người đại diện theo pháp
luật của công ty phải có những chức danh quản lý cụ thể được quy định trong Điều
lệ (khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020). Đối với cơng ty hợp danh thì thành viên hợp
danh là người đại diện theo pháp luật (khoản 1 Điều 184). Cịn đối với doanh
nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật
(khoản 2 Điều 190). Những chức danh quản lý này có thể là Chủ tịch HĐTV, Chủ
tịch HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, hay các cá nhân giữ chức danh quản lý
khác có thẩm quyền nhân danh cơng ty ký kết giao dịch của công ty do Điều lệ quy
định như Giám đốc nhân sự, Giám đốc chi nhánh hay Trưởng phòng kinh doanh,…
Những người đại diện theo pháp luật nêu trên là những người quản lý doanh
nghiệp được liệt kê ở khoản 24, Điều 4, LDN năm 2020. Như vậy, các chức danh
quản lý phải có thẩm quyền nhân danh công ty, ký kết giao dịch của công ty theo
quy định tại điều lệ, thì mới được xem là người quản lý doanh nghiệp. Cho nên, vơ
hình trung, quy định này đã thể hiện người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
là người quản lý doanh nghiệp. Theo tác giả, việc quy định như vậy là khá chặt chẽ,
nhằm tạo cho việc quản trị của doanh nghiệp được thống nhất. Bởi lẽ, việc trao cho

một người có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp thực hiện các quyền
và nghĩa vụ, nhưng lại không trao cho họ nắm giữ quyền quản lý thì họ khơng thể
chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó một cách trọn vẹn được. Hơn nữa,
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là người quản lý để có thể tối
đa hóa các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã trao cho họ.

22


Người đại diện theo pháp luật là người quản lý doanh nghiệp, nhưng ngược lại
người quản lý doanh nghiệp chưa chắc là người đại diện theo pháp luật, ví dụ: Trường
hợp điều lệ của công ty quy định chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp
luật của công ty, giám đốc cũng là người quản lý công ty những lại không phải người
đại diện theo pháp luật của cơng ty - vì Điều lệ khơng quy định. Ngoài ra, cũng cần
phân biệt người quản lý doanh nghiệp với nhân viên quản lý doanh nghiệp. Đây là hai
thuật ngữ có bản chất khơng giống nhau. Theo đó, người quản lý doanh nghiệp là người
quản lý công ty, còn nhân viên quản lý được hiểu là những người đứng đầu bộ phận
trong cơng ty (như kế tốn, nhân sự…) – là bộ phận giúp việc cho những người quản lý
doanh nghiệp. Họ hỗ trợ bằng cách cung cấp cho người quản lý doanh nghiệp thông tin
và đưa ra những lời tư vấn. Những người nhân viên quản lý doanh nghiệp này thường
không được phép đưa ra những quyết định nhân danh công ty.

1.3.2.3. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người lao động đặc
biệt
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được coi là “người lao động
đặc biệt”. Ở họ, một mặt ngoài việc lao động tri óc theo năng lực, chun mơn và
kinh nghiệm của mình, mặt khác họ cịn đóng vai trị là người quản lý, người nhân
danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch với các đối tác.
Bên cạnh đó, số lượng người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp có thể chỉ
là một người duy nhất (đối với doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp

luật), hoặc chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (đối với loại hình cơng ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần) trong số lượng đông đảo người lao động của một doanh
nghiệp. Hơn nữa, họ cịn là nguồn nhân lực có năng lực và trình độ cao trong bảng
phân vùng chất lượng lao động.
Ngồi ra, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp còn thể hiện điểm đặc
biệt ở chỗ là: Họ phải đáp ứng nhiều điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành người đại
diện theo pháp luật hợp pháp của doanh nghiệp, điển hình như: Phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, có trình độ chun mơn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của
công ty,… Cũng do vậy, mà họ được trao nhiều quyền và nghĩa vụ hơn những người

23


lao động bình thường khác, ví dụ điển hình như: Nhân danh doanh nghiệp trong
việc xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, tố tụng,
…; ký vào điều lệ công ty; ký tên trên cổ phiếu hoặc giấy chứng nhân góp vốn; ký
báo cáo tài chính của doanh nghiệp;… Và dĩ nhiên, họ cũng phải chịu nhiều trách
nhiệm hơn. Chẳng hạn như trách nhiệm đăng ký thay đổi nội dung giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi; thực hiện
cơng bố thơng tin và phải chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, kịp thời, trung thực và
chính xác của thơng tin được cơng bố; chịu trách nhiệm về thiệt hại do những sai sót
trong nội dung và hình thức cổ phiếu do cơng ty phát hành ra;… Đặc biệt là doanh
nghiệp không thể không có người đại diện theo pháp luật, và cịn phải đảm bảo rằng
ln có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam.
1.3.3. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Có ý kiến cho rằng: Chỉ có hai căn cứ để xác lập quyền đại diện của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đó là: Theo quy định của pháp luật và theo
điều lệ của doanh nghiệp. Tác giả khơng đồng tình với quan điểm trên, bởi vì: Theo
quy định tại khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2015, và LDN năm 2020 thì có thể

khẳng định: Có đến ba căn cứ để xác lập quyền đại diện của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp, đó là: Theo điều lệ của doanh nghiệp, theo quy định
của pháp luật và theo quyết định của Tòa án.
1.3.3.1. Theo điều lệ của doanh nghiệp
Căn cứ này chỉ đặt ra đối với người đại diện theo pháp luật trong loại hình cơng ty
cổ phần, cơng ty trách nhiện hữu hạn hay công ty hợp danh, mà không đặt ra đối với
doanh nghiệp tư nhân, bởi vì doanh nghiệp tư nhân khơng có Điều lệ. BLDS năm 2015
cũng đã có quy định thống nhất với LDN năm 2020 khi bổ sung căn cứ xác lập quyền
đại diện là “theo Điều lệ của pháp nhân”. Xét ở khía cạnh đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, LDN năm 2020 cho doanh nghiệp được toàn quyền quyết định số lượng người
đại diện theo pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận
dụng mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật.

24


Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong
trường hợp người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện các
yêu cầu của thành viên hoặc cổ đông trong quá trình quản lý, điều hành doanh nghiệp,
trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngồi cơng ty. Tuy nhiên, có thể sẽ gây khó
khăn trong q trình vận dụng, vì: “điều lệ của pháp nhân cho dù được công bố vẫn
chỉ là quy định nội bộ để ràng buộc những người của pháp nhân, không thể làm cơ sở
để ràng buộc người ngoài. Thực tế, điều lệ của pháp nhân thường rất dài, khó hiểu, và
đối tác khơng thể đọc toàn bộ điều lệ của pháp nhân mỗi khi xác lập giao dịch với
pháp nhân… chưa kể đến trường hợp điều lệ pháp nhân thay đổi theo thời gian và vì
q dài nên có thể có những trang bị thay thế mà đối tác không thể kiểm chứng”. Hơn
nữa, các đối tác của công ty không phải lúc nào cũng tiếp cận được điều lệ và không
bảo đảm việc xác định được chính xác nội dung phân quyền, cũng như bản điều lệ nào
có hiệu lực thật sự. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: Đây là một sự bổ sung nguy hiểm
đối với các bên tham gia vào giao dịch, vì điều lệ chỉ là quy định nội bộ của pháp nhân

nhưng lại có nguy cơ để khai thác chống lại người thứ ba.
Đối với loại hình cơng ty cổ phần, Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 LDN năm

2020 quy định: “…công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo
pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu cơng ty có nhiều
hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ cơng ty quy định cụ thể quyền,
nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền,
nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều
lệ cơng ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm
quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật
phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”
Như vậy, điều lệ của công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản
lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Pháp luật
đã trao cho doanh nghiệp quyền tự định đoạt số lượng, chức danh quản lý, quyền và

25


×