Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Lý luận kinh tế hàng hóa của các mác và liên hệ thực tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.14 KB, 13 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với bất kì quốc gia nào, nền kinh tế hàng hóa cũng đóng vai trị chủ đạo
chi phối đáng kể vào nền hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Sau hơn 10 năm đổi mới toàn diện, trước những thử thách gay go, những
hồn cảnh hết sức khó khăn phức tạp nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam
không những đã đứng vững được mà còn vươn lên đạt được những thắng
lợi trên nhiều mặt. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi đó là Đảng và
Nhà nước ta đã kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế hàng hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đây chính là bước ngoặt quan trọng thể hiện một quyết định sáng suốt
của Đảng và Nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất
nước.
Nhìn lại trước những năm đổi mới ta có thể thấy, suốt một thời gian dài
các nước xã hội chủ nghĩa (trong đó có nước ta) đã khơng nhận thức đúng
vai trị của sản xuất hàng hóa, của kinh tế thị trường, coi nhẹ, thậm chí phủ
nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, chỉ nhìn thấy
mặt tiêu cực của kinh tế hàng hóa, phủ nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Bởi
vậy chúng ta không tạo được động lực để phát triển sản xuất, vơ tình hạn
chế những ứng dụng của khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, năng suất sản
xuất tăng chậm, gây rối loạn và ắc tách trong quá trình phân phối, lưu
thơng làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng kém năng động, trì trệ.
Như vậy từ việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế hàng
hóa chúng ta sẽ có cái nhìn tổng qt hơn về vai trò cũng như hạn chế của
nền sản xuất hàng hóa để từ đó soi rọi vào vấn đề cấp bách hiện nay của
nước ta trong công cuộc đổi mới của nước ta đang đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
3


Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “ Lý luận kinh tế hàng hóa
của Các Mác và liên hệ thực tế ở Việt Nam”.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết này của em sẽ khó tránh được
những sai sót. Kính mong được thầy chỉ bảo để bài viết thêm phần sâu sắc.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ Lý luận của chủ nghĩa Mác về Kinh tế hàng hóa.
1. Kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm
đều do những sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất
định, thành thử muốn thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị trường. ( Lênin
tồn tập, tập 1, trang 106).
Như vậy, kinh tế hàng hóa là một nền kinh tế mở, các quan hệ hầu hết
được thể hiện dưới hình thái giá trị.
Kinh tế hàng hóa xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã,
tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, đó là sản xuất hàng
hóa giản đơn. Đến chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến
và thống trị trong nền kinh tế, khơng những thế cịn phát triển lên giai đoạn
cao hơn là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến chủ nghĩa xã hội vẫn
cịn sản xuất hàng hóa. Đó là sản xuất hàng hóa lớn XHCN hay cịn gọi là
nền kinh tế thị trường XHCN.
4
1.1 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn
liền với hai điều kiện tiền đề:
Một là: Có sự phân cơng lao đơng xã hội. Phân cơng lao động xã hội là

sự chun mơn hóa sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hay một số loại
sản phẩm nhất định. Song nhu cầu cuộc sống lại địi hỏi nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất
khác, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
Ví dụ: Người nơng dân thì sản xuất ra lúa gạo, cịn người thợ dệt sản xuất
ra vải vóc. Nhưng người nơng dân cũng phải cần đến vải vóc và người thợ
dệt cũng cần lúa gạo. Để thỏa mãn nhu cầu của mình họ phải nương tựa
vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.
Như vậy phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản
phẩm trở thành tất yếu. Tuy nhiên theo Các Mác đây mới chỉ là điều kiện
cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.
Hai là: Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản
xuất hàng hóa và sản phẩm, điều này làm cho người sản xuất hàng hóa độc
lập với nhau và mỗi người có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với
người khác. Đây là điều kiện đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.
Như vậy: Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào
nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ họ, làm họ độc lập với nhau, đây là một
mâu thuẫn. Tuy nhiên sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời cả hai
điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì khơng có sản xuất
hàng hóa và sản phẩm lao động khơng mang hình thái hàng hóa.
1.2 Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa.
• Đặc trưng
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.
5


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

- Lao động của người sản xuất vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang

tính chất xã hội.
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận.
• Tính ưu việt
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của lồi người. Bởi vậy nó có nhiều ưu
thế, và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản
xuất tự cung tự cấp.
Nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Nó thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm
cho sự phân cơng chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa
chặt chẽ hình thành các mối quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của
những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới. Nó thúc
đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy
q trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
 Bước chuyển từ kinh tế háng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát
triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng
hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa,
tiền tệ và thị trường được phát triển, mở rộng. Hàng hóa khơng chỉ bao
gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao
hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị
trường được hoàn thiện và mở rộng. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều
được tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa.
2.1 Các nhân tố của kinh tế hàng hóa.
2.1.1 Hàng hóa
6
* Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thơng qua trao đổi mua bán.
* Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng (đem tiêu dùng/ sử dụng)

và giá trị (đem trao đổi/ mua bán).
Giá trị sử dụng là cơng dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng hay
công dụng của hàng hóa trước hết là do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định. Như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Một sản phẩm đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng
khơng phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa (vì hàng hóa
phải là sản phẩm lao động của con người). Trong kinh tế hàng hóa, giá trị
sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
Theo Các Mác muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

đổi. Có thể nói trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai
hàng hóa trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.
Vậy giá trị của hàng hóa là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa đó. Hay nói cách khác giá trị là lao động xã hội của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao
đổi cũng thay đổi, giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị.
Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của
hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự mâu thuẫn này thể hiện
ở chỗ:
- Với tư cách là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, cịn với
tư cách là giá trị thì với mọi hàng hóa đều đồng nhất về chất.
- Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác nhau về không gian
và thời gian.
7

* Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Các Mác là người đầu
tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là
lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại
dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra
giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi
lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết
quả riêng.
Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản
xuất vật chất của con người.
Lao động trừu tượng là lao động hao phí của người sản xuất hàng hóa
nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính
mn màu mn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu
tượng tạo ra giá trị của hàng hóa nên nó là một phạm trù lịch sử.
Tuy nhiên cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng
hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính 2 mặt mà thơi.
Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn thì tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa là sự biếu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động
xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản
của sản xuất hàng hóa giản đơn.
2.1.2 Tiền tệ.
* Nguồn gốc, lịch sử ra đời của tiền tệ
Giá trị của hàng hóa rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao
đổi, giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của
nó.Tiền tệ xuất hiện là kết quả của q trình lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, của các hình thức giá trị hàng hóa.Đó là: Hình thái giá trị đơn


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


giản hay ngẫu nhiên -> Hình thái giá trị tồn bộ hay mở rộng -> Hình thái
giá trị chung -> Tiền tệ ra đời.
8
* Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là một hàng hóa đặc
biệt thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
* Chức năng của tiền tệ: - Là thước đo giá trị.
- Phương tiện lưu thơng.
- Phương tiện cất trữ.
- Phương tiện thanh tốn.
- Tiền tệ thế giới.
2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy
luật cạnh tranh.
Trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, đây chính là nội dung của quy
luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất hàng hóa.Ở đâu có sản
xuất hàng hóa ở đó có quy luật giá trị tác động. Quy luật giá trị chi phối
việc sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hóa. Nội dung của quy luật
này được biểu hiện thông qua sản xuất và lưu thông. Trong sản xuất, đối
với thời gian hao phí cá biệt thì đại bộ phận là tương đương với thời gian
lao động cần thiết, một số ít nhỏ hơn thì lại có một số lớn hơn. Đối với tồn
xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời gian lao động xã hội
cần thiết. Trong lưu thông, đối với một loại hàng hóa giá cả có thể lên
xuống nhưng phải xoay quanh trục giá trị (nguyên nhân là do tác động của
quan hệ cung – cầu). Đối với tổng hàng hóa trên phạm vi xã hội thì giá trị
của nó được biểu hiện là: tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị hàng hóa.
Từ nội dung của quy luật giá trị, ta có thể thấy rõ được tác dụng của nó
trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ nhất, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết
tự phát sản xuất (phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động) và lưu thông
(nguồn hàng) qua sự biến động của giá cả thi trường. Thứ hai, quy luật giá
trị kích thích sự phát triển tự phát koa học cơng nghệ, lực lượng sản xuất,
hiệu quả và năng suất lao động xã hội, làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá

tri xã hội. Ngồi ra quy luật giá trị cịn phân hóa người sản xuất thành kẻ
9
giàu người nghèo, làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát sinh và
phát triển.
Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản và tất yếu của kinh tế hàng
hóa. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lâp và khác
nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị
sản xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao
đọng xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, các đơn vị kinh doanh phải ganh
đua, đấu tranh nhằm giành được những điều kiện thuận lợi và thu nhiều lợi
ích cho mình. Đối tượng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

là giành nguồn nguyên liệu, thị trường, lực lượng khoa học kỹ thuật, chất
lượng, giá cả bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế.
Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông
bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hóa và dich
vụ trên thị trường. Hình thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất
phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh là lợi
nhuận.
*Lợi nhuận là động lực mạnh nhất của nền kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế hàng hóa lợi nhuận ln được các nhà đầu tư kinh tế,
các tổ chức kinh tế coi là động lực mục tiêu của mình. Làm thế nào để chi
phí ít nhất mà lợi nhuận thu về nhiều nhất. Điều này địi hỏi tính chun
mơn cao, sự sắp xếp lại cách tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản
lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động nhịp nhàng
thơng suốt tránh sự trì trệ khơng cần thiết trong một số khâu nào đó làm

ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận cồng kềnh
còn giúp các nhà kinh tế giản bớt được chi phí, đồng nghĩa với việc tăng
lợi nhuận. Ngồi ra còn cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ
cán bộ nhân viên. Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động
của nền kinh tế hàng hóa.
10
II/ Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa khơng phải là một
phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại
trong các phương thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng
là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của
kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên
vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng hóa theo chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát
triển kinh tế hàng hóa là tất yếu khách quan.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước
XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mơ hình kế hoạch hóa tập trung dựa
trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của
nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mơ
hình kế hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một
nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước
đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản và
tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản
xuất hàng hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số
25/CP của Chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không
chỉ thừa nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả
một nền kinh tế hàng hóa, coi đó là một q trình có tính quy luật đi lên
sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW 6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội
VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta
mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
11
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hồn
tồn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của
xã hội”.
Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ
trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề
ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển
cao hơn chính là kinh tế thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những
khơng đối lập mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây
dựng và phát triển đất nước theo con đương XHCN”.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ
nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mơ hình của
Mác-Lênin về một chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hóa.
Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và
với xu thế của thời đại. Bởi vì:
Thứ nhất: nếu chúng ta khơng thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ
nguyên cơ chế kinh tế cũ thì khơng thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng
chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những

năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta
đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả
của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp, sản xuất không đáp ứng nổi
tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như khơng có, đơi khi cịn ăn lạm cả vào
vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai: do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng
nhắc do nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
ngắn và chỉ có tác dụng
phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
q dài do đó mó khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc
12
đẩy sản xuất phát triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba: xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta
đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh
tế đối ngoại, cịn tham gia vào sự phân cơng hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu
nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận
động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế
giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong nước sẽ gần gũi hơn với
tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ 4: xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự
cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất khơng cịn là dân số
đơng, vũ khí nhiều, qn đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính
sách của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia

của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được ổn định,
thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành thước đo chủ yếu, vai trị sức
mạnh của mỗi dân tộc, là cơng cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của Đảng cầm quyền.
2. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta.
2.1 Tiềm năng
- Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lí
thuận lợi.
- Có sức lao động dồi dào, trình độ văn hóa, trình độ về chun mơn so
với nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình.
- Chúng ta có đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà
nước.
2.2 Hạn chế
13
- Tuy là nước nơng nghiệp nhưng bình qn ruộng đất canh tác theo
đầu người thấp.
- Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên,
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường
chưa phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp,
sức mua còn hạn chế.
- Kết cấu hạ tầng cơ sở cịn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật
chưa cao, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập…
Đảng và Nhà nước ta đang có những chính sách, giải pháp để khắc phục
những hạn chế trên.
3. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi
mới đến nay.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan
điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

nghĩa xã hội ở nước ta. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay, sau gần 30 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến
vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Chúng ta có thể
tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 30 năm qua đạt được nhiều thành tựu
to lớn.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh
tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời
sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Từ năm 1986 đến năm 1989, công cuộc đổi mới đạt được những thành
tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vào đầu thập kỷ 90, khi bước vào thực
hiện chiến lược 10 năm 1991-2000, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội. Nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện
của Đảng, đến năm 1995, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 199114
1995 được hoàn thành vượt mức, tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang
thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ năm 1996 đến năm 2000 đất nước ta đạt được nhịp độ tăng trưởng
cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của 10 năm (1990-2000) đạt 7,5%;
năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (2001-2005)
của nhiệm kỳ đại hôi IX, GDP bình quân tăng gần 7,5%, riêng năm 2005
đạt 8,4%. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương
640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập
thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn
đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt
tiêu, đứng thứ hai về gạo, cà phê, hạt điều, thứ tư về cao su…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì,
bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phịng và an ninh, bước đầu phát

huy được nhiều lợi
thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hồn thiện các chính sách cơ chế quản lý và hệ thóng điều hành;
cải cách và nâng cao hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và cơng nghệ.
Giai đoạn 2006-2010, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá,
tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển, từ nhóm nước có thu nhập thấp trở thành nước có thu nhập trung
bình. GDB bình qn 5 năm đạt 7%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế
đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 Mặc dù bị tác động của
khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu (năm 2008), nhưng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính
tồn cầu cịn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

15
năm, tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao
hơn bình qn các nước trong khu vực.
Như vậy, trong vịng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt
Nam đạt 7,34% năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở
châu Á và trên thế giới nói chung; quy mơ kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4
lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân
đạt 7,14% năm) .
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp
hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới
gặp khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển

khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nơng nghiệp, nhất là sản
xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công
nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất
lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm
cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị
trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành cơng nghiệp
mới, cơng nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự
phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá
trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết
quả vững chắc hơn.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất
và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày
16

càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực
dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nơng nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng
suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất
khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh
lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản
với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp
lý;... có bước phát triển Ba là, thực hiện có kết quả chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm
năng
của
các
thành
phần
kinh
tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu
quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu
của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một
bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mơ hình cơng ty, phát
huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh
tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ
tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao
công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo
việc
làm
cho
nhiều

người
dân.
Bốn là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần
dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế
vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong
17
nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi
mới một bước quan trọng. Với chủ theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện
các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các
nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục
được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ,
đồng bộ hơn; mơi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị
trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế
nhiều
thành
phần


bước
phát
triển
mạnh.
Việc kiện tồn các tổng cơng ty, thí điểm thành lập các tập đồn kinh tế
nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng
hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh
nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
4. Điều kiện và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
Thứ nhất: đa dạng hóa các loại hình sở hữu, hình thành ra sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai: đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
Thứ ba: phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sức lao
động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tiêu dùng và dịch vụ,…
18
Thứ tư: xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp
lý.
Thứ năm: phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện
đại.
Thứ sáu: đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước, cải cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới cơng cụ quản lý vĩ mơ
của Nhà nước, đặc biệt là thơng qua chính sách phân phối thu nhập để đạt
được tiến bộ và công bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế
thị trường và đổi mới chính sách kinh tế cho thích hợp.
C. KẾT LUẬN
Như vậy trong đề án này em đã trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác về
kinh tế hàng hóa và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.

Đất nước ta hiện nay trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

một thời kì phức tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng cho chủ nghĩa xã hội để hoàn thành cách mạng dân chủ.
Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khăn và có nhiều trở
ngại, muốn phát triển nền kinh tế bền vững ta thực hiện nền kinh tế hàng
hóa là một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội là yếu và cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần đã xuất hiện nhiều khó khăn phức tạp và đã tác
động đến mặt xã hội nói chung. Để hạn chế những tác động này ta cần định
hướng cho nền kinh tế phát triển, buộc nó phải đi theo con đường mà
chúng ta lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy chính sách
phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự định hướng xã
hộii chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó
thể hiện tư tưởng tiến bộ sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiện từng
bước sự chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng
ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngày càng
19
hoàn chỉnh bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa
nước ta theo con đường chủ nghĩa như đã chọn.
Bản thân em – là một sinh viên kinh tế - qua việc làm bài tiểu luận này
giúp em hiểu biết sâu hơn về đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và điều
đó cũng thơi thúc em phải ln học hỏi, tìm tịi, rèn đức luyện tài để có đủ
kiến thức sau này ra trường trở thành một nhà kinh tế đủ trình độ, góp phần
xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp hơn, văn minh hơn...
Cuối cùng em xin cảm ơn thầy đã cung cấp phần lớn kiến thức và
phương pháp luận để em hoàn thành bài viết này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc
lần VI, VII, VIII và các Nghị quyết TW có liên quan.
3. Tạp chí Cộng sản.
4. Thời báo kinh tế Việt Nam 2002-2003.



×