Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

aseann Bình luận các nội dung về tự do di chuyển lao động theo Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2015 và Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.79 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
ĐỀ BÀI: 03
“Bình luận các nội dung về tự do di chuyển lao động theo
Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2015 và Kế hoạch tổng thể
xây dựng AEC 2025”

HỌ VÀ TÊN
MSSV
NHÓM
LỚP

Hà Nội, 2021
1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
Trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC – ASEAN Economic Community),
tự do di chuyển lao động ngành nghề là một trong những yếu tố cút lỗi của thị
trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN. Kể từ khi trở thành thành viên của
ASEAN vào năm 1995, Việt Nam ln tích cực và chủ động thực thi các cam kết về
hợp tác kinh tế nói chung và tự do di chuyển lao động nói riêng trong khn khổ
ASEAN. Để thực thi các cam kết về tự do phát triển lao động, Việt Nam ln chú


trọng xây dựng và hồn thiện pháp luật trong nước thơng qua hoạt động hóa các quy
định liên quan.
Cách tiếp cận về tự do di chuyển lao động của ASEAN trong Cộng đồng
kinh tế ASEAN tương đối đặc thù, đó là di chuyển lao động có quản lý và tạo điều
kiện hơn cho sự di chuyển của lao động. Hiện nay, trong bối cảnh Cộng đồng kinh
tế ASEAN đã được hình thành, các quốc gia thành viên vẫn tiếp tục triển khai
những biện pháp được ghi nhận trong các văn kiện của ASEAN để thúc đẩy hội
nhập sâu hơn về lao động. Vì vậy, em xin chọn đề bài 03: “Bình luận các nội dung
về tự do di chuyển lao động theo Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2015 và Kế
hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025” làm đề bài cho bài tập học kỳ lần này. Bài
làm của em sẽ phân tích và bình luận về tự do di chuyển lao động; từ đó khuyến
nghị việc “nâng cấp” hiệu quả pháp lý của các văn bản hiện hành quy định về tự do
di chuyển lao động, cải thiện cơ chế thực thi và giám sát thực thi các cam kết liên
quan cũng như ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng
nghề nhằm thúc đẩy hơn khi chuyển giao động nội khối trong giai đoạn tiếp theo
của AEC.

3


NỘI DUNG
I – Một số vấn đề khái quát chung về tự do di chuyển lao động theo Kế hoạch
tổng thể xây dựng AEC 2015 và Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025
1. Giới thiệu về Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC

ASEAN là tổ chức quốc tế khu vực với tốc độ tăng trường kinh tế nhanh 1. Năm
2015 các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký tuyên bố về việc thành lập Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) cho phép tự do di chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao
động có tay nghề trong khu vực. Để hỗ trợ việc dịch chuyển lao động giữa các
thành viên, chính phủ các nước đã đồng ý ký kết thỏa thuận công nhận lẫn nhau

(MRA) cho phép lao động được di chuyển tự do nội khối, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc cấp thị thực và làm việc của các chuyên gia ASEAN cũng như lao động
lành nghề.
Nhằm cụ thể hóa các mục tiêu được ghi nhận trong các văn kiện nền tảng về tự
do di chuyển lao động lành nghề, ASEAN đã lần lượt thông qua Bản Kế hoạch tổng
thể xây dựng AEC 2015 (AEC Blueprint 2025) năm 2007 và Bản Kế hoạch tổng thể
xây dựng AEC 2025 (AEC Blueprint 2025) năm 2015. Tại Tiểu mục A5 của AEC
Blueprint 2015 ghi nhận nội dung và chương trình hành động cụ thể về tự do di
chuyển lao động lành nghề, tuy nhiên các chương trình hành động được đề cập đến
tại Tiểu mục A5 khơng phải là chương trình, hành động chung ở cấp độ khu vực mà
là cấp độ quốc gia và liên quan đến hoạt động hài hịa hóa, tiêu chuẩn hóa nhằm tạo
thuận lợi cho sự di chuyển của thể nhân như: trong cấp thị thực (visa), tăng cường
hợp tác giữa các thành viên Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN – ASEAN
Universiti Network), phát triển năng lực và tiêu chuẩn cốt lõi đối với việc làm và kỹ
năng của người đào tạo trong những lĩnh vực dịch vụ.
2. Tiếp cận của ASEAN về tự do di chuyển lao động
Tự do di chuyển lao động ASEAN là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập khu
vực, đặc biệt là sự hình thành của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm xây
dựng ASEAN trở thành“một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất”, có tính cạnh
tranh cao, phát triển đồng đều các nền kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Trong đó, tự do di chuyển lao động là một trong những yếu tố cốt lỗi. Trong khuôn
khổ ASEAN, tự do di chuyển lao động khơng có nghĩa là các quốc gia thành viên sẽ
thực hiện nghĩa vụ xoá bỏ các rào cản về tiếp cận thị trường lao động mà ASEAN
chỉ hướng tới mơ hình di chuyển lao động có quản lý và tạo thuận lợi hơn cho lao
động được di chuyển trong khối.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào về tự do di chuyển lao động
trong ASEAN. Tuy nhiên hiểu theo một cách đơn giản thì tự do di chuyển lao động
là hiện tượng người lao động di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia kia có kèm
theo thay đổi về chỗ ở và thường trú. Quá trình chuyển lao động diễn ra vì các lý
như di cư do áp lực tơn giáo, chính trị, hoặc vì kinh tế (do động cơ thu nhập hay

môi trường làm việc thúc đẩy). Tự do di chuyển lao động trong ASEAN còn xuất
phát từ nhân tố nội tại, đó là sự chênh lệch về trình độ lao động giữa các quốc gia
thành viên ASEAN. Di chuyển lao động trong ASEAN là hệ quả của tốc độ tăng
1 Thu nhập bình quân trên đâu người của ASEAN tăng từ 2.373 USD vào năm 2007 lên tới 4.034 USD vào năm 2016,
truy cập 05/09/2018.

4


trưởng kinh tế nhanh và chênh lệch khoảng cách rất đáng kể trong nội của ASEAN 2.
Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế không đồng đều và sự chênh lệch về trình độ lao
động giữa các nước thành viên đã dẫn tới sự khan hiếm lao động có tay nghề thấp
hoặc trung bình cả nước phát triển, trong khi đó, các nước kém phát triển và đang
phát triển sức lao động có tay nghề thích hợp trung bình thiếu hụt lao động có tay
nghề cao.
II – Các nội dung về tự do di chuyển lao động theo Kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC 2015 và Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025
1. Về đối tượng của tự do di chuyển lao động
AEC chính thức được hình thành vào ngày 31/12/2015 và AEC Blueprint 2025
được thông qua trên cơ sở kế thừa AEC Blueprint 2015 3 và tiếp tục phát triển những
chương trình, biện pháp phù hợp với thực tiễn hội nhập của ASEAN. Đối với hoạt
động tự do di chuyển lao động lành nghề, AEC Blueprint 2025 dành Tiểu mục A5
quy định về việc tạo thuận lợi cho sự di chuyển của lao động kỹ năng và doanh
nhân. Điểm tiến bộ trong AEC Blueprint 2025 về tự do di chuyển lao động lành
nghề, đó là văn kiện đã ghi nhận cụ thể về các khuôn khổ thể chế cấp khu vực như 8
Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRAs) 4, Hiệp định tự do di chuyển thể nhân
(MNP) và Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF). Để tạo thuận lợi hơn cho
quá trình dịch chuyển của lao động lành nghề, ASEAN khuyến khích các quốc gia
thành viên cam kết sâu rộng hơn trong khuôn khổ MNP, cải thiện MRAs hiện hành
và có thể bổ sung MRAs mới.

Tự do di chuyển lao động chỉ áp dụng đối với đối tượng doanh nhân (Business
visitors), lao động lành nghề (Skilled labour) và nhân tài (Talents), gọi chung là lao
động có kĩ năng. Lao động có kĩ năng cao sở hữu kiến thức và kỹ năng thực hiện
các nhiệm vụ phức tạp, thích nghi nhanh với sự thay đổi của công nghệ và ứng dụng
sáng tạo thơng qua q trình đào tạo và công việc của họ 5. Trong tuyên bố Bali II
năm 2002, tại Mục 3 của Tuyên bố ghi nhận AEC sẽ thiết lập ASEAN trở thành một
thị trường và cơ sở thống nhất, trong đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tự do di
chuyển của khách du lịch, lao động có kĩ năng và nhân tài. Hiến chương ASEAN và
Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC Blueprint 2015 và AEC Blueprint 2025 tiếp tục
khẳng định đối tượng người lao động được tự do di chuyển trong khu vực bao gồm
nhóm lao động có kĩ năng.
Tiêu chí được đặt ra của ASEAN là chỉ lao động lành nghề được tự do di chuyển
trong khu vực, điều này khác với Liên minh châu âu (EU) là tất cả mọi lao động đều
được tự do di chuyển. Sở dĩ ASEAN lập ra giới hạn này là vì nếu cho tất cả lao
động di chuyển một cách tự do kể cả lao động phổ thơng, lao động chưa qua đào tạo
thì những đối tượng này sẽ sang các nước phát triển hơn để tìm kiếm việc làm, sẽ
2 Mauro Testaverde, Hary Moroz, Claire H.Hollweg & Achim Schillen (2017), Di dân để tìm kiếm cơ hội vượt qua rào
cản dịch chuyển ở Đông Nam Á, Ngân hàng thế giới, tr.5
3 ASEAN Economic Community Blueprint 2015 tại: />48 lĩnh vực bao gồm: tư vấn kỹ thuật, kiến trúc, kế toán, du lịch, điều dưỡng, hành nghề y, hành nghề nha khoa và khảo
sát.
5 Insitute of Labour Science and Social Affairs & International Labour Organization, Skilled labour a determining factor
for sustainable growth of the nation, 2014, truy cập 5/4/2020.

5


gây ra sự hỗn loạn về lao động do những lao động khơng có kỹ năng khơng đáp ứng
được trình độ, tiêu chuẩn theo yêu cầu nên không thể tham gia vào thị trường lao
động của những nước đó, từ đó dẫn đến hệ quả là bài tốn nhập cư chưa giải quyết
được.

2. Về phạm vi tự do di chuyển lao động
ASEAN thực hiện tự do di chuyển tạm thời trong 8 lĩnh vực ngành nghề bao
gồm kế toán, hành nghề y, nha khoa, kĩ thuật, điều dưỡng, kiến trúc, khảo sát và du
lịch6. Tự do di chuyển lao động ASEAN chỉ áp dụng đối với những lao động di
chuyển tạm thời trong khối, tuy nhiên, các văn bản hiện hành của ASEAN không
quy định về khoảng thời gian di chuyển tạm thời. Đối với ngành nghề được phép tự
do di chuyển trong ASEAN, 8 ngành nghề được lựa chọn là 8 ngành nghề mà các
quốc gia thành viên ASEAN đã ký kết thỏa thuận công nhận lẫn nhau. Công nhận
trình độ hoặc cơng nhận lẫn nhau là kết quả của việc quốc gia đồng ý với hệ thống
quy định của quốc gia khác tương đương, tương thích hoặc ít nhất là có thể chấp
nhận được với hệ thống quy định của quốc gia chủ nhà 7. Công nhận lẫn nhau giúp
cho người hành nghề thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường và hành nghề tại
các quốc gia khác. Bên cạnh đó, cơng nhận lẫn nhau giúp cho quốc gia nhập khẩu
tận dụng được các kỹ năng mà lao động nước khác mang vào nước mình, tăng
cường lợi thế so sánh của nước đó trong một số lĩnh vực hành nghề nhất định 8 và
tăng cường học hỏi thực tiễn, kinh nghiệm tốt nhất để từ đó nâng cao tiêu chuẩn
nghề nghiệp, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.
3. Về biện pháp thực hiện tự do di chuyển lao động
Để phù hợp với cách tiếp cận di chuyển lao động có quản lý và tạo thuận lợi hơn
cho lao động được di chuyển trong khối, các biện pháp thực hiện tự do di chuyển
lao động trong ASEAN bao gồm: ký kết các thoả thuận công nhận lẫn nhau (Mutual
Recognition Arrangments – MRAs), kí kết MNP và tham gia Khung tham chiếu
trình độ ASEAN (ASEAN Qualification Reference Framework – AQRF). Nhìn
chung, việc ký kết MRAs trong ASEAN nhằm hướng tới mục tiêu tạo điều kiện
thuận lợi cho lao động lành nghề được tự do di chuyển trong khối. Tùy thuộc từng
ngành nghề, ASEAN sẽ thiết kế MRAs sao cho phù hợp với ngành nghề đó. Mục
tiêu của việc ký kết thỏa thuận là nhằm tạo thuận lợi cho tính linh động của các
ngành nghề du lịch, nhằm dễ dàng trao đổi thông tin dựa trên năng lực giáo dục và
đào tạo dành cho các nghề du lịch và cung cấp các cơ hội hợp tác, xây dựng năng
lực cạnh tranh về nguồn nhân lực trong các nước thành viên ASEAN9.

Về MNP, việc ký kết hướng tới thiết lập cơ chế tự do hóa và thuận lợi hóa hơn
đối với dịng di chuyển tự do của lao động có kỹ năng thông qua hợp tác chặt chẽ
giữa các cơ quan liên quan của ASEAN trong các lĩnh vực thương mại hàng hoá,
6 Mục A5.19 Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint).
7 Shintaro Hamanaka and Sufian Jusoh, The emerging ASEAN Approach to Mutual Recognition: A Comparision with
Europe, Trans-Tasman, and North America, IDE Discussion Papers, 2016, p.4
8 The ASEAN Services, ASEAN Handbook on Liberalisation of Profesional Services through mutual recognition in
ASEAN: Engineering Services, Jakarta, Indonesia, p.20
9 Điều 1 MRA-TP

6


dịch vụ, di cư và lao động10. Trên cơ sở nội dung của hiệp định các quốc gia thành
viên sẽ đưa ra biểu cam kết cụ thể đối với việc nhập cảnh tạm thời và lưu trú tạm
thời của thể nhân. Theo đó, các quốc gia sẽ cam kết theo nguyên tắc “chọn-cho”
đối với các rào cản tiếp cận thị trường và rào cản đối xử quốc gia trong biểu cam
kết. Trong q trình cam kết, các quốc gia có thể lựa chọn cam kết toàn bộ, cam kết
kèm theo những hạn chế (đặt ra một số điều kiện đối với mở cửa tiếp cận thị trường
và đối xử quốc gia) và không cam kết (áp dụng với bất kỳ điều kiện nào đối với mở
cửa tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia).
Theo Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2015, MRA là cơng cụ chính sách quan
trọng để dịch chuyển lao động có kỹ năng, tạo thuận lợi cho thương mại giữa các
bên11. Cùng với đó, Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025 đã có những quy định
chi tiết hơn và mở rộng các biện pháp chiến lược về cam kết MNP. Để hỗ trợ MRA,
các quốc gia thành viên ASEAN đã xây dựng AQRF nhằm khuyến khích việc phát
triển các khung trình độ phù hợp để có thể hỗ trợ việc học tập suốt đời, khuyến
khích phát triển các cách tiếp cận ở cấp độ quốc gia, hỗ trợ quá trình dịch chuyển
lao động. Về nguyên tắc, AQRF dựa trên cách hiểu đã được nhất trí giữa các quốc
gia thành viên và mời các quốc gia tham gia trên cơ sở tự nguyện. AQRF được thiết

kế nhằm tạo nên những tác động tích cực và cân bằng lên khung trình độ quốc gia,
khơng u cầu các quốc gia phải thay đổi hệ thống trình độ quốc gia.
4. Một số đánh giá về tự do di chuyển lao động
4.1 Mặt tích cực
Thứ nhất, mục tiêu của Kế hoạch tổng thể xây dựng ASEAN 2015 và 2025
về vấn đề tự do di chuyển lao động nhằm tạo ra sự hài hòa về các tiêu chuẩn và kỹ
năng lao động, đồng thời hướng đến tạo dựng một thị trường lao động thống nhất và
có chất lượng cao. Các quốc gia thành viên là chủ thể có quyền quyết định đối với
việc mở cửa thị trường lao động của nước mình, trong khi đó, ASEAN chỉ đóng vai
trị hỗ trợ thiết lập cơ chế khu vực nhằm tạo thuận lợi hơn cho sự di chuyển của lao
động nội khối. Hiện nay, MRAs là công cụ chủ yếu được các nước thành viên sử
dụng để thúc đẩy sự di chuyển của lao động 12. Mặc dù MRAs được thiết kế theo
cách thức khác nhau nhưng điểm chung của 8 MRAs là căn cứ trên cơ sở nội luật,
quốc gia quyết định việc cấp phép hành nghề đối với người lao động có kĩ năng.
Bên cạnh MRAs, MNP được ký kết nhằm tạo cơ sở pháp lý nền tảng đối với
sự di chuyển tạm thời của thể nhân liên quan tới các hoạt động thương mại hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư. MNP quy định về các vấn đề mang tính chất “khung” để có
biện pháp ảnh hưởng tới nhập cảnh và cư trú tạm thời đối với lao động lành nghề
thuộc 4 nhóm. Theo đó, các quốc gia sẽ đưa ra cam kết cụ thể dựa trên quy định của
pháp luật quốc gia về thủ tục, tiêu chí nhập cảnh và cư trú tạm thời.
Thứ hai, tự do di chuyển lao động lành nghề góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong khối. Trong thị trường lao động ASEAN, lao động khơng có
10 The ASEAN Secretariat, ASEAN Integration in Services, Jakarta, 2015, p.32
11 aec_2015_progress_and_key_achievements_04.11.2015.pdf
12 Chia,S.Y.(2011), Free flow of skilled labor in the AEC, in Urata, S. and M.Okabe (eds.), Toward a Competitive
ASEAN Single Market: Sectoral Analysis.ERIA Research Project Report 2010-03,pp.205-279.Jakarta:ERIA.

7



kỹ năng, kĩ năng trung bình chiếm đa số cho nên nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trở thành yêu cầu cấp thiết trong tiến trình hội nhập khu vực. Để thực hiện các
biện pháp nhằm thúc đẩy sự dịch chuyển của lao động trong khối, các quốc gia
thành viên cần phải chủ động trong việc thay đổi các chính sách, pháp luật trong
nước về lao động sao cho phù hợp như cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo để hài
hịa hóa với các tiêu chuẩn khu vực.
Thứ ba, nhờ các thỏa thuận công nhận, lao động trong ASEAN nói chung và
lao động Việt Nam nói riêng sẽ có cơ hội học tập, nghiên cứu và làm việc trong các
môi trường chuyên nghiệp, phát triển của các nước trong ASEAN. Hoạt động hợp
tác tự do di chuyển lao động giữa các thành viên cịn góp phần tăng cường đầu tư và
mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ của mỗi nước thành viên, từ đó dẫn tới nhất
thể hóa thị trường của nền kinh tế các nước thành viên, nâng cao khả năng cạnh
tranh và tốc độ liên kết kinh tế ASEAN. Bên cạnh đó, được làm việc với một thị
trường lao động lớn, cạnh tranh cao cũng như đa dạng chuyên môn, các nhà đầu tư
Việt Nam có thể thấy được tầm nhìn bao qt để đánh giá được chỗ đứng của mình
và đưa ra các chính sách phát triển nguồn lao động phù hợp với khu vực cũng như
với thế giới.
Thứ tư, khi lao động có tay nghề được tự do di chuyển trong ASEAN mà
không có rào cản hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên sẽ góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, mở ra cơ hội tuyển dụng nhân lực có trình độ cao,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội
nhập.
Thứ năm, tự do di chuyển lao động góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc
làm trong nước. Lao động của các nước thành viên sẽ có cơ hội sang làm việc tại
các thị trường trong khu vực.
4.2 Mặt hạn chế
Thứ nhất, AEC Blueprint là văn kiện quy định cụ thể về chiến lược và các
biện pháp thực hiện tự do di chuyển lao động trong ASEAN và việc thực hiện các
biện pháp trên được nhìn nhận như là nghĩa vụ của quốc gia thành viên nhưng
khơng mang tính rằng buộc mà phụ thuộc vào khả năng thực hiện của thành viên 13.

Đa số văn kiện quy định về tự do di chuyển lao động là “luật mềm”14, số còn lại là
các thỏa thuận mang tính ràng buộc pháp lý nhưng trong đó lại khơng quy định cụ
thể về việc thực thi của các quốc gia và cơ chế giám sát thực thi của ASEAN.
Thứ hai, lợi ích và cơ hội người lao động được hưởng từ các chính sách,
pháp luật về tự do di chuyển lao động trong ASEAN chưa đáng kể, họ cho rằng
MRAs giống như một trong những chỉ số để đánh giá chất lượng (mang lại danh
tiếng…) hơn là biện pháp tạo thuận lợi cho sự dịch chuyển của chuyên gia 15.
13 Amador, J.S., , ASEAN social-cutural community: An assessment of its institutional propects,
truy cập 15/4/2020
14 Trong tổng số văn kiện pháp lý (legal instruments) về lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa các quốc gia thành viên viên
ASEAN, có 9 văn kiện quy định chuyên biệt về tự do di chuyển lao động, ASEAN Legal instruments,
/>15 Fukunaga Y., Assessing the Progress of ASEAN MRAs on Professional Services, ERIA’s AEC Scorecard Phase IV
Project, 2015, p.9

8


Thứ ba, 8 ngành nghề được tự do dịch chuyển lao động có thể thấy khơng
phải là thế mạnh của tồn bộ các nước ASEAN. Ví dụ: ngành du lịch của Thái Lan
rất phát triển thu hút hơn 20 triệu khách du lịch nhưng các quốc gia khác thì du lịch
khơng thực sự phát triển. ASEAN có nhiều ngành khác quan trọng đến kinh tế cần
sự tự do dịch chuyển như may mặc, thương mại, giải trí… Do vậy, lượng lao động
được tự do dịch chuyển chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng lực lượng lao động ASEAN.
Bên cạnh đó trình độ lao động giữa các nước trong khu vực cịn hạn chế và có sự
chênh lệch lớn. Nguồn lao động trong khu vực tuy nhiều nhưng có trình độ khác
nhau nê sẽ khó cạnh tranh trong lao động.
III – Thực tiễn và một số biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tự do di
chuyển lao động
1. Thực tiễn hoạt động tự do di chuyển lao động
1.1 Tình hình thực hiện hoạt động tự do dịch chuyển lao động trong

ASEAN
Khi AEC được thành lập sẽ có nhiều cơ hội để người lao động dịch chuyển
sang các nước trong khu vực để tìm kiếm việc làm, cải thiện thu nhập và tích lũy
những kinh nghiệm mới cho bản thân. Theo số liệu 2013, tổng số lao động di
chuyển trong nội bộ các nước ASEAN là 6,5 triệu người, trong đó, tỷ lệ lao động từ
các nước ASEAN chỉ chiếm 34,6%. ASEAN có 3 quốc gia là điểm đến chính của
lao động nhập cư đó là Malaysia, Singapore và Thái Lan (chiếm 90%). Tại
Singapore, 45% lâo động nhập cư là từ Malaysia. Tại Thái Lan, 50.8% lao động
nhập cư là từ Myanmar. Từ Thái Lan và Việt Nam, khoảng 160-200 nghìn lao động
di cư mỗi năm đến những nước Đơng Á phát triển hơn, trong đó có Nhật Bản và
Hàn Quốc.
Tính đến nay, Việt Nam đã thực hiện tương đối tốt nghĩa vụ nội luật hóa các
cam kết về tự do di chuyển lao động lành nghề thông qua việc sửa đổi ban hành luật
mới. Các quy định của pháp luật Việt Nam về mở cửa thị trường lao động đối với
lao động từ các nước thành viên ASEAN tương thích với các quy định trong các văn
kiện liên quan của ASEAN và cam kết của Việt Nam trong các gói cam kết tại các
vịng đàm phán về thương mại dịch vụ ASEAN.
1.2 Một số thách thức đặt ra đối với việc tự do di chuyển lao động
Thứ nhất, dẫn tới tình trạng mất cân bằng về lực lượng lao động giữa các
quốc gia trong khu vực. Người lao động sẽ có xu hướng di chuyển đến quốc gia
đem lại cho họ mức lương cao, các chính sách lao động phù hợp. Vì vậy sẽ ảnh
hưởng tới chính sách an ninh xã hội của các nước trong việc kiểm soát người lao
động.
Thứ hai, việc tự do dịch chuyển lao động sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh khốc liệt
đối với lao động trong nước. Nếu nguồn lao động trong nước còn nhiều yếu kém mà
không khắc phục được những nhược điểm đang tồn tại, thì sẽ trở nên yếu thế hơn
trong cuộc cạnh tranh khốc liệt ngay trên “sân nhà”.
Thứ ba, việc tự do dịch chuyển nguồn lao động cũng tạo nên sự chênh lệch,
gia tăng khoảng cách phát triển kinh tế ngày một lớn giữa các quốc gia phát triển,
đang phát triển trong khu vực.

9


Thứ tư, đối với những người quản lý, nếu không có những chiến lược nhân
sự và chế độ đãi ngộ hợp lý thì sẽ khó giữ chân được người có nhân lực cao dẫn đến
tình trạng “chảy máu chất xám”.
2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tự do di chuyển lao
động
2.1 Đối với ASEAN
Tiếp tục phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động giữa các nước thành
viên ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu về nhu cầu lao động ở các
nước thành viên, tiến tới thiết lập trung tâm thông tin khu vực ASEAN, trong đó các
vấn đề về lao động như thị trường, nhân lực, việc làm, các chính sách, chương trình
đào tạo nâng cao tay nghề,… là nội dung quan trọng.
Tạo sự đột phá về chất lượng đào tạo nghề nghiệp, chú trọng đầu tư nâng cao
đội ngũ lao động chun mơn có tay nghề lao động ở 8 ngành nghề được tự do dịch
chuyển lao động, thực hiện tái cấu trúc lại một số ngành theo hướng hiện đại bằng
cách ứng dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động.
Cho phép nhập cảnh và tạo điều kiện thuận lợi trong cập nhật visa, hộ chiếu,...,
di chuyển của các chuyên gia và lao động có tay nghề cao tham gia vào thương mại,
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Đồng thời, tăng cường thể chế của ASEAN và thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên.
2.2 Đối với Việt Nam
Việt Nam cần nới lòng hơn các điều kiện về tiếp cận thị trường đối với lao
động lành nghề trong khối thông qua những quy định thơng thống hơn nhằm tạo
điều kiện cho lao động nước ngoài được phép tiếp cận thị trường lao động Việt Nam
trong thời gian tới. Cần đẩy nhanh hoàn thiện các quy định, tiêu chuẩn cần thiết
trong những ngành nghề ASEAN đã ký MRAs thông qua việc tăng cường xây dựng
các bộ tiêu chuẩn phù hợp, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và đầu tư
cơ sở vật chất để có thể cạnh tranh được với nguồn nhân lực chất lượng cao trong

khối.
a, Đối với cá nhân
- Rèn luyện kỹ năng giao tiếp, khả năng ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh
- Trang bị cho bản thân tác phong làm việc chuyên nghiệp, đạo đức, tinh thần
kỷ luật cao và trách nhiệm trong cơng việc
- Tìm hiểu trước về pháp luật và phong tục tập quán của quốc gia mà mình
định đến làm việc để chủ động hồ nhập cộng đồng hơn.
b, Đối với doanh nghiệp và nhà nước
Đối với doanh nghiệp trẻ, yêu cầu đặt ra là phải tập trung chuẩn bị về kiến
thức và kỹ năng, thơng tin về AEC và định vị vị trí của Việt Nam trong đó, ln đổi
mới và sáng tạo và nhận thức được thị trường AEC là thị trường lao động mở.
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới cơ cấu dạy nghề trong hệ thống
giáo dục, chuyển hệ thống dạy nghề khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh
hoạt,..
Thứ hai, chuyển chương trình dạy nghề từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học; đa dạng hoá nội
10


dụng dạy nghề theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực
nghề nghiệp cho người học.
Thứ ba, cung cấp thông tin việc làm trong và ngoài nước cho người lao động,
tổ chức việc hỗ trợ việc làm, gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự
tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.
KẾT LUẬN
Sự dịch chuyển tự do đối với các lao động lành nghề trong AEC dự kiến sẽ
làm tăng sản lượng tăng khu vực. Trên thị trường lao động, dịch chuyển nhân công
trong ASEAN sẽ tiếp tục ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động có kĩ năng trung
bình và thấp, chủ yếu trong các ngành nghề như chế tác, xây dựng, đánh bắt và
công việc nội trợ. Về lý thuyết, việc tạo thuận lợi cho sự dịch chuyển tự cho các lao

động có tay nghề trong của khn khổ AEC sẽ dẫn đến lợi ích đáng kể. Tuy nhiên,
các thỏa thuận hiện tại liên quan đến chính sách di cư chưa giải quyết được những
vấn đề đang diễn ra trên thực tế. Hiện nay, dịch chuyển lao động trong khuôn khổ
AEC bị giới hạn trong các ngành nghề chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số việc làm
của ASEAN. Trong dài hạn, việc làm sẽ tăng thêm ở một số ngành và giảm đi ở
những ngành khác. Do đó các quốc gia thành viên ASEAN vừa phải giải quyết các
vấn đề thất nghiệp, lao động bất hợp pháp, điều kiện làm việc thấp, đồng thời phải
xử lý các thách thức khác nảy sinh từ hợp tác và hội nhập khu vực. Về năng suất lao
động, việc dịch chuyển lao động dự báo sẽ làm tăng năng suất đáng kể ở một số
quốc gia trong đó có Việt Nam. Điều này sẽ giúp các nước tăng khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế thơng qua năng suất cao hơn thay vì dựa trên mức lương
thấp. AEC thúc đẩy thị trường lao động nhằm thúc đẩy nhu cầu về lao động có tay
nghề, do vậy các chính phủ có thể cam kết chính sách giáo dục với các chính sách
phát triển và tạo việc làm để đảm bảo rằng hội nhập sẽ mang lại lợi ích cho những
khu vực dễ bị tổn thương nhất.

PHỤ LỤC

11


Trong hình 2, sản lượng đầu ra ở nước ngồi tăng theo diện tích phía dưới đường
cong MP*L, từ OL1 đến OL2. Ngược lại, sản lượng ở nước nội địa giảm theo diện
tích phía dưới đường cong MPL, từ OL2 đến OL1. Như vậy, so với trước khi có dịch
chuyển lao động, tổng sản lượng thế giới tăng đúng bằng diệc tích ABC.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
12



*Giáo trình, sách chun khảo, bài đăng báo, tạp chí
1. Giáo trình Pháp luật Cộng đồng ASEAN, Trường Đại học Luật, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2018
2. Ths.Lê Minh Tiến (Chủ biên), “Hỏi đáp về ASEAN và hệ thống văn bản
pháp luật ASEAN”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2016
3. Cát Anh (2017), “Dịch chuyển lao động mang tới nhiều cơ hội cho ASEAN”,
Báo quốc tế, truy cập lần cuối ngày 5/5/2018 tại />4. Nguyễn Bình Dương, “Dịch chuyển lao động trong AEC và tác động tiềm ẩn
tới thị trường lao động của các nước ASEAN”, Trường Đại học Ngoại
Thương, Hà Nội, 2019
5. ThS.Bùi Thị Ngọc Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội, “Tự do di chuyển lao
động ASEAN: Ưu điểm, hạn chế và một số khuyến nghị”, Tạp chí Luật học
số 06/2020, tr.42-51,76.
6. TS.Ngơ Hữu Phước, Phó trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trưởng Bộ mơn Công
pháp quốc tế, Đại học Luật TP.HCM, “Tự do di chuyển lao động có tay nghề
của ASEAN – Những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 07/2017, tr.25-34
7. Phạm Thị Thanh Bình, “Di chuyển lao động chất lượng cao trong ASEAN và
tác động đến kinh tế Việt Nam”, Cộng sản, 2020 – Số tháng 11 (954), tr.5661
8. Nguyễn Bình Giang (Chủ biên), “Di chuyển lao động quốc tế”, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Hà Nội, 2011
9. Bùi Thị Ngọc Lan, “Pháp luật ASEAN về tự do di chuyển lao động và thực
tiễn thực hiện cam kết của Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 12/2018, tr.11-23
10. Hà Thị Minh Đức, “Di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong
Cộng đồng kinh tế ASEAN”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2019.
11. Cộng đồng kinh tế ASEAN, Sổ tay kinh doanh
12. ILO-ADB: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và thịnh vượng hơn
*Các trang web
1. Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 tại
aec_2015_progress_and_key_achievements_04.11.2015.pdf

2. Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN 2025 tại
/>3. Tuyên bố thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015 tại
/>4. />5. />13


6. />
nhan-lan-nhau-(mras)-trong-cong-dong-kinh-te-asean-(aec)-125894.tld
7. />*Tài liệu nước ngoài
1. Chia Siow Yue (2011), “Free Flow of skilled labor in the ASEAN Economic
Community”, Singapore Institute of International Affairs, Singapore.
2. Flavia Jurje and Sandra Lavenex (2015), “ASEAN Economic Communtity:
what model for labour mobility?”, Working Paper No 2015/02, World Trade
Institute of the University of Bern, Swizerland.
3. Guntur Sugiyarto and Dovelyn Rannaveig Agunias (2014), “A free flow of
skilled labour within ASEAN: Aspriations, Opportunities and Challenges in
2015 and Beyond”, Issue No11, IOM Regional Office for Asia and the
Pacific and the Migration Policy Institute, 2014.
4. ILO and ADB (2014), ASEAN Community 2015: Managing integration for
better jobs and shared prosperity, Bangkok, Thailand.
5. ILO statistic database, />6. James M, Susan L, Byron A, Sereenivas R (2012), “Help wanted: the future
of work in advanced economies”, The McKinsey Global Institute with
discussion paper.
7. Paul Krugman (2006), International economics: theory and policy, Pearson.
8. PwC (2018), “The Future of ASEAN Time to Act”, Partner – Growth,
Markets Centre, Singapore.
9. Insitute of Labour Science and Social Affairs & International Labour
Organization, Skilled labour a determining factor for sustainable growth of
the nation, 2014, https:// www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---robangbok/---ilo-hanoi/documents/publication/wcms_428969.pdf
10. Aldaba R.M, ASEAN Economic Community 2015: Labor mobility and
mutual recognition arrangements on professional services, Discussion Paper

Seriers, Philippines Institution for Development Studies, 2013.
11. Amador, J.S, ASEAN social – cutural community: An assessment of its
institutional
prospects,
tại
/>abstract_id=1803830
12. Chia, S.Y (2011), Free flow of skilled labor in the AEC, in Urata, S. and M.
Okabe (eds.), Toward a Competitive ASEAN Single Market: Sectoral
Analysis. ERIA Research Project Report 2010-03, pp.205-279.Jakarta:
ERIA.
13. Dovelyn Rannveig Mendoza and Guntur Sugiyarto, The long road ahead
status report on the implementation of the ASEAN mutual recognition
arrangements on professional services, Asian Development Bank, Manila,
Philippines, 2017.
14. Fukunaga Y, Assessing the Progress of ASEAN MRAs on Professional
Services, ERIA’s AEC Scorecard Phase IV Project, 2015.
14


15. Yoshifumi FUKUNAGA, Economic Research Institute for ASEAN and East

Asia, Assessing the Progress of ASEAN MRAs on Professional Services,
ERIA Discussion Paper Series 2015
16. Chia Siow Yue, Chapter 4: Free Flow of Skilled Labour in the AEC
17. ILO, Skill Recoggnition and Labour Mobility in ASEAN
18. IOM-MPI, A “freer” of Skilled Labour within ASEAN: Aspirations,
Opportunities and Challenges in 2015 and beyond
19. ADB, Achieving skill mobility in the ASEAN econimic community:
Challenges, Opportunities, and policy implication
20. ILO, The impact of ASEAN economic integration on occupational outlooks

and skills demand
21. Sharon Maria S.Esposo – Betan, 2015: Managing integration for better jobs
and shared prosperity, Bangkok, Thailand 2014
22. Mike Coles and Andrea Bateman (2015), Extended learning outcomes paper,
ASEAN Task Force Meeting document.

15



×