Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.83 KB, 95 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam đã và đang trên con đờng đổi mới nền kinh tế theo hớng công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Một trong những vấn đề đợc mọi ngời quan tâm nhất
hiện nay là làm sao để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các tổng công ty Nhà
nớc nhằm có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trờng thế giới và giữ đợc vị trí
chủ đạo trong nền kinh tế đất nớc.
Việc giải quyết vấn đề trên theo hớng thành lập các tập đoàn kinh tế
Nhà nớc hiện nay đòi hỏi các tổng công ty phải tự hoàn thiện mình về cơ cấu
tổ chức dẫn tới sự thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty. Vấn đề
có thành lập hay không các công ty tài chính này là một vấn đề nhạy cảm nh-
ng thực tế là các công ty này muốn chứng tỏ sự tồn tại của mình là một sự tất
yếu phù hợp các qui luật kinh tế thì phải chứng tỏ chúng thực sự hoạt động có
hiệu quả.
Kết quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào kết quả hoạt động của các
nghiệp vụ chủ yếu mà một trong số đó là nghiệp vụ ủy thác. Đây vốn là một
nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thơng mại nhng ngày càng đợc mở rộng
cho các tổ chức tài chính trung gian khác và riêng vốn ủy thác đợc coi là một
trong những nguồn tạo vốn cơ bản cho các công ty tài chính thuộc tổng công
ty tại Việt Nam. Nghiệp vụ ủy thác bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ làm
đầu mối trong quá trình chu chuyển vốn trong ngành còn thể hiện đợc rõ nét
tính trung gian của công ty tài chính, tách quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đang trong quá trình chuyên môn hóa
cao độ.
Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty tài chính dầu khí em đã rất
quan tâm tới nghiệp vụ này và đợc sự hớng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn
Thị Kim Quý và sự giúp đỡ, hớng dẫn của các anh chị tại công ty tài chính dầu
khí em đã quyết định chọn vấn đề này làm đề tài tất nghiệpvới mong muốn tìm
hiều xem nghiệp vụ này là gì, đóng góp nh thế nào cho sự phát triển của công
ty tài chính dầu khí nói riêng và cho những mục đích thành lập công ty tài
chính thuộc tổng công ty, hy vọng đóng góp đợc chút gì cho sự phát triển của
công ty.


1
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dụng luận văn đợc trình bày theo 3 ch-
ơng:
Chơng I: Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
Chơng II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu
khí
Chơng III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí.
2
Chơng một
Tổng quan về công ty tài chính thuộc tập đoàn và
nghiệp vụ ủy thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hớng tập đoàn và
công ty tài chính trong tập đoàn đó
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hớng tập đoàn
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau ngời ta đa ra
một số định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Đó là một thực thể kinh
tế thực hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các doanh nghiệp có
quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích đợc gọi bằng các tên khác nhau nh:
hiệp hội, liên hiệp, tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh...
Theo các tác giả của từ điển thơng mại Anh Pháp Việt thì khái niệm Group
(tức tập đoàn) có thể hiều nh sau: Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài
chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà nó kiểm soát hay trong đó
có nó tham gia. Mỗi công ty bản thân cũng có thể kiểm soát các công ty khác
hay tham gia các tổ hợp khác. Theo quan niệm này đặc trng chủ yếu của tập
đoàn kinh doanh là cấu trúcvà sự kiểm soát của một công ty lớn nhất (công ty
mẹ ) trong tổ hợp các công ty đó.
Dới giác độ của văn bản pháp luật, theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt
động của tổng công ty nhà nớc ban hành tại nghị định số 39CP ngày
27-6-1999, điều lệ ghi rõ:

Tổng công ty nhà nớc là doanh nghiệp nhà nớc có qui mô lớn bao
gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài
chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một
hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, do nhà nớc thành lập
nhằm tăng cờng tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản
xuất để thực hiện nhiệm vụ nhà nớc giao; nâng cao khả năng hiệu quả kinh
doanh của các đơn vị thành viên và của toàn tổng công ty đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế
3
Tổng quát các tập đoàn có ba loại hình tổ chức:
Loại hình thứ nhất: Quan hệ giữa các thành viên tơng đối lỏng lẻo thông
qua các thoả thuận hoặc các cam kết hợp tác, trong hình thức này các công ty
thành viên tham gia tập đoàn có tính độc lập cao; thông thờng cơ sở tồn tại của
loại hình tập đoàn này là các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra sự liên kết mèm
giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm các thành viên đó.
Loại hình thứ hai: Mối liên kết giữa các thành viên rất chặt chẽ, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau cao, các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập, cơ sở
kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn là quyền sở hữu giữa các
công ty thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có một công ty
mạnh nhất chi phối cả tập đoàn.
Loại hình thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trờng tài chính, hình thành
kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty mẹ (Holding
Company) là công ty tài chính nắm giữ cổ phần chi phối của các công ty con.
Sự phát triển cao của thị trờng tài chính và công nghệ thông tin cho phép một
công ty chi phối một hoặc nhiều công ty khác thông qua quyền sở hữu cổ
phiếu do vậy các công ty trong tập đoàn không nhất thiết phải có mối liên hệ
về sản phẩm hay công nghệ kỹ thuật.
Thực hiện chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về thành lập các tổng công ty
theo quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3 /1994 của thủ tớng chính phủ, cả
nớc đã có 92 tổng công ty lớn trong đó có 17 tổng công ty 91 là các tổng công

ty đợc thành lập thí điểm xây dựng theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Tuy
nhiên có thể nhận thấy việc phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nớc ở Việt
Nam còn rất mới mẻ và đang gặp nhiều khó khăn. Các tổng công ty có sức
cạnh trạnh quốc tế cha cao, hàng hoá dịch vụ xuất khẩu rất khó khăn, qui mô
và tiềm lực so với các tập đoàn kinh tế tơng tự của các nớc là quá nhỏ bé. Vì
vậy có thể thấy giữa các tổng công ty hớng tập đoàn kinh doanh của ta và các
tập đoàn kinh tế còn có một khoảng cách khá xa. Một nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng này là các tổng công ty không có đủ vốn thích hợp để phát triển,
để đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất. Do thị trờng vốn của ta còn rất sơ
khai và kém phát triển, nguồn vốn từ nhà nớc thì lại rất hạn hẹp, nguồn vốn từ
các ngân hàng thơng mại thì không đủ qui mô và chủ yếu là ngắn hạn nên
4
không đáp ứng đủ yêu cầu đầu t và phát triển của các tổng công ty. Công ty tài
chính trong các tổng công ty ra đời với nhiệm vụ quan trọng là điều hoà vốn
trong tổng công ty và tạo lập, sử dụng nguồn vốn phù hợp, hiệu quả nhất để
phát triển tổng công ty.
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty
Tuy các ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của các
trung gian tài chính nhng các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng đóng
một vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn từ những ngời cho vay - ngời
tiết kiệm tới những ngời vay- những ngời cần chi tiêu. Quá trình đổi mới tài
chính đã làm cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng trở nên quan trọng hơn
rất nhiều. Các tổ chức này ngày nay cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng
qua các dịch vụ tơng tự nh hoạt động của ngân hàng.
Những năm đầu của thế kỷ 20 các trung gian tài chính phi ngân hàng,
trong đó có công ty tài chính đợc hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một
số hoạt động của ngân hàng nhằm khắc phục, hạn chế các khiếm khuyết của
các ngân hàng thơng mại và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền kinh
tế thị trờng. Trong sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân hàng các
công ty tài chính ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình nh một định

chế tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ
yếu và thờng xuyên là:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành thơng phiếu, trái phiếu và cổ
phiếu.
- Cho vay chủ yếu la trung và dài hạn
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
- Cầm cố các loại hàng hoá, vật t, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và
các vật bảo đảm khác
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán
chuyển nhợng chứng khoán
Cho đến thập kỷ 70, có 3 loại hình công ty tài chính hoạt động phổ biến
là tài trợ tiêu dùng, tài trợ bán lẻ,và tài trợ thơng mại.Từ thập niên 80 trở lại
đây, các công ty tài chính không ngừng thực hiện đa dạng hoá hoạt động
5
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực nh thuê mua, đầu t tài chính, phát hành và
kinh doanh chứng khoán,.. đồng thời thực hiện sáp nhập, thôn tính lẫn nhau
để tạo thành các công ty tài chính có qui mô hoạt động lớn, nâng cao sức
cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động của các công ty tài chính là rất đa dạng và phong phú nhng
nhìn chung có thể phân loại nh sau:
Căn cứ vào các hoạt động nghiệp vụ, công ty tài chính đợc chia thành:
+ Các công ty tài chính bán hàng: cho những ngời tiêu dùng vay để
mua các hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các công
ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu
dùng và đợc ngời tiêu dùng sử dụng vì các món vay thờng đợc thực hiện
nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
+ Các công ty tài chính ngời tiêu dùng: cho ngời tiêu dùng vay để
mua những món hàng riêng, ví dụ nh đồ đạc và các dụng cụ gia đình để cải
thiệ nhà cửa hay để giúp thanh toán các món nợ nhỏ.

+ Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc
biệt cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết
khấu; việc cung cấp các tín dụng này đợc gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các
công ty tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết
bị là những thứ công ty mua sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ vào quan hệ về sở hữu, các công ty tài chính đợc chia thành:
+ Các công ty tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh
nh: nghiệp vụ tín dụng (cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thơng mại
và sản xuất công nghiệp ); các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua; nghiệp vụ
bao thanh toán; kinh doanh tiền tệ; t vấn tài chính...
+ Các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ
yếu các hoạt động nh: tìm kiếm các nguồn vốn đầu t để cung ứng cho các
thành viên trong tập đoàn; quản lý và đầu t các khoản vốn cha sử dụng trong
tập đoàn; quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các
thành viên; làm đầu mối và t vấn cho tập đoàn, các công ty thành viên trong
quan hệ với các ngân hàng, các đối tác đầu t; quản lý rủi ro và áp dụng các
6
biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính trong tập đoàn; cung cấp các dịch vụ t
vấn tài chính khác...
Sự khác biệt cơ bản giữa các ngân hàng thơng mại và các công ty tài
chính là các ngân hàng có nhận tiền gửi thờng xuyên trong khi các công ty
tài chính thì sử dụng vốn tự có để cho vay và đầu t, không nhận tiền gửi của
dân chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và dới hình thức mở tài khoản,
không thực hiện dịch vụ thanh toán và sử dụng vốn vay để làm phơng tiện
thanh toán trong khi đó quá trình trung gian tài chính của các công ty tài
chính đợc mô tả rằng họ vay những món tiền lớn nhng lại thờng cho vay các
món tiền nhỏ, một quá trình hoàn toàn khác với quá trình trung gian của các
ngân hàng thơng mại. Chính vì vậy quá trình cho vay của các công ty tài
chính đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và ngời tiêu
dùng. Tuy vậy, trong các quốc gia có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở

rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa
dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ khách hàng của mình nhiều hơn dẫn đến
sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng và các công ty tài chính ngày càng
mờ nhạt.
Các công ty tài chính đang ngày càng phát triển và là một định chế tài
chính không thể thiếu của mỗi quốc gia. Các công ty tài chính có một lợi thế
là họ không gặp phải một hạn chế nào từ phía chính phủ về việc mở chi
nhánh, về những tài sản mà họ có và cách thức huy động vốn. Việc không có
hạn chế giúp cho các công ty tài chính có thể làm phù hợp một cách tốt hơn
các món vay của họ với những nhu cầu của khách hàng hơn là các tổ chức
ngân hàng.Thông qua các công ty tài chính các nguồn vốn nhỏ hệp trong dân
c có thể đợc tập trung lại phục vụ cho nhu cầu về vốn của đất nớc cũng nh
các hoạt động đầu t dài hạn khác.
Các công ty tài chính trong tập đoàn là sản phẩm tất yếu của thị trờng
và là bớc phát triển cao hơn của các tập đoàn kinh doanh, góp phần làm đa
dạng hoá các dịch vụ tài chính và các loại hình tổ chức tín dụng. Sự ra đời
của các công ty tài chính làm tăng thêm nguồn vốn huy động, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong tập đoàn và nhất là phát huy triệt để sức mạnh của tập
đoàn trên thị trờng tài chính trong và ngoài nớc.
7
Các công ty tài chính trong tập đoàn đợc thành lập với mục đích ban
đầu là cung cấp các dịch vụ tài chính trợ giúp cho các hoạt động kinh doanh
chủ yếu của tập đoàn nh tài trợ bán hàng, huy động vốn tập trung, quản lý
vốn đầu t ủy thác, điều hoà vốn nhàn rỗi, t vấn và làm đại lý phát hành trái
phiếu trên thị trờng tài chính...; sau đó các công ty tài chính đã từng bớc đa
dạng hoá hoạt động kinh doanh, mở rộng đối tợng phục vụ ra bên ngoài tập
đoàn nh cho khách vay để mua hàng hoá do tập đoàn sản xuất, cho các doanh
nghiệp trong cùng ngành kinh tế - kỹ thuật vay vốn, cung cấp các dịch vụ bảo
hiểm, tài chính, kinh doanh địa ốc...
Sở hữu vốn của công ty tài chính là sở hữu hỗn hợp nhng có một chủ

đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. Tập đoàn tiến hành hoạt động
và quản lý tập trung một số mặt nh huy động, điều hoà, quản lý vốn; nghiên
cứu triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lợc phát triển, chiến lợc thị trờng,
chiến lợc sản phẩm, chiến lợc đầu t...
Các công ty tài chính chiếm một vị trí quan trọng thiết yếu trong dây
chuyền vốn - tín dụng của các tập đoàn, là trung gian tài chính-cầu nối giữa
tập đoàn với thị trờng tài chính. Một nguồn vốn kinh doanh quan trọng của
các công ty tài chính là nguồn vốn đợc cấp hoặc đi vay từ tập đoàn và các
công ty thành viên; đồng thời doanh thu từ các hoạt động tài trợ để mua hàng
hóa do tập đoàn sản xuất, cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn vay,
chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng doanh thu của các công ty tài chính.
Trong qua trình hoạt động, các công ty tài chính trong tập đoàn thờng
phát triển theo hai xu hớng:
- Một là: phát triển trở thành một tổ hợp các công ty gồm công ty
mẹ và các công ty con phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công
ty mẹ chi phối các công ty con về mặt tài chính và chiến lợc
thông qua quyền biểu quyết do sở hữu một phần khống chế trong
tổng cổ phần đang lu hành của công ty con.
- Hai là: hình thành các công ty tài chính độc lập trực thuộc tập
đoàn, có chức năng hoạt động giống nhau nhng kinh doanh trên
trên các vùng địa lý khác nhau; hoặc có chức năng hoạt động
khác nhau nhng cùng hoạt động trên cùng một địa bàn.
8
Là thành viên trong tập đoàn nên các công ty tài chính có nhiều lợi thế
nhờ hiểu đợc rõ các đặc tính kinh tế -kỹ thuật của tập đoàn, các mối quan hệ
trong nội bộ tập đoàn; có khả năng tiếp cận nhiều nguồn thông tin với chi phí
thấp để nắm bắt hoạt động ản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên; từ đó
rút ngắn thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác.

1.2. Nghiệp vụ ủy thác

1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ ủy thác
Nghiệp vụ ủy thác có nguồn gốc, xuất xứ từ rất lâu, gần nh là cùng với
sự hình thành và phát triển của ngân hàng thơng mại.
Trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị trờng, đã có những nhà buôn,
địa chủ hay thợ kim hoàn,.. là những ngời có tiền và phát sinh nhu cầu đợc bảo
đảm an toàn về những khoản tiền hay tài sản của mình. Từ đó xuất hiện những
ngời giầu hơn hay có khả năng, đợc kính trọng hơn những ngời khác đứng ra
giữ hộ của cải của ngời khác và nhận đợc một khoản tiền phí nhất định của
những ngời gửi,khi đó nghiệp vụ ủy thác nảy sinh. Sau đó những ngời này
nhận thấy có thể lợi dụng tiền của mọi ngời để cho vay những ngời có nhu cầu
và có lợi hơn nhiều so với nhận phí và do vậy từ việc nhận phí họ đã tiến tới
trả cho những ngời gửi tiền một khoản để thu hút tiền gửi và hình thành những
ngân hàng thơng mại sơ khai. Vậy có thể thấy nghiệp vụ ủy thác đã xuất hiện
từ rất sớm tuy rằng còn sơ khai và khác nhiều so với ngày nay.
Dễ thấy, ban đầu nghiệp vụ ủy thác dựa trên cơ sở sự tin tởng lẫn nhau
giữa những ngời có quan hệ ủy thác. Vì vậy trong tiếng Anh có thuật ngữ
Trust (có nghĩa là đúng, tín nhiệm, tin tởng ) đợc sử dụng để chỉ tới nghiệp
vụ ủy thác và nó đã cho thấy bản chất của nghiệp vụ ủy thác là nghiệp vụ đợc
thực hiện trên cơ sở của sự tin tởng và sự tín nhiệm lẫn nhau giữa các bên
trong xã hội.
Ban đầu, nghiệp vụ ủy thác đa số chỉ xuất hiện trong những quan hệ cá
nhân với cá nhân và dựa nhiều vào sự tin tởng mang tính cá nhân cao giữa hai
bên. Cá nhân có tài sản trên cơ sở nhận thấy một ngời khác có uy tín cao, có
khả năng đảm bảo an toàn hay có khả năng làm cho tài sản của mình sinh lợi
sẽ giao cho ngời đó tài sản của mình để quản lý hay kinh doanh hộ mình. Ngời
9
có tài sản thì có thể an tâm về số tài sản của mình không lo bị cớp hay thất lạc
và trong một số trờng hợp họ còn có thể nhận đợc một khoản lợi nhuận nhỏ.
Trong khi đó thì ngời nhận quản lý tài sản vừa có thể nâng cao đợc uy tín của
mình vừa nhận đợc một khoản phí hay có thể mang tài sản đó ra kinh doanh

sinh lời (nếu chủ sở hữu đồng ý ) tuy trong giai đoạn đầu thì loại hình này ít
khi xảy ra. trong giai đoạn này thì ủy thác đợc hiểu là việc bảo đảm, quản lý
hộ tài sản của ngời khác và đợc tiến hành dựa trên cơ sở sự tin tởng cá nhân
giữa hai bên.
Ngay từ giai đoạn này của nghiệp vụ ủy thác thì đối tợng của các hợp
đồng ủy thác đã khá đa dạng bao gồm tiền, nhà đất, vàng bạc, đồ trang sức,...
và có đặc điểm rất quan trọng là cha có sự tham gia của luật pháp mà chỉ là sự
thoả thuận miệng giữa hai bên tham gia ủy thác trên cơ sở tin tởng và hai bên
cùng có lợi.
Dần dần cùng với sự phát triển của sản xuất, nghiệp vụ ủy thác có nhiều
thay đổi. Lúc này, không chỉ còn là mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau mà
còn là mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức hay giữa tổ chức với tổ chức.
Trong kinh tế thị trờng xuất hiện nhu cầu của các công ty có lợng vốn nhàn
rỗi, hay có tài sản cha sử dụng mong muốn tài sản của mình gặp ít rủi ro nhất
hay mong sinh lời một cách hợp lý đã tìm đến những ngời có khả năng đáp
ứng một cách tốt nhất những đòi hỏi đó. Khi đó nghiệp vụ ủy thác phát triển
tới một mức độ cao, xuất hiện những tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch vụ
ủy thác cho toàn xã hội và lúc này hoạt động ủy thác không còn đơn thuần là
quản lý tài sản để nhận phí mà chuyển sang chủ yếu là lĩnh vực quản lý tài sản
nhằm sinh lời và thực hiện các công việc mà khách hàng yêu cầu.
Trong giai đoạn phát triển này, các loại hinh tổ chức tín dụng đã phát
triển mạnh mẽ với hàng loạt các công ty mới nh công ty bảo hiểm, các quỹ tiết
kiệm tín thác dành cho ngời nghèo... Với đặc điểm khách hàng đến với công ty
bảo hiểm luôn e ngại với các rủi ro mà họ có thể gặp phải, các công ty bảo
hiểm đã nhanh chân hơn các tổ chức tín dụng khác trong việc phát triển nghiệp
vụ ủy thác cho phép khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn của các tài sản
của họ khi ủy thác chúng cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, nghiệp vụ ủy thác
10
của công ty bảo hiểm chỉ đợc phép dừng ở mức độ quản lý tài sản để hởng phí
chứ cha nghĩ tới việc sử dụng chúng để sinh lợi.

Trong khi đó thì hệ thống các quỹ tín thác dành cho ngời nghèo đã nghĩ
tới việc sinh lợi cho tài sản của khách hàng khi thực hiện thu gom những đồng
tiền nhỏ bé của ngời nghèo tập trung lại và ủy thác cho ngời quản lý quỹ để
gửi ngân hàng lấy lãi hay đầu t vào chứng khoán để sinh lợi. Lãi thu đợc sẽ
chia theo tỷ lệ tiền gửi của từng ngời. Quỹ này trao cho những ngời nghèo một
cơ hội sinh lợi từ số tiền nhỏ bé của họ, hình thức này đợc coi nh sự phát triển
bậc thấp của dịch vụ ủy thác vốn.
Ngân hàng tuy có chậm hơn trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác nhng
lại là tổ chức thực hiện mạnh nhất và trong những năm 50 của thế kỷ 20
nghiệp vụ ủy thác đợc coi là chìa khóa mở ra các hớng hoạt động mới của
ngân hàng thơng mại trong tơng lai. Tại ngân hàng, các tài khoản ủy thác th-
ờng đợc chia rõ tài khoản nào đợc phép mang ra đầu t, cho vay tài khoản nào
chỉ đợc phép quản lý.
Với sự đa dạng của các tổ chức có thực hiện nghiệp vụ ủy thác thì những
ngời có nhu cầu đã có thêm nhiều phơng hớng lựa chọn để họ có thể lựa chọn
đợc ngời nhận ủy thác phù hợp với yêu cầu của họ nhất.
Khi nền kinh tế thị trờng phát triển tới đỉnh cao kéo theo sự phát triển
của mọi mặt và sự phân công lao động sản xuất làm xuất hiện nhiều ngành
nghề mới với sự chuyên môn hóa cao Đặc trng của kinh tế thị trờng là tự do
cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do kinh doanh và tự do mậu dịch. Sự phát triển
của nghiệp vụ ủy thác cũng vậy, tự những hình thức sơ khai ban đầu, dần dần
các nghiệp vụ đã đợc hoàn thiện, phát triển thành nhiều loại hình mới nh ủy
thác công việc, ủy thác hàng hoá xuất nhập khẩu,... mà trong đó ủy thác vốn
ngày càng trở nên quan trọng và thu hút đợc nhiều sự quan tâm của khách
hàng. Vốn cũng là một loại hàng hóa và có cung, cầu cùng một mức giá cả cho
quyền sử dụng vốn. Vì vậy thị trờng vốn đã đợc tạo lập và ngày càng phát triển
các công cụ vốn đa dạng, phức tạp. Kinh tế càng phát triển càng có nhiều
luồng vốn dịch chuyển trong nớc và quốc tế, từ đó xuất hiện nhu cầu những tổ
chức chuyên môn với hiểu biết chuyên sâu và khả năng nắm vững những công
cụ vốn để phục vụ cho thị trờng này, đó là trung gian tài chính.Hệ thống các tổ

11
chức này càng lành mạnh và hoàn chỉnh thì thị trờng vốn càng có hiệu quả,
đóng vai trò đòn bẩy kinh tế, tạo chất xúc tác cho các phản ứng dây chuyền
phát triển nền kinh tế, theo cách này các trung gian tài chính có thể giúp thúc
đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Theo truyền thống thì các ngân hàng thơng mại là trung tâm hội tụ các
nguồn cung cầu về vốn và là trung gian tài chính quan trọng nhất. Tuy vậy,
càng ngày vai trò này càng đợc chia sẻ cho các tổ chức tài chính trung gian
khác nh: Cong ty đầu t, Công ty tín dụng thuê mua, quỹ đầu t và phát triển,
quỹ đầu t tơng hỗ,... Những trung gian tài chính thu đợc lợi nhuận bằng việc
đặt một lãi xuất cao hơn cho các món cho vay so với món lãi họ thanh toán
cho vốn mà họ vay từ ngời cho vay. Nh vậy, do hoạt động trong quá trình tài
chính gián tiếp, những trung gian tài chính có thể làm lợi cho phần lớn những
ngời có món tiết kiệm nhỏ bằng việc đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có
thể giúp cho ngời vay món nhỏ nay có thể vay đợc tiền vốn mà họ không có
cách nào khác để có đợc (điển hình là công ty tài chính chuyên vay món tiền
lớn để chovay các khoản nhỏ với thời hạn dài). Những ngời vay các món tiền
lớn cũng hởng lợi bởi vì quá trình trung gian tài chính có nghĩa là có đợc nhiều
vốn hơn cho ngời vay trong thị trờng tài chính. Không có trung gian tài chính
thị trờng tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn.
Khách hàng cung cấp vốn cho các trung gian tài chính này là những ng-
ời, những tổ chức có số tiền d thừa, cha đợc mang ra sử dụng. Những ngời này
mong muốn số tiền này sinh lời nhng lại e ngại có thể mắc phải rủi ro. Họ có
thể gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu, tín phiếu của chính
phủ vì đây là cách để đồng tiền của họ có thể sinh lời với mức an toàn cao nhất
có thể. Nhng cũng có những ngời mong muốn một mức lợi nhuận cao hơn dù
phải gánh chịu rủi ro cao hơn bàng cách đầu t trực tiếp vào các dự án hay thị
trờng chứng khoán. Tuy nhiên nếu theo phơng pháp này thì nhà đầu t phải tự
mình gánh chịu hoàn toàn rủi ro, phải tự đi thu nhận các thông tin cần thiết.
Và đôi lúc lợi nhuận các nhà đầu t nhận đợc không đủ cho các chi phí mà họ

đã phải bỏ ra.
Nhằm trung hoà hai thái cực này, thoả mãn những ngời mong muốn có
lợi nhuận không quá thấp và rủi ro phải chịu không quá lớn thì ngiệp vụ ủy
12
thác có thể đợc coi là một giải pháp tốt. Từng chứng minh đợc lợi ích của
mình khi thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ủy thác với các loại hàng hoá thông
thờng hay các công việc mà khách hàng tin cậy giao phó, chuyển sang thực
hiện ủy thác vốn của các khách hàng nghiệp vụ này của các trung gian tài
chính tỏ ra có sức thuyết phục lớn. Những ngời có tiền hay tài sản nhàn rỗi hay
tạm thời nhàn rỗi thì họ có thể sử dụng phơng pháp ủy thác đầu t chứng khoán
thông qua các tổ chức trung gian hay ủy thác tài sản bằng tiền để đầu t vào các
công trình, dự án của một công ty cụ thể hoặc cho tổ chức tín dụng đầu t hộ
mình. Với phơng pháp ủy thác thông qua tổ chức tín dụng, những cá nhân hay
tổ chức có vốn d thừa cha sử dụng có thể an tâm vì với những món tiền ủy thác
này, các tổ chức tín dụng có thể tập hợp lại thành một món tiền lớn và dung nó
đầu t, kinh doanh sinh lời vì họ là những ngời am hiều đối với việc cho ai vay
hay mua loại chứng khoán nào hay đầu t vào dự án nào là có lợi nhất và lợi thế
tiết kiệm chi phí nhờ qui mô.Nh vậy nghiệp vụ ủy thác đã tiến tới quản lý vốn
và tài sản để sinh lời cho khách hàng và bản thân tổ chức nhận ủy thác.
Tuy ngày nay trên thế giới các ngân hàng thơng mại luôn là tổ chức thực
hiện nghiệp vụ ủy thác với qui mô lớn và dành cho nó sự quan tâm nhiều nhất
nhng càng ngày càng có nhièu tổ chức trung gian tài chính khác quan tâm
nhiều hơn tới nghiệp vụ này trong đó phải kể tới các công ty tài chính độc lập
và các công ty tài chính trong các tập đoàn lớn. Các tập đoàn lớn sản xuất kinh
doanh nay đã quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác, các tập
đoàn thờng đóng vai trò ngời ủy thác và giao vốn cho công ty tài chính thuộc
tập đoàn mình hoặc cho một tổ chức tín dụng thực hiện việc đầu t kinh doanh
hộ. Các công ty, tập đoàn lớn cũng có thể lựa chọn phơng pháp ủy thác vốn
trực tiếp vào các cơ sở. Tuy nhiên hình thức này không nhiều vì không phải
công ty hay tập đoàn nào cũng có đủ thông tin cần thiết hay có khả năng quản

lý bao quát hết mọi việc, cũng nh không phải bất cứ thành phần kinh tế nào
cũng đợc pháp luật cho phép nhận ủy thác.
Và hiện nay ở nớc ta, nghiệp vụ ủy thác đang đợc hy vọng nhiều vào
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng nh giúp cac doanh nghiệp cần vốn có
nhiều cơ hội hơn trong việc thu hút nguồn vốn. Nghiệp vụ ủy thác không chỉ
mang lại lợi ích cho hai bên ủy thác và nhận ủy thác mà cả Nhà nớc cũng đợc
13
hởng lợi trong nghiệp vụ này. Với các khoản ủy thác từ nớc ngoài đầu t vào
các doanh nghiệp trong nớc, Nhà nớc thu đợc thuế nh đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu t trong nớc chứ không phải cho phép hởng u đãi nh với các
công trình có vốn đầu t nớc ngoài.
Vậy thế nào là nghiệp vụ ủy thác ?
1.2.2. Khái niệm về ủy thác ?
Hiện nay, có khá nhiều định nghĩa về ủy thác. Theo từ điển Kinh tế
hiện đại thì nghiệp vụ ủy thác là việc tài sản của một ngời đợc giao cho ngời
khác kinh doanh và quản lý. Ngời đợc nhận trách nhiệm quản lý tài sản không
đợc thụ hởng lợi nhuận đợc sinh ra của tài sản, còn ngời giao tài sản không có
quyền nắm giữ tài sản của mình. Ngoài ra, ngời giao quyền quản lý còn phải
trả cho ngời quản lý một khoản phí.
Theo định nghĩa trong cuốn Ngân hàng thơng mại của Eward W.Reed
và Eward K.Gill, thì mối quan hệ ủy thác xuất hiện khi nảy sinh một thoả
thuận ủy thác giữa ngời ủy thác và ngời nhận ủy thác. Nó xuất hiện khi có một
bên cung ứng dịch vụ ủy thác và một bên có nhu cầu ủy thác gặp nhau tạo ra
một hợp đồng ủy thác trong đó có xảy ra việc chuyển nhợng tài sản từ ngời ủy
thác sang ngời nhận ủy thác (hay ngời cung ứng dịch vụ ủy thác ) để ngời này
quản lý, điều hành vì lợi ích của ngời ủy thác hay của ngời thụ hởng. Còn đối
với bên nhận ủy thác thì việc cung cấp một dịch vụ ủy thác làm nảy sinh mối
quan hệ ủy thác, nghĩa là một bên hoạt động vì lợi ích của bên kia trong phạm
vi mối quan hệ của họ và trong hầu hết các trờng hợp bao gồm việc nắm giữ
tài sản đợc điều hành bởi ngời nhận ủy thác vì lợi ích của một bên hoặc bên

thứ ba.
Nh vậy, hoạt động ủy thác là một hoạt động thể hiện rõ tính trung gian
của các tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác. Nó cho phép những ngời không có
khả năng kinh doanh, quản lý tài sản hay công việc của mình tìm tới một đội
ngũ những nhà chuyên môn có khả năng hoàn thành những mục tiêu mà họ
mong muốn đối với tài sản hay công việc của mình. Việc này là có lợi không
chỉ xét từ góc độ ngời ủy thác và ngời nhận ủy thác mà còn cho cả xã hội vì
nó làm giảm chi phí chung cho toàn xã hội và hiệu quả hơn cho nền kinh tế
nói chung.
14
Vậy, ta có thể rút ra: Nghiệp vụ ủy thác là một hành vi theo đó bên nhận
ủy thác (hay đợc ủy thác ) thực hiện việc quản lý tài sản theo cách đã thỏa
thuận với bên ủy thác, thoả thuận này đợc qui định chi tiết bằng văn bản trong
hợp đồng ủy thác, nhằm đem lại lợi ích cho bên ủy thác hay bên thứ ba-gọi là
bên thụ hởng. Tài sản ở đây đợc hiểu theo một ý chung, đó là một công
việc,ý muốn hay là bất động sản, trái phiếu, chứng khoán, tiền mặt,... của một
ngời hay một số ngời. Những ngời, có thể là một ngời, có tài sản đem giao cho
ngời khác quản lý hộ đợc gọi chung là bên ủy thác. Bên tiếp nhận quản lý số
tài sản này gọi là bên nhận ủy thác.Trong hoạt động này, bên ủy thác sẽ trả
cho bên nhận ủy thác một khoản tiền để quản lý tài sản của mình gọi là
phí.Mức phí này tuỳ thuộc vào tính chất cũng nh khả năng sinh lời của tài sản.
Các dịch vụ ủy thác phức tạp, mang tính kỹ thuật và pháp lý cao, do vậy thông
thờng khi phát sinh nghiệp vụ ủy thác cụ thể sẽ có một văn bản qui định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của hai bên ủy thác và nhận ủy thác, cũng nh qui
định rõ về đối tợng hởng lợi ích từ tài sản trong nghiệp vụ ủy thác, gọi là bên
thụ hởng, đó có thể là bên ủy thác mà cũng có thể là bên thứ ba.
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng ủy thác.
Nh trên đã nêu, nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ mang tính kỹ thuật
và tính pháp lý cao và vô cùng phức tạp. Nó có liên quan tới nhiều thành phần,
tổ chức trong xã hội, nền kinh tế nên không thể đơn thuần dựa trên sự tin cậy

lẫn nhau giữa hai bên mà nó cần có một sự đảm bảo về mặt pháp lý. Do vậy,
mỗi khi xuất hiện một quan hệ ủy thác thì sẽ có một hợp đồng giữa các bên
tham gia, nó cho phép bên ủy thác có thể an tâm hơn rằng mong muốn của
mình sẽ đợc thực hiện còn bên nhận ủy thác sẽ ý thức đầy đủ về quyền lợi và
trách nhiệm của họ trong mối quan hệ ủy thác đó.
Trong một hợp đồng ủy thác có xuất hiện ít nhất là hai bên: bên ủy thác
và ben nhận ủy thác. Các bên này có thể là các cá nhân, các doanh nghiệp, các
tổ chức tín dụng, các tổ chức từ thiện,... Ngoài ra thì các cơ quan nhà nớc cũng
có thể là thành viên trong quan hệ ủy thác.
Bên ủy thác (trustor) là bên có tài sản nhng không tự kinh doanh, quản
lý mà ủy thác cho ngời khác thực hiện việc này giúp họ, họ cũng có thể là ngời
lập ra các quỹ chuyên dành cho một mục đích nào đó hay một lớp ngời nào đó
15
thụ hởng và giao quỹ này cho ngời đợc ủy thác để phân phối cho ngời thụ h-
ởng.
Bên thụ hởng (benefitciary) là bên thứ ba, bên nhận lợi ích, lợi nhuận đ-
ợc sinh ra từ tài sản.
Bên nhận ủy thác (trustee) là bên nhận ủy thác, bên thụ thác, bên đợc
ủy thác, ủy trị. Đây là thể nhân hoặc pháp nhân đợc tạm thời giao quyền sở
hữu những tài sản hoặc quyền lợi của ngời ủy thác, có trách nhiệm hành động
vì lợi ích của ngời ủy thác hoặc ngời thụ hởng khác nhằm đạt đợc mục đích
hai bên đã thoả thuận.
Các dịch vụ ủy thác có thể đợc thực hiện bởi các cá nhân hoặc các tổ
chức, bao gồm các phòng ủy thác của ngân hàng thơng mại hay công ty tài
chính. Nhng vì những thuận lợi mà các tổ chức nhận ủy thác có đợc so với các
cá nhân nên hầu hết dịch vụ ủy thác đều đợc phòng ủy thác của các tổ chức tài
chính trung gian thực hiện. Những thuận lợi này có đợc là nhờ kinh nghiệm,
thâm niên, trách nhiệm tài chính, khả năng đáp ứng các khoản nợ, chuyên môn
hoá, xét duyệt tập thể, tính công bằng và tính thích ứng.Hầu hết những thuận
lợi này phát sinh từ đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp làm việc ở phòng ủy

thác. Bởi vì các tổ chức nói chung tồn tại lâu dài, nhân sự có khả năng và kinh
nghiệm có thể đợc thuê để thực hiện các hợp dồng ủy thác và các dịch vụ ủy
thác khác mà công ty đã cam kết.
Hợp đồng ủy thác và dịch vụ ủy thác bao gồm số tiền và tài sản lớn. Ng-
ời lập ra hợp đồng ủy thác hoặc có các dịch vụ ủy thác khác có quan tâm đến
khả năng tài chính của ngời nhận ủy thác. Có rất ít cá nhân nào có đủ vốn để
đảm bảo với ngời ủy thác rằng họ có đủ khả năng tài chính để đáp ứng tiêu
chuẩn này. (Các dịch vụ ủy thác phải đợc thực hiện đúng hẹn, khẩn trơng, tạo
ra các phòng ủy thác của các tổ chức nhạy bén với các cam kết hơn là các cá
nhân có quá nhiều trách nhiệm)
Trong một công trình nghiên cứu nổi bật về dịch vụ ủy thác đã cho thấy
trách nhiệm cơ bản của một ngời nhận ủy thác là trung thành, tuân theo chỉ
thị, có khả năng và siêng năng. Việc tiến hành dịch vụ ủy thác, lòng trung
thành nói lên rất nhiều điều. Ngời nhận ủy thác phải trung thành với ngời ủy
thác và ngời thụ hởng và không bao giờ bị thúc đẩy bởi t lợi. Các lệ phí thích
16
hợp đối với việc thực hiện các dịch vụ đa ra đợc chấp nhận nhng việc sử dụng
vốn ủy thác cho các lợi ích riêng thì hoàn toàn bị nghiêm cấm. Khi một bên
nhận ủy thác thì có nghĩa là đã có một thoả thuận trong đó bao gồm sự tin tởng
và ủy thác và ngời nhận ủy thác bị ràng buộc phải tuân theo hợp đồng về mặt
pháp lý, phải có các tiêu chuẩn cao về sự thành thực, sự ứng xử kinh doanh và
có trách nhiệm bảo vệ hợp đồng.
Bộ phận ủy thác phải tuân theo các chỉ thị và các điều khoản của hợp
đồng ủy thác, di chúc, lệnh của toà án, hoặc hợp đồng đại diện. Nó không thể
nhận một trách nhiệm rồi sau đó quyết định rằng, các hành động khác sẽ tốt
hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trong trờng hợp có một số biến cố
bất thờng, những thay đổi vẫn không đợc thực hiện. Các cá nhân và doanh
nghiệp sử dụng các dịch vụ ủy thác có quyền đa ra các yêu sách và có thẩm
quyền lớn trong lĩnh vực này và các bộ phận ủy thác không thể đổ lỗi cho sự
thiếu hiểu biết hoặc bỏ quên mà phải thờng xuyên siêng năng hoàn thành mục

tiêu của hợp đồng. Trách nhiệm này là lớn lao nhng không có nghĩa là ngời
nhận ủy thác là ngời bảo đảm do khi họ nhận ủy thác họ chỉ đợc thực hiện
những gì trong hợp đồng đã thỏa thuận và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi
hoạt động cụ thể, ngời ủy thác không thể buộc họ phải làm những gì quá trách
nhiệm của họ và không thể yêu cầu họ đảm bảo rằng không có bất kỳ rủi ro
nào xảy ra với các vấn đề đợc ủy thác.Tuy nhiên họ là những ngời bảo đảm
nếu các thiệt hại xảy ra do lỗi của chính họ.
1.2.4. Phân loại ủy thác:
Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay cha có sự qui định cụ thể về các loại
hình ủy thác đợc phép thực hiện nên sự phân loại này chủ yếu dựa trên các loại
dịch vụ ủy thác đã đợc tiến hành và đợc cấp phép ở nớc ngoài.
a) Các dịch vụ ủy thác đợc thực hiện đối với cá nhân:
Trên thực tế, hầu hết các dịch vụ ủy thác với cá nhân đều đợc thực hiện
bởi các ngân hàng thơng mại và vì ứng với nhu cầu đa dạng của các cá nhân
nên các dịch vụ ủy thác tơng ứng của ngân hàng thơng mại cũng là rất lớn. Do
vậy ở đây chỉ nhắc đến những chức năng chủ yếu gồm thanh lý tài sản, điều
hành ủy thác, phục vụ nh ngời bảo vệ và bảo quản tài sản, thực hiện các dịch
vụ đại diện.
17
+ Thanh lý tài sản: Trong di chúc của mình, ngời chết thờng chỉ định
ngời thực hiện di chúc để thực hiện các ý muốn của họ - thờng là các phòng ủy
thác của ngân hàng thơng mại. Ngời phân chia tài sản không có di chúc để lại
đợc gọi là ngời quản lý tài sản và đợc toà án chỉ định, trách nhiệm này có thể
giao cho phòng ủy thác. Ngoài việc phục vụ nh ngời thực hiện di chúc hay ng-
ời quản lý tài sản, các bộ phận tín thác có thể phục vụ hai khả năng khác nhau:
một là, nh nhà quản lý tài sản bằng di chúc hoặc hai là, nh nhà quản lý thanh
lý tài sản.Bổn phận cơ bản của một ngời quản lý tài sản hay thực hiện di chúc
là xin phép toà án để hành động, thu thập và bảo vệ các tài sản, chi trả các chi
phí điều hành và các khoản nợ, thuế, phân phát tài sản ròng và cung cấp các
dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia đình.

+ Việc điều hành các ủy thác cá nhân: đây là ủy thác nảy sinh từ một
thoả thuận giữa ngời ủy thác và ngời nhận ủy thác bao gồm việc chuyển nhợng
tài sản từ ngời khởi xớng hay ngời ủy thác sang cho ngời nhận ủy thác để ngời
này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của ngời ủy thác hay của ngời thụ
hởng.
+ Đóng vai trò là ng ời giám hộ và ng ời bảo quản tài sản : Khi một ngời
đang trong độ tuổi vị thành niên, đợc xem là không có năng lực pháp lý về
quản lý và nắm giữ tài sản, thừa kế tài sản, một ngời giám hộ đợc chỉ định để
nắm giữ tài sản đó, thông thờng trách nhiệm này đợc giao cho bộ phận ủy
thác.
+Dịch vụ đại diện: dịch vụ này khác đáng kể so với dịch vụ ủy thác
thuần tuý, trên nhiều phơng diện. Trong ủy thác, quyền hành động với các tích
sản ủy thác đợc chuyển sang cho ngời nhận ủy thác nhng trong dịch vụ đại
diện quyền hành đối với tài sản không đợc chuyển sang cho ngời đại diện mà
vẫn ở trong tay ngời sở hữu. Một dịch vụ đại diện xảy ra khi một ngời, thờng
đợc gọi là ngời ủy nhiệm, cho phép ngời khác làm đại diện và hành động thay
cho ngời ủy nhiệm.Một dịch vụ đại diện tiêu biểu là một sự dàn xếp về hợp
đồng. Các dịch vụ đại diện thờng ít liên kết chặt chẽ hơn so với tín thác và có
thể chấm dứt ít phức tạp hơn.
b ) Dịch vụ ủy thác đối với các doanh nghiệp
18
Hầu hết các nghiệp vụ ủy thác đợc thiết lập bởi các doanh nghiệp nhằm
phục vụ cho các mục đích trợ cấp hu trí, phân chia lợi nhuận và chia tiền thởng
cổ phần, cho phát hành trái phiếu; cho mua lại các quỹ và giữ lại các quỹ để
thanh toán cho việc phát hành trái phiếu ủy thác thế chấp hoặc các giấy chứng
nhận.
Ngoài việc cung cấp các kế hoạch khác nhau nhằm đảm bảo lợi ích của
công nhân mà thông thờng là các kế hoạch tự cấp vốn, tín thác đầu t vốn, lu sổ
mức tiền mà mỗi công nhân nhận đợc, chi trả cho họ phù hợp với thoả thuận
ủy thác thì các phòng ủy thác còn thực hiện ngời nhận ủy thác theo khế ớc.

Khi các công ty vay nợ dài hạn, các trái phiếu, tín phiếu hay giấy vay nợ thờng
đợc phát hành. Nếu các chứng khoán này đợc bảo đảm, ngời nhận ủy thác theo
khế ớc thờng có quyền hợp pháp với các tài sản đợc lu giữ đại diện cho ngời
nắm giữ trái phiếu và có quyền tịch thu tài sản thế chấp nếu ngời ký khế ớc
không hoàn trả vốn gốc và lãi.Nhiều hoạt động đợc thực hiện với hình thức
này bao gồm việc chuyển nhợng quyền sở hữu các chứng khoán, thực hiện chi
trả lãi và vốn gốc, giải chấp cho các tài sản đợc thế chấp, xử lý các quỹ đợc tạo
ra nhằm chuộc lại các trái phiếu; bảo quản sổ sách và thực hiện các báo cáo
cho những ngời nắm giữ trái phiếu, công ty phát hành, các cơ quan điều hành
và sở giao dịch chứng khoán. Trong một vài trờng hợp, ngời nhận ủy thác có
thể phát hành các giấy chứng nhận ủy thác trang thiết bị nh công cụ tín dụng
đợc bảo đảm bởi trang thiết bị.(Trang thiết bị đợc chuyển cho bộ phận ủy thác
và đơn vị thuê các thiết bị đó có trách nhiệm trả tiền thuê đối với việc sử dụng
những thiết bị đó cho ngời nhận ủy thác và sau đó chi trả cho ngời nắm giữ các
giấy chứng nhận.)
Các bộ phận ủy thác thực hiện một số chức năng đại lý cho doanh
nghiệp, nó đóng vai trò là ngời đại lý chuyển nhợng, liên quan tới việc chuyển
nhợng quyền sở hữu cổ phiếu của một công ty. Thêm vào đó là vai trò ngời đại
lý trao đổi cũng rất giống nh là một đại lý chuyển nhợng. Khi thực hiện dịch
vụ này, ngời nhận ủy thác nhận một loại chứng khoán và giao lại một loại
chứng khoán khác phù hợp với các kế hoạch định trớc.
Các công ty cổ phần có nhiều cổ đông thờng không quan tâm đến việc
chi trả lãi đối với các cổ phiếu nên họ nhờ tới phòng ủy thác để phục vụ nh
19
một đại diện chia lãi cổ phần, phòng ủy thác nhận chi trả cho công ty khi đến
hạn trả lãi cổ phần.
Hiện nay, cùng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng thì nhiều
bộ phận ủy thác lớn trong các tổ chức tín dụng đã cạnh tranh mãnh liệt trong
việc đa ra các dịch vụ quản lý đầu t, tách rời khỏi các dịch vụ ủy thác khác mà
nghiệp vụ quan trọng nhất là cung cấp các dịch vụ quản lý cho các doanh

nghiệp. Mục đích của các dịch vụ này là làm cho vốn lu động tạm thời nhàn
rỗi của các doanh nghiệp đợc sinh lợi, càng cao càng tốt, phù hợp với sự an
toàn và thanh khoản hàng ngày. Điều này đợc thực hiện qua việc đầu t vào các
công cụ thị trờng tiền tệ chất lợng cao, các thoả thuận mua lại, quỹ thị trờng
tiền tệ.
c) Dịch vụ ủy thác đợc thực hiện cho các tổ chức từ thiện và những tổ
chức khác:
Họ có thể đóng vai ngời nhận ủy thác cho các tổ chức xã hội dới hình
thức quà biếu để đẩy mạnh việc nghiên cứu, trợ giúp các trờng học, các tổ
chức từ thiện và các tổ chức nhân đạo. Họ có thể đóng vai ngời đại diện quản
lý đầu t đối với quỹ quyên góp.
Sự phân loại nh trên thực chất là dựa nhiều theo mô hình của các ngân
hàng thơng mại nhng cũng có thể áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng
khác nh công ty tài chính, bảo hiểm,... Cách phân loại này dựa theo tiêu chí
các khách hàng của dịch vụ ủy thác hay là các đối tợng ủy thác, số nghiệp vụ
ủy thác loại này là rất nhiều do có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quan
hệ ủy thác. Sự phân chia trên giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về các loại
hình ủy thác thờng thấy với mỗi đối tợng tham gia ủy thác. Nếu xét trên giác
độ các loại hình ủy thác thì chúng ta có thể phân ra làm ba loại chính là:
+ ủy thác quản lý tài sản
+ủy thác quản lý vốn
+ủy thác thực hiện công việc
Nghiệp vụ ủy thác quản lý tài sản thực chất là việc bên ủy thác giao
quyền sử dụng các tài sản cuả họ cho bên nhận ủy thác nhng trên thực tế ở
20
Việt Nam thì nghiệp vụ này còn rất khó triển khai do có vớng mắc về luật
pháp trong vấn đề quyền sở hữu.
Nghiệp vụ ủy thác thực hiện công việc do mang tính cá nhân cao nên
hầu hết do các ngân hàng thơng mại vốn có quan hệ rộng khắp trong xã hội và
có nhiều điều kiện hơn các tổ chức tín dụng khác thực hiện.

Do các lý do trên và khuôn khổ bài viết là về ủy thác tại công ty tài
chính nên ta sẽ đi sâu vào loại hình ủy thác quản lý vốn.
1.3. ủy thác quản lý vốn
1.3.1. Khái niệm
Trong xã hội luôn tồn tại những ngời có vốn nhng vì một số lý do nào
đấy nh sợ rủi ro hay không có trình độ quản lý, thiếu thông tin,.... Đó chính là
những khách hàng tiềm năng của phòng ủy thác mà cụ thể là với nghiệp vụ ủy
thác quản lý vốn của phòng ủy thác. Tuy hai loại hình ủy thác là ủy thác quản
lý tài sản và ủy thác công việc cũng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần
đây nhng ủy thác quản lý vốn với đặc thù quản lý những nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội đang trở thành vấn đề cấp bách với các tổ chức tín dụng. Xã hội
càng phát triển thì sự phân công lao động và chuyên môn hoá càng phát triển,
xuất hiện ngày càng nhiều ngời có vốn nhàn rỗi dới nhiều hình thức nhng
không phải ai trong số họ cũng có khả năng nắm bắt đợc các cơ hội đầu t và có
khả năng kinh doanh, quản lý có hiệu quả lợng vốn của mình. Nhằm giải
quyết vấn đề này và để vốn luân chuyển có hiệu quả trên thị trờng những ngời
này có thể sử dụng dịch vụ ủy thác quản lý vốn của các tổ chức tín dụng.Chỉ
có các tổ chức tín dụng mới là những ngời quản lý vốn tốt nhất do họ có đầy
đủ thông tin, có kiến thức và quan trọng nhất là họ có thị trờng rộng lớn và đầy
tiềm năng. Chúng ta đã biết tổ chức tín dụng đóng vai trò là trung gian tài
chính trong nền kinh tế thị trờng, tiếp nhận và cung cấp vốn vào các kênh phù
hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, tại các tổ chức tín dụng thì
nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn rất phát triển. Các tổ chức tín dụng có thể đóng
cả hai vai trò ngời nhận ủy thác lẫn ngời ủy thác. Các tổ chức tín dụng nếu là
ngời ủy thác sẽ phải cùng với các cơ quan nhận ủy thác khác thực hiện việc
21
đầu t số vốn đó vào các dự án, công trình theo thoả thuận đã ký kết giữa hai
bên. Các cá nhân, công ty, doanh nghiệp cũng thực hiện nghiệp vụ ủy thác vốn
nhng kém phát triển hơn và theo luật thì không phải doanh nghiệp nào cũng đ-
ợc thực hiện nghiệp vụ ủy thác vốn.

Vậy nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn là hành vi theo đó bên đợc ủy thác
tiến hành nhận quyền quản lý và sử dụng vốn ủy thác từ bên ủy thác và sử
dụng vốn này nh là vốn kinh doanh của mình để sinh lời.Việc kinh doanh này
có thể là đầu t hoặc cho vay lại.
1.3.2. Phân loại ủy thác vốn
Có nhiều hình thức để phân loại nguồn vốn ủy thác dựa trên tính chất,
đặc điểm của nguồn vốn đó. Do đặc điểm nghiên cứu trong công ty tài chính
nên ta sẽ đứng ở vị trí bên nhận ủy thác để phân loại vốn.
A. Phân loại vốn ủy thác theo nguồn giao vốn
Trong quan hệ ủy thác có nhiều bên tham gia nhng phải kể đến đầu tiên
là bên ủy thác do đó ta có thể phân loại vốn theo đặc điểm của đơn vị ủy thác.
A.1. Nguồn vốn ủy thác từ cá nhân
Các cá nhân cũng có thể tham gia nghiệp vụ ủy thác vốn tuy số tài sản
của họ ủy thác thờng là không lớn. Các cá nhân thực hiện công việc này nhằm
mục đích giao tài sản cho những ngời có khả năng và kinh nghiệm để chia sẻ
rủi ro, giảm thuế và đầu t sinh lời.
A.2. Nguồn vốn ủy thác từ Chính phủ
Số vốn này đợc chính phủ ủy thác cho tổ chức tín dụng nhằm mục đích
qua các tổ chức này có thể đa vốn đến các đơn vị kinh doanh theo yêu cầu của
mình. Lý do của việc chính phủ ủy thác vốn là nhằm mục đích cung cấp thêm
vốn cho những công ty làm ăn không có hiệu quả nhng lại có thị trờng rộng
lớn, có tính xã hội cao hoặc nằm tại các địa bàn chiến lợc. Do đó, chính phủ sẽ
vẫn để duy trì các công ty này bằng cách giao thêm vốn cho nó. Các loại hình
tổ chức tín dụng hiện nay đang rất phát triển nên chính phủ sẽ thông qua đơn
vị trung gian là tổ chức tín dụng để giao vốn cho các công ty đang gặp khó
khăn. Các tổ chức tín dụng sẽ là bên nhận ủy thác, họ sẽ mang vốn đó để đầu
t vào các công ty đó hay cho các công ty này vay. Nh vậy, các tổ chức tín dụng
22
sẽ thay mặt chính phủ thu tiền lãi từ số vốn đầu t hoặc cho vay đồng thời họ sẽ
đợc chia phần trăm hoa hồng tuỳ theo thoả thuận đợc ký kết giữa hai bên.

A.3. Nguồn vốn ủy thác từ nớc ngoài
Vốn ủy thác từ nớc ngoài ủy thác vào một nớc xuất phát từ nhiều nguồn
khác nhau. Lý do là do sự khác nhau về chế độ chính trị hoặc không có đủ
thông tin để có thể đầu t trực tiếp, các nhà đầu t nớc ngoài sẽ ủy thác vốn cho
các tổ chức tín dụng, đơn vị kinh doanh để họ thực hiện việc kinh doanh, sinh
lợi hộ mình. Ta có thể phân ra thành các loại hình chính.
A.3.1) Bên ủy thác là chính phủ nớc ngoài: Việc ủy thác thực
chất là hình thức chuyển giao vốn có sự đồng ý của chính phủ hai nớc. Chính
phủ nớc nhận ủy thác sẽ chỉ định một tổ chức tín dụng nào đó có uy tín và khả
năng thích hợp với yêu cầu đứng ra làm bên nhận ủy thác. Khoản vốn này sẽ
dợc mang đầu t hoặc cho vay lại. Tuy nhiên với hình thức này, các tổ chức tín
dụng sẽ phải chịu toàn bộ trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình. Do
đó, các tổ chức tín dụng phải xem xét đến các hình thức phòng ngừa rủi ro.
A.3.2) Vốn ủy thác từ công ty, doanh nghiệp kinh doanh, tổ
chức tín dụng nớc ngoài
Các công ty, doanh nghiệp nớc ngoài vì các lý do khác nhau đã chọn
hình thức ủy thác vốn. Các công ty, doanh nghiệp này thờng lựa chọn trớc các
mục tiêu mà mình sẽ cho vay hoặc dầu t rồi mới ủy thác vốn cho các tổ chức
tín dụng thực hiện. Trong hình thức này các ngân hàng thờng đợc lựa chọn vì
lợi thế có các mạng lới chi nhánh rộng khắp cả nớc. Tuy vậy cũng có một số
công ty tài chính cũng đợc chọn làm bên nhận ủy thác vì các công ty tài chính
có khả năng và tầm nhìn xa, trông rộng hoặc do các công ty nớc ngoài muốn
đa vốn vào các tập đoàn mạnh, nắm giữ những ngành trọng điểm thì điều tất
yếu là sẽ đa vốn ủy thác vào các công ty tài chính của các tập đoàn này.
A.3.3) Vốn từ các tổ chức tiền tệ thế giới
Mục đích ủy thác vốn của các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng giống mục
đích của các chính phủ nớc ngoài. Tuy nhiên, ben nhận ủy thác cũng có thể
không phải là các ngân hàng mà có thể là các công ty tài chính. Việc ủy thác
từ các tổ chức tiền tệ thế giới không chỉ nhằm mục đích sinh lợi riêng mà còn
23

nhằm mục đích sinh lợi riêng mà còn nhằm mục đích phát triển sản xuất, tiêu
dùng.
A.4. Nguồn vốn ủy thác từ các công ty, tập đoàn, tổ chức tín dụng
trong nớc:
Nguồn này xuất phát từ các tập đoàn đã có công ty tài chính là công ty
con của nó, thờng ủy thác cho công ty tài chính làm đầu mối để từ công ty này
vốn sẽ đợc điều phối tới các công ty con trong tập đoàn, tổng công ty. Đây
cũng là hình thức hữu hiệu để các tổng công ty có thể đầu t cho các công ty
thành viên qua đầu mối công ty tài chính.
Các công ty trong nớc thực hiện ủy thác vốn với mục đích sinh lời từ các
tài sản hay nguồn vốn nhàn rỗi cha cần sử dụng. Trong trờng hợp chọn công ty
tài chính thì các công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn so với đem gửi ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng cũng có thể là ngời ủy thác nhng thờng chỉ có ngân
hàng hay thực hiện nghiệp vụ này. Các ngân hàng thu đợc một số tiền lớn từ
các tài khoản tiền gửi và dùng nó để ủy thác đầu t hoặc cho vay với đơn vị
khác để sinh lời.
B. Phân loại vốn theo tính lỏng của tài sản
Về thực chất đây là cách phân loại theo tính thanh khoản của loại tài sản
ủy thác.
B.1. Vốn ủy thác bằng tiền mặt
Số vốn này đợc ủy thác cho tổ chức tín dụng bằng hình thức tiền mặt để
tổ chức tín dụng có thể ngay lập tức có thể đa vốn vào đầu t kinh doanh hoặc
cho vay.
B.2. Vốn ủy thác không dùng tiền mặt
Đó là các loại chứng khoán công ty, thơng phiếu, trái phiếu chính phủ,
công trái, tín phiếu kho bạc... Vốn ở hình thức này là kém lỏng hơn tiền mặt.
Tuy nhiên, vẫn có khả năng chuyển đổi thành tiền. Thực chất của việc giao
vốn này là để cho tổ chức tín dụng có thể dùng nó để kinh doanh, sinh lời trực
tiếp trên thị trờng chứng khoán.
C. Phân loại vốn theo hình thức sử dụng vốn

24
Với nhiều hợp đồng ủy thác thì mục đích sử dụng vốn sẽ đợc hai bên ủy
thác và bên nhận ủy thác thoả thuận, quyết định.
C.1. Vốn ủy thác đầu t
Số vốn này đợc bên nhận ủy thác sử dụng để đầu t vào các kế hoạch phát
triển cụ thể nhằm mục tiêu lợi nhuận dới sự cho phép của bên ủy thác.
C.2. Vốn ủy thác cho vay
Trong hình thức này, ngời nhận ủy thác có thể mang số vốn này cho các
tổ chức, doanh nghiệp khác vay lại với hai hình thức.

C.2.1) Vốn ủy thác cho vay
Vốn ủy thác cho vay theo chơng trình lớn (thờng là của các chính phủ, n-
ớc ngoài, các tổ chức quốc tế ). Với hình thức vốn này, bên nhận ủy thác phải
chịu toàn bộ rủi ro và trách nhiệm do đó phải thực hiện đầy đủ các giới hạn
vay, các quy định về an toàn vay..
C.2.2) Vốn ủy thác cho vay với một khách hàng cụ thể (thờng
là nhỏ). Đối với trờng hợp này, bên ủy thác cho vay sẽ chịu toàn bộ rủi ro đối
với khách hàng đợc chỉ định cho vay vốn bên nhận ủy thác không chịu trách
nhiệm vè các rủi ro cho vay với khách hàng và chỉ hởng phí quản lý theo hợp
đồng.
D. Phân loại theo quyền quyết định mục đích sử dụng vốn
Với phơng pháp này, chúng ta sẽ phân loại vốn theo quyền chỉ định sử
dụng vốn vào mục đích nào sẽ phụ thuộc bên ủy thác hay bên nhận ủy thác.
D.1. Quyền quyết định thuộc bên ủy thác
Quyền quyết định mục đích sử dụng vốn thuộc bên ủy thác trong một số
trờng hợp, các nhà ủy thác đều xem xét mục đích của mình sẽ làm gì và làm
nh thế nào rồi mới giao vốn cho bên thụ thác thực hiện hộ mình.
D.2. Trong một số trờng hợp khác
Trong một số trờng hợp khác quyền quyết định thuộc bên nhận ủy thác.
Trong trờng hợp này, bên ủy thác sẽ giao,mọi trách nhiệm cho bên nhận ủy

thác, bên nhận ủy thác sẽ quyết định toàn bộ việc sử dụng vốn nh thế nào cho
hợp lý.
25

×