Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

skkn một số GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH và bồi DƯỠNG kỹ NĂNG nói CHO học SINH lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 30 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 2
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Trước thời đại mới, Đảng quyết định “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện mục tiêu này, phát huy đến mức cao nhất
nguồn lực con người được coi là nhân tố quyết định, trong đó Giáo dục- Đào tạo là
đòn xeo quan trọng nhất”.
Tất cả các quốc gia trên thế giới, muốn tồn tại và phát triển bền vững đều phải
quan tâm, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục Thiếu niên, Nhi đồng. Chúng ta giành cho trẻ
những điều kiện tốt nhất để phát triển thế chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức. Vì thế,
trong những năm qua, giáo dục Tiểu học luôn được quan tâm đầu tư.
Giáo dục có tầm quan trong như thế. Nhưng để đạt được mục tiêu đó khơng
phải nói là làm ngay trong một sớm một chiều mà cần trải quá quá trình giáo dục,
rèn luyện, tiếp nhận, chắt lọc những tinh hoa giáo dục… của người dạy và người
học. Như thế, với từng mơn học, có các mục tiêu cụ thể. Mục tiêu của mơn Tiếng
Việt là:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (Nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường của lứa tuổi. Thông qua việc dạy
và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết
sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngồi.
Bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người “Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”. Mục tiêu cụ thể của lớp 2 về các kiến thức và kĩ năng: Nghe, nói, đọc,
viết thì kĩ năng nói là kĩ năng thứ hai, nhiệm vụ vơ cùng quan trọng. Vì khơng
những học sinh tiếp thu, đối thoại, giao tiếp về kiến thức bài học. Mà qua đó các em


cịn biết áp dụng vào thực tế cuộc sống như chào hỏi, giao tiếp với thầy cơ, người
lớn tuổi, bạn bè,… Biết nói thành câu rõ ràng, mạch lạc và sau đó cao hơn là đúng
ngữ điệu, truyền cảm, giao tiếp cuốn hút người nghe. Trẻ có kĩ năng nói tốt, tự tin
sẽ thu hút và dễ truyền thiện cảm với người khác. Đặc biệt trong thời đại công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Nội dung chương trình của đổi mới giáo dục Tiểu học: “Kết thúc giai đoạn giáo
dục tiểu học học sinh có thể sử dụng thành thạo tiếng Việt để giao tiếp cuộc sống
1


hằng ngày và học tập các mơn học khác, có thể đọc, viết, nói, nghe. Đồng thời qua
mơn học học sinh được bồi dưỡng về tâm hồn và nhân cách”.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông mới là: “Giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc…”.
Nhưng để hình thành kĩ năng nói cho học sinh thì khơng phải một sớm một
chiều mà cả một quá trình lâu dài. Giáo viên giúp các em thấy rằng: “Mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”, phải gây được hứng thú khi đến trường, lôi cuốn các em
tham gia vào các hoạt động học tập. Người thầy, làm sao truyền cho các em hứng
thú, kĩ năng giao tiếp, Nếu chỉ dạy học và nhồi nhét các kiến thức thì việc học tập
của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ khơng cao như
Horace Mann đã nói:“Người thầy cố gắng dạy nhưng khơng truyền cảm hứng để
học trị muốn học là nện búa vào tấm sắt lạnh”.
Đặc biệt ngoài các kiến thức các em cịn có kĩ năng, kinh nghiệm sống. Đó là
năng lực sản sinh lời nói tốt thì trẻ sẽ tự tin khi giao tiếp. Ấy là một phần rất quan
trọng, là hành trang sau này để các con bước vào đời đầy tự tin.
Với học sinh lớp hai trường tơi thì giao tiếp của trẻ cịn nhút nhát, chưa tự tin,

vốn tiếng Việt còn hạn chế, khi giao tiếp cịn bí từ, ngắc ngứ, nói hoặc trả lời trống
khơng, khi kể chuyện hoặc trả lời cịn bị động. Một số em phát âm còn sai dấu
thanh, chưa lưu loát, thiếu biểu cảm. Đến trường là bước đầu bước vào môi trường
giao tiếp ngôn ngữ mới (Ở nhà các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ Ê- đê). Vì thế,
làm sao để trẻ hứng thú, lĩnh hội tốt kiến thức, sản sinh lời nói hợp lí, cởi mở, chủ
động, mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp.
Là một giáo viên lâu năm, nhận thức các vấn đề đó trong q trình giảng dạy.
Tơi đã mạnh dạn chọn đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ BỒI
DƯỠNG KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Có người nói con cái là hình ảnh của cha mẹ, học sinh là hình ảnh của giáo
viên“Con nhà cơng khơng giống lơng thì cũng giống cánh”. Giáo viên là người gần
gũi với học sinh nhiều nhất. Do đó, mỗi giáo viên cần kiên trì, tận tình, thân mật,
chu đáo, có uy tín, phối hợp nhiều phương pháp, có kế hoạch cụ thể, có nghệ thuật,
cái chính là yêu nghề.

2


Qua đề tài này, tơi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học để
tìm ra giải pháp giúp giáo viên hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói tốt cho học sinh,
chất lượng dạy- học đạt hiệu quả ngày một cao hơn.
Từ đó, học sinh tự tin, mạnh dạn hơn, làm chủ tốt lời nói của mình trong cuộc
sống, như Lê Nin đã nói “Ngơn ngữ là phương tiên quan trọng nhất của con người”
Từ đó, học sinh ngoan, diễn đạt ngôn ngữ linh hoạt, suy nghĩ độc lập, kĩ năng nói
tốt, tự tin, mạnh dạn, chững chạc, làm chủ được lời nói, thuyết phục được người đối
thoại, bộc lộ được “Giá trị bên trong” của chính mình. Đây là hành trang hình thành sự
phát triển nhân cách của các em sau này.
Hình thành kỹ năng sống cơ bản nhất để các em hòa nhập tốt trong mơi trường giáo
dục Nhà trường- gia đình- xã hội, theo kịp thời đại cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa, thời

đại công nghệ thông tin hiện nay.
Để làm được điều này thì khơng phải ngày một ngày hai mà“Mưa dầm thấm lâu”.
Giáo viên bên cạnh dạy chữ, hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói cho các em. Cịn
khơi nguồn cảm xúc, trí tuệ, để học sinh hứng thú với mơn học nói chung, mơn tiếng
Việt nói riêng và khắc phục những hạn chế trong quá trình dạy- học.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Do thời gian có hạn nên trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ nghiên cứu: “Một số
giải pháp hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 2 của học sinh lớp
2B1 (Năm học 2019- 2020), trường Tiểu học Ea Truôl- Ea Hồ- Krông Năng- Đăk Lăk.
4. Giới hạn của đề tài.
Đề tài này, tơi chỉ nghiên cứu trong giới hạn việc hình thành và bồi dưỡng kĩ
năng nói cho học sinh. Thơng qua các phương pháp, kinh nghiệm giúp vấn đề nghiên
cứu đạt hiệu quả cao.
Tạo cho các em khả năng tự học, tự lập, sáng tạo, hứng thú. Trẻ biết nói rõ ràng,
mạch lạc, dùng từ, câu hay và giao tiếp linh hoạt, tự tin, mạnh dạn, độc lập trong học
tập cũng như trong cuộc sống cho học sinh lớp 2B1, trường Tiểu học Ea Truôl- Ea HồKrông Năng- Đăk Lăk. Từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng dạy
học.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Muốn hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cần một q trình lâu dài, phải vận
dụng linh hoạt nhiều phương pháp thì mới đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện có kết quả đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
Bước đầu nghiên cứu đề tài, tôi chọn Phương pháp đọc sách nghiên cứu tài liệu
với phương pháp này, kết hợp với kiến thức và hiểu biết của mình đã hỗ trợ tơi có được
một số kiến thức nhất định nghiên cứu ra sáng kiến này.
3


Thứ hai, để có số liệu, giới hạn, đối tượng nghiên cứu, tôi chọn Phương pháp lựa
chọn, điều tra với phương pháp này, tơi có thể lựa chọn cho mình sản phẩm nghiên

cứu.
Tiếp theo, để có kết quả khảo nghiệm, tôi chọn Phương pháp hỏi- đáp với phương
pháp này, bước đầu tơi đã phần nào hiểu sản phẩm và có những số liệu nhất định.
Để có những số liệu cần thiết, chính xác về sản phẩm sáng kiến, tơi chọn Phương
pháp mơ tả, phân tích với phương pháp này, tơi có thể phân tích cụ thể sản phẩm.
Khi có số liệu, tôi chọn Phương pháp so sánh và tổng hợp. Với phương pháp này,
tơi có thể so sánh, đối chiếu, tổng hợp sản phẩm khi chưa áp dụng và sau khi đã áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lí luận.
Trường Tiểu học Ea Trl thuộc xã Ea Hồ nằm ở địa bàn Buôn Wik, 100 % là con
em đồng bào Ê- đê. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu khẳng định cái tơi của mình. Đây là
thời điểm hết sức quan trọng hình thành nên tính cách của trẻ. Vì vậy, cha mẹ và giáo
viên, ngoài việc truyền thụ kiến thức cho trẻ, cần trang bị cho học sinh các kĩ năng
sống. Trong đó có kĩ năng dùng từ, câu và sự chủ động, khả năng tự học, sự tự tin,
mạnh dạn nói trước người khác.
Quan điểm biên soạn của sách Tiếng Việt 2 là lấy nguyên tắc giao tiếp làm định
hướng cơ bản. (Sách Tiếng Việt 2 thực hiện mục tiêu tích hợp thơng qua chủ điểm học
tập. Sách giáo khoa dẫn dắt học sinh dần đi vào các lĩnh vực đời sống hệ thống. Qua đó
tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về Nhà trường, gia đình, xã hội. Đồng thời
mở ra cánh cửa cho các em bước vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn
của mình). Qua đó dạy các em biết các nghi thức, lời nói, kĩ năng làm việc và giao tiếp.
Vì thế cần kết hợp về nội dung và phương pháp dạy học, kĩ năng nói, kĩ năng sử dụng
tiếng Việt thơng qua các mơn học: Mơn Tập đọc (Nghe và nói), Luyện từ và câu (kĩ
năng nói, viết), Kể chuyện (Kĩ năng nói, nghe và đọc), Tập làm văn (4 kĩ năng nghe,
nói, viết, đọc).
Nhưng các em lớp 2 nói chung, đặc biệt là trường tơi nói riêng. Trong các tiết học
đa số không đủ mạnh dạn để trả lời nội dung kiến thức yêu cầu, chưa biết trình bày ý
kiến cá nhân của mình về bài học, cịn ngại phát biểu xây dựng bài, Khi giao tiếp với
người đối diện các em sử dụng vốn từ còn hạn chế, chưa lưu lốt, chưa linh hoạt, nói

trống khơng, nói khơng đủ ý, câu, nội dung định diễn đạt. Trẻ bị động, chưa đủ tự tin,
tránh giao tiếp đến mức hạn chế nhất. Người dạy môn tiếng Việt chưa thật sự chú trọng
kĩ năng nói, đang chú trọng các kĩ năng khác như kĩ năng đọc và viết.
Khi dạy chưa giành nhiều thời gian, khai thác bài chưa sâu, chưa “thổi hồn” vào kĩ
năng này. Giáo viên cần có thời gian rèn luyện các kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng
nói. Khi đó trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn, chủ động, linh hoạt và hứng thú hơn trong từng tiết
4


học, bài học, tình huống trong cuộc sống. Học sinh khả năng có nhiều cơ hội trong học
tập cũng như trong đời sống bây giờ và sau này.
Nhưng để đạt được mục tiêu đó, đâu phải một sớm một chiều mà là cả q trình
lâu dài. Muốn có kết quả tốt thì cần có sự tìm tịi học hỏi, trao dồi, rèn luyện, trong
từng tiết học, môn học. Và giáo viên là người hướng dẫn, khơi gợi, dẫn dắt và nhiệt
tình, truyền tình yêu, sự hứng thú thực sự chứ đâu phải bắt các em u thích ngay
được. Vì thế có nhà triết gia đã nói: “Dắt ngựa đến sơng nhưng khơng thể bắt nó uống
nước được”.
Người giáo viên là một kĩ sư tâm hồn, người “viết” lên những trang giấy trắng đầu tiên,
“cấy” vào tâm hồn trẻ những điều tốt đẹp. Quá trình dạy học là cả một nghệ thuật. Để
đạt được điều đó thì địi hỏi người thầy không ngừng học hỏi, rèn luyện nâng cao
chuyên môn, luôn có sự sáng tạo, cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục
đích nâng cao chất lượng dạy học.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường Tiểu học EaTruôl và trao đổi với đồng nghiệp
tơi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau:
* Thuận lợi:
Trường Tiểu học EaTruôl nằm trên địa bàn buôn Wit- xã Ea Hồ, cách trung tâm thị
trấn Krông Năng gần 7 km. Được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp ủy, các ban ngành
và sự chỉ đạo của Ban giám hiệu. Hiện nay xây dựng trường học khang trang, cơ sở vật
chất tương đối đầy đủ.

Với sự chỉ đạo triển khai kịp thời của Sở Giáo dục và Đào tạo Đắk Lăk, Phòng
Giáo dục và Đào tạo Krông Năng về nhiệm vụ năm học, các cuộc thi trong năm, nhất
là có cuộc thi sáng kiến kinh nghiệm, giáo viên giỏi,… từ cấp trường đến cấp tỉnh.
Trong các cuộc thi đó giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao kiến thức
chuyên môn.
Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, quan tâm đến giáo viên và việc học của các
em.
Bên cạch đó, đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ, đoàn kết, năng nổ, chịu khó, có
trách nhiệm cao, có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn. Bản thân luôn được sự ủng hộ
giúp đỡ của đồng nghiệp, nhất là anh chị em trong khối.
Một số phụ huynh quan tâm đến con em mình. Học sinh ngoan ngỗn, đồn kết, lễ
phép có nề nếp trong học tập.
Bản thân gần 20 năm làm dạy học cùng với học hỏi đồng nghiệp và vốn kiến thức,
kinh nghệm trong nghề nhiều năm.
* Khó khăn:

5


Học sinh trường tôi 100% là đồng bào dân tộc tại chỗ (Ê- đê). Học sinh nói tiếng
Việt chưa lưu lốt, rõ ràng; vốn từ các em cịn hạn chế, tiếp xúc ít với tiếng phổ thơng,
phương tiện thơng tin đại chúng tiếp cận chưa nhiều. Nên việc tiếp thu bài và đặc biệt
là phần luyện nói các mơn của các em còn lúng túng và hết sức hạn chế.
Khi học và giao tiếp các em chưa tự tin, chưa mạnh dạn, còn rụt rè, ngượng ngùng,
nhút nhát, chưa chủ động, chưa tự tin, chưa biết dùng từ, câu và cịn nói trống khơng
trong giao tiếp. Vì thế, chưa tạo thiện cảm với người đối diện, kết quả học tập và kĩ
năng nói đạt kết quả chưa như mong muốn.
Đồng thời, phụ huynh ở đây đa số làm nông nghiệp, kinh tế cịn nghèo nàn. Có gia
đình bố mẹ đi từ sáng đến tối, thậm chí có gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, phần đông
chưa thực sự quan tâm đến con cái. Do nhận thức chưa đầy đủ về cơng tác giáo dục.

Gia đình chưa quan tâm đến việc học và nhu cầu cơ bản của con em mình, cịn phó
thác cho nhà trường. Một số phụ huynh chỉ cần cho con em mình đến trường đã là tốt
đối với họ. Họ không biết được đến trường không chỉ học kiến thức của các môn học
và các kĩ năng nghe, đọc, viết của mơn tiếng Việt cịn kĩ năng nói cũng vơ cùng quan
trọng.
Bên cạnh đó, tranh ảnh của phần luyện nói chưa nhiều. Thầy dạy phần này còn
nhanh, chưa chuyên sâu, chưa truyền cho trò sự hứng thú. Dẫn đến chưa rèn và bồi
dưỡng được các kĩ năng luyện nói cho học sinh.
Đối với học sinh lớp 2 trường tôi các kiến thức hiện nay không phải là đơn giản, dễ
dàng lĩnh hội nên một số em thấy “học khó”. Do đó, việc học của trẻ đạt kết quả chưa
cao.
* Từ những thuận lợi và khó khăn trên. Muốn biết kỹ năng nói của học sinh như
thế nào. Bước đầu tôi đã tiến hành khảo sát 20 học sinh lớp 2B1 (Năm học 20192020). Bằng cách trả lời một số câu hỏi trong môn Tiếng Việt và một số câu hỏi trong
giao tiếp hằng ngày qua 2 mẫu khảo sát sau:
Mẫu 1: Biết được các em trả lời hay (đủ, đúng và sáng tạo), đúng, đủ (nội dung câu
hỏi, đủ chủ ngữ, vị ngữ), lý do khác (chưa trả lời được câu hỏi hoặc chưa hợp tác, hoặc
nói trống khơng).
Mẫu 2: Đánh giá học sinh 3 mức. Mức 1: mạnh dạn, tự tin; Mức 2: cơ bản (mức độ
trung bình, chưa thật sự khéo léo); Mức 3: rụt rè, nhút nhát.
Ví dụ: Bài Quả tim khỉ
Câu 1: Khỉ đối xử với Cá Sấu như thế nào?
- Học sinh 1: Hái quả cho Cá Sấu ăn.
- Học sinh 2: Khỉ mời Cá Sấu kết bạn và hằng ngày hái quả cho Cá Sấu ăn../…
Câu 2: Khỉ Nghĩ ra mẹo gì để thốt nạn?
6


- Học sinh 1: Bảo Cá Sấu chở về nhà lấy quả tim.
- Học sinh 2: Khỉ bảo Cá Sấu chở quay lại bờ lấy quả tim đang để ở nhà./…
Ví dụ: Giáo viên hỏi một số câu hỏi trong cuộc sống, học sinh trả lời.

Câu 1: Buổi sáng em thường đi học với ai?
- Học sinh 1: Bạn Y Thuyên.
- Học sinh 2: Em thường đi học với chị em./…
Câu 2: Ở nhà em giúp gia đình những việc gì ?
- Học sinh 1: Quét nhà.
- Học sinh 2: Em hay giúp mẹ rửa chén, trông em./…
Sau đây là bảng khảo sát một số câu hỏi điển hình:
Lớp

Tổng số

2B1

20

Lớp

Tổng số

2B1

20

Nói hay
Số
Tỉ lệ %
lượng
1
5


Nói đúng
Số
Tỉ lệ%
lượng
8
40

Lý do khác
Số
Tỉ lệ %
lượng
11
55

Mạnh dạn, tự tin
Số
Tỉ lệ %
lượng
2
10

Cơ bản
Số
Tỉ lệ%
lượng
10
50

Rụt rè, nhút nhát
Số

Tỉ lệ %
lượng
8
40

Qua hai mẫu khảo sát trên tôi xin đưa ra một số nhận xét sau:
Mẫu 1: Có vài em mạnh dạn, tự tin và trả lời hay. Một số trả lời đúng, cịn đa số trả
lời trống khơng, chưa đủ câu, đủ ý hoặc chưa trả lời được.
Mẫu 2: Chỉ vài em mạnh dạn, tự tin. Còn đa số các em trả lời cơ bản các nội dung.
Còn lại trẻ đang rủt rè, nhút nhát.
Tơi thiết nghĩ với lịng yêu nghề, mến trẻ “ Tất cả vì học sinh thân yêu”. Chúng ta
sẽ truyền cho các em hứng thú mơn tiếng Việt, u thích luyện nói, giảm bớt căng
thẳng, nhàm chán, tự tin hơn trong mắt thầy cô, bạn bè, tự tin hơn trong giao tiếp. Học
sinh nắm được lượng kiến thức, việc học tập nhất định đạt kết quả cao.
Một khi trẻ đã u thích mơn học thì các em sẽ đạt kết quả cao trong học tập. Đó là
một thành cơng lớn trong cuộc đời mỗi nhà giáo của chúng ta. Một thành cơng lớn nữa
đó là tạo ra môi trường học tập, hứng thú, xây dựng“Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”. Vì mỗi lớp học thân thiện, học sinh tích cực là một viên gạch nền móng
vững chắc cho một ngơi trường thân thiện.

7


Trước tình hình thực tế, là một giáo viên chủ nhiệm và dạy lớp 2. Dù đã cố gắng
tìm tịi, học hỏi nhưng kết quả học tập và kĩ năng nói của các em chưa như mong đợi.
Tơi cịn trăn trở, băn khoăn làm sao để hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói cho học
sinh để chất lượng mơn tiếng Việt ngày một cao. Vì thế, giáo viên là người truyền thụ
kiến thức vừa là nhà tâm lí giỏi, người bạn của học sinh. Điều này, không hề dễ dàng
mà đó là cả một nghệ thuật.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.

a. Mục tiêu của giải pháp.
Xã hội có phồn vinh, đất nước có giàu mạnh trước hết cần những nhân tài. Trẻ em
là mầm ươm tương lai của đất nước. Nhân tài không tự nhiên mà tồn tại và phát triển
một cách hồn thiện mà khơng qua trường lớp. Chính vì lẽ đó, đào tạo trẻ có kĩ năng
nói tốt, kiến thức vững chắc, lâu dài thì cấp một chính là nền móng để ni dưỡng và
phát triển nhân cách, tri thức, hoàn thiện cho một tương lai tươi sáng phía trước.
Nhưng các biện pháp và các bước tiến hành ra sao để học sinh đạt kết quả tốt kĩ
năng nói và mạnh dạn, tự tin trong các tiết học, môn học, giao tiếp,… Đặc biệt làm sao
cho các em hứng thú học môn Tiếng Việt nói riêng và các mơn học nói chung.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế.
Tơi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói đó là:
* Đối với giáo viên:
- Khi đến trường thì giáo viên đóng một vai trị hết sức quan trọng. Trước hết phải
tạo tâm thế tiếp nhận ban đầu đối với trẻ. Một tiết học có hay, các kiến thức có đơn
giản đến mấy cũng khơng thể bắt đầu bằng sự nặng nề của giáo viên và của cả lớp học.
Lời giảng, cách tổ chức, phương pháp truyền thụ của giáo viên là cầu nối quan trọng
ban đầu khơi gợi cho trẻ hứng thú, gợi cảm xúc cho các em. Với học sinh, giáo viên
thật sự là một thần tượng. “Sự gương mẫu của người thầy là tia sáng mặt trời thuận
lợi nhất đối với sự phát triển tâm hồn non trẻ khơng có gì thay thế được”. – Usinxki.
Vì thế, từ cách đi đứng, ăn mặc, hành động, đặc biệt là giọng nói, cách tổ chức, hướng
dẫn, cách truyền thụ bài của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiếp thu bài
của các em.
Với giáo viên nhìn những đơi mắt trẻ thơ, tâm hồn non nớt làm nguồn cảm hứng để
dệt thành những bài dạy, những câu hỏi hay, phù hợp với nội dung từng bài học, từng
đối tượng học sinh. Chuẩn bị bài được như thế, các em tăng thêm phần hứng thú, yêu
thích tiết học, hiểu bài nhanh, ghi nhớ, khắc sâu kiến thức vừa học.
Ngồi ra để nâng cao chất lượng mơn Tiếng Việt và cụ thể là hình thành và bồi
dưỡng kĩ năng nói của học sinh lớp 2. Muốn các hoạt động giữa thầy và trị diễn ra nhẹ
nhàng, sơi nổi,; trò nhớ nhanh, khắc sâu kiến thức, tập trung, hứng thú với tiết học,

8


hứng thú đến trường thì giáo viên cần nhẹ nhàng và cần chuẩn bị bài kĩ, nắm vững nội
dung kiến thức tiết dạy, sử dụng ngôn từ, tranh ảnh, thiết bị và sử dụng linh hoạt các
phương pháp phù hợp để hướng dẫn, điều khiển hoạt động dạy học để chất lượng ngày
một tốt hơn.
Ví dụ: Tiết Tập đọc:
Bài: Chuyện bốn mùa. (Phần tìm hiểu bài).
Hoạt động cả lớp. Giáo viên cho học sinh đọc thầm từng đoạn, trả lời câu hỏi.
Câu 1: Bốn nàng tiên trong bài tượng trưng cho những mùa nào trong năm?
Học sinh trả lời: Xuân, hạ, thu, đông.
- Giáo viên hướng dẫn, uốn nắn ngay cho học sinh trả lời đầy đủ chủ ngữ- vị ngữ:
Bốn nàng tiên trong bài tượng trưng cho bốn mùa trong năm đó là: Mùa xuân,
mùa hạ, mùa thu, mùa đơng.
u cầu các nhóm quan sát tranh minh họa trong SGK, tìm các nàng tiên Xn,
Hạ, Thu, Đơng và nói rõ đặc điểm của từng người.
a. Hoạt động nhóm cặp đơi: Chia nhóm, giao thời gian, nhiệm vụ. Các nhóm thảo
luận, từng nhóm hỏi đáp, các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
Câu 2: Em thích mùa nào trong năm? Vì sao?
(Các nhóm thảo luận, nói cho bạn trong nhóm nghe sở thích của mình)
Học sinh 1: Mùa đơng, có tuyết.
Học sinh 2: Mùa hạ, được nghỉ học...).
- Nhóm khác nhận xét: Bạn nói chưa đầy đủ như câu hỏi nêu. Rồi thực hiện hỏiđáp:
+ Học sinh 3: Bạn thích mùa nào trong năm?
Học sinh 4: Trong năm mình thích mùa xn.
+ Học sinh 3: Vì sao bạn lại thích mùa xn?
Học sinh 4: Mình thích mùa xn vì Mùa xn có hoa đào, hoa mai,…rất
đẹp; thời tiết ấm áp; đón Tết có bánh chưng, có tiền lì xì, có quần áo đẹp và
được đi chơi với bố mẹ rất vui.

Sau đó giới thiệu thêm một số bức tranh ngồi để học sinh biết cụ thể về các mùa.

9


Mùa xn

Mùa thu

Mùa hạ

Mùa đơng

b. Hoạt động cá nhân, nhóm:
Ví dụ: Tiết Kể chuyện:
Bài: Câu chuyện bó đũa.
- Kể từng đoạn theo tranh:
Giáo viên (Mở máy chiếu) giới thiệu các tranh. Học sinh quan sát 5 tranh.

10


Ngày xưa...

Một hôm....

Người cha bèn...

Các người con...


Người cha bảo...

- (Giáo viên gọi 1 học sinh hồn thành tốt tóm tắt qua nội dung từng tranh).
Tranh 1: Vợ chống người anh và vợ chồng người em cãi nhau.
Tranh 2: Ông cụ lấy câu chuyện bó đũa ra để dạy các con.
Tranh 3: Các người con ra sức bẻ bó đũa mà khơng được.
Tranh 4: Ơng cụ bẻ từng chiếc rất dễ dàng.
Tranh 5: Những người con đã hiểu ra lời khuyên của cha.
+ Tranh 1: (HS 1 kể): Ơng cụ có 2 người con, hay cãi nhau, ông cụ buồn.
Hoạt động cá nhân:
Giáo viên hướng dẫn dàn ý (dưới dạng câu hỏi) trước khi kể. Gọi vài học sinh trả
lời, Khi học sinh trả lời chưa đúng, chưa đủ, giáo viên chỉnh sửa, hướng dẫn để học
sinh trả lời đầy đủ, đúng, hay và cho học sinh nhắc lại. Sau đó học sinh nhớ và kể theo
mạch cảm xúc của mình:
Ơng cụ có mấy người con (Hai- Giáo viên chỉnh và cho học sinh nhắc lại: ơng cụ có
hai người con),
Lúc nhỏ các anh em như thế nào với nhau? (Yêu thương- Giáo viên chỉnh và cho
học sinh nhắc lại:Lúc còn nhỏ hai anh em rất yêu thương nhau).
Khi lớn lên họ như thế nào với nhau? ( Hay cãi nhau- Giáo viên chỉnh và cho học
sinh nhắc lại: Khi lớn lên anh có vợ, em có chồng, họ thường hay cãi nhau).
11


Thấy các con hay cãi nhau ông bố như thế nào? (Buồn- Giáo viên chỉnh và cho học
sinh nhắc lại: Thấy các con khơng hịa thuận người cha rất buồn).
Học sinh kể: Ngày xưa, có một ơng cụ có hai người con, một trai, một gái. Còn nhỏ
rất yêu thương nhau. Nhưng khi lớn lên, anh có vợ, em có chồng, họ thường hay cãi
nhau. Thấy các con khơng hịa thuận, người cha rất buồn.
Khi học sinh luyện nói trong khi kể, giáo viên không nên ngắt lời thô bạo, cắt
ngang mạch cảm xúc của các em. Có thể trị cịn lỡ qn một vài chi tiết, giáo viên có

thể gợi ý hoặc nhắc một cách nhẹ nhàng để các em nhớ lại đoạn kể.
Hoạt động nhóm.
Giáo viên chia nhóm, giao thời gian, nhiệm vụ.
+ Học sinh quan sát tranh, đọc thầm từ ngữ gợi ý dưới các tranh, thảo luận nhóm.
Khi hết thời gian giáo viên quy định. Lần lượt kể từng đoạn trước nhóm. Hết một lượt,
quay lại từ đoạn 1, nhưng thay người kể. Các bạn trong nhóm hỗ trợ nhau. Giáo viên
quan sát, gợi ý các nhóm làm việc.
+ Kể chuyện trước lớp: Giáo viên gọi một số nhóm thi kể trước lớp. Gọi cả các bạn
hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành để có hướng gợi ý, hỗ trợ các nhóm đối
tượng cho phù hợp theo khả năng.
Sau khi học sinh kể xong, cả lớp cùng giáo viên nhận xét, động viên, khuyến khích
để các em luyện nói một cách hồn nhiên, nhẹ nhàng.
Trong giờ kể chuyện, học sinh là người chủ đạo. Còn giáo viên là người điều khiển,
hướng dẫn.
- Bên cạnh tổ chức các phương pháp dạy học. Giáo viên cần đa dạng hóa hoạt động
học tập với các hình thức dạy học sinh động như: Đóng vai, hoặc tạo ra các trò chơi
hấp dẫn, cuốn hút, phù hợp với nội dung từng tiết học, mơn học.
c. Đóng vai, dựng lại chuyện.
Giáo viên mời một số hoc sinh hoàn thành tốt lên và phát đồ theo từng nhân vật
để nhập vai (Lượt 1). Nhóm tiêu biểu này đóng vai, cả lớp quan sát, nhận xét. Sau khi
học sinh nhóm này đóng vai xong.

12


Học sinh đóng vai trong phân mơn Kể chuyện
Giáo viên nhận xét, sửa lời, hướng dẫn học sinh kể có chủ ngữ, vị ngữ, có thể thêm
lời để nhân vật thêm sinh động, để các nhóm sau nhập vai tốt hơn.
Khi kể đoạn 1: Có thể cãi nhau. “Chú nhốt gà đi chứ, sao để gà phá nát vườn rau
nhà anh thế này? ”. (Giọng lớn tiếng, gay gắt, khó chịu…)

- “Thế hôm qua anh cũng để đàn heo phá nát vườn khoai bên nhà tơi thì sao?”. (Giọng
bực tức, thái độ bực,…)
Ông cụ: “Thật khổ, anh em một nhà mà chằng biết thương yêu nhau gì
cả.”(Giọng trầm xuống, thở dài, buồn bã…)
Mỗi người con khi bẻ khơng được bó đũa có thể nói: “Ái chà, khó bẻ quá”, “Làm sao
bẻ được cả bó đũa nhỉ ? ”,...
Khi kể đoạn 2: Mỗi người con khi bẻ khơng được có thể nói thêm lời sau các câu
của nhân vật mình đóng.
“ Thím đưa tơi bẻ trước. Úi chà! Sao khó bẻ thế?”.(xuýt xoa)
Bác cứ chờ xem tôi bẻ nhé. (và dùng lực, cố sức bẻ). Ôi. Bẻ làm sao được cả bó
đũa nhỉ….
Các lượt khác gọi các nhóm lên, các nhóm tự phân các vai (Người dẫn chuyện, ông
cụ, bốn người con).
Học sinh 1: (Đóng vai ơng cụ, lời nói của ông cụ).
4 học sinh: ( 4 học sinh đóng vai 4 người con cùng lời nói của các con).
1 học sinh: ( Đóng người dẫn chuyện. Những câu khác do người dẫn chuyện kể).
(Giáo viên gợi ý cho các nhân vật đóng vai của mình. Nếu được khuyến khích học
sinh có thể thêm lời, điệu bộ, nét mặt, cử chỉ, giọng nói thích hợp.)
Sau mỗi lần một nhóm đóng vai kể, cả lớp nêu nhận xét về các mặt:nội dung, lời
nói(ý, trình tự), cách diễn đạt( từ, câu, sáng tạo), cách thể hiện (đóng vai tự nhiên với
điệu bộ, nét mặt, giọng nói thích hợp).

13


Cuối giờ, cả lớp và giáo viên nhận xét, bình chọn cá nhân, nhóm kể chuyện hay
nhất.
Mục đích rèn và bồi dưỡng nói qua giờ kể chuyện là giúp học sinh tạo vốn từ, lời
nói qua đây mà phát triển dần lên. Học sinh nhớ lâu, khó quên lời nhân vật, bài học. Và
mạnh dạn, tự tin, độc lập, hứng thú hơn khi học, khi diễn. Các em cảm thấy hồn nhiên,

vui vẻ, mình cũng quan trọng, được khen thấy phấn khởi. Khi các em tiếp xúc gần gũi,
kết nối tình cảm với cơ giáo, bạn bè sẽ học được nhiều bài học bổ ích trong cuộc sống
qua mơn Kể chuyện. Vì dạy học khơng những đơn giản chỉ là dạy kiến thức mà còn
dạy cách làm người.
“Đối với giáo viên cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về quy luật xã hội, có
khả năng dùng lời nói tác động đến tâm hồn học sinh. Có kĩ năng đặc sắc nhìn nhận
con người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của con người.” (Xu
Khomlinxki)
d. Trò chơi.
Giáo viên tổ chức một số trò chơi sinh động như:
Trị chơi: “ Ơ số kì diệu”:
Tuần 25: Bài Đáp lời đồng ý. Quan sát tranh, trả lời câu hỏi.
- Giáo viên nêu yêu cầu cách chơi, luật chơi.
+ Cách chơi: Đưa một số câu hỏi. Bấm đồng hồ đếm ngược (5, 4, 3, 2, 1, 0).
HS nói câu trả lời của mình.

. Bạn nào trả lời đúng, hay, đủ ý. Được lớp đồng ý thưởng sẽ được tham dự ô phần
thưởng.
( Phần thưởng là 6 hộp quà, mỗi hộp quà tương ứng với 1 số từ 1 đến 6. HS chọn 1 gói
q mình thích.)
Bài tập 2: - Tiến hành:
Giáo viên giới thiệu tranh và đưa câu hỏi.
a. Tranh vẽ cảnh gì?

14


Bấm đồng hồ đếm ngược (5, 4, 3, 2, 1, 0).
Học sinh giơ tay nhanh, sẽ được nói: (thực hiện 3 lần, mỗi lần 1 học sinh để chọn
người có câu trả lời đúng, đầy đủ, hay, sáng tạo)

Học sinh 1: Tranh vẽ cảnh biển buổi sáng.
Học sinh 2: Cảnh biển.
Học sinh 3: Tranh vẽ cảnh cảnh biển buổi sớm mai, khi mặt trời mới lên.
Cho học sinh bình chọn nhanh bạn nào trả lời đúng, đủ, hay sẽ được bấm ô phần
thưởng.
Các ô số sau, tiến hành tương tự.
b. Sóng biển như thế nào?
Học sinh 1: Nhấp nhơ.
Học sinh 2: Sóng biển nhấp nhơ.
Học sinh 3: Sóng biển nhấp nhơ trên mặt biển xanh.
c. Trên mặt biển có những gì?
Học sinh 1: Cánh buồm, chim.
Học sinh 2: Có cánh buồm và chim.
Học sinh 3: Có những cánh buồm đang lướt sóng, những chú chim hải âu đang bay
lượn.
d. Trên bầu trời có những gì?
Học sinh 1: Mặt trời đang lên, đám mây bay.
Học sinh 2: Mặt trời đang lên phía chân trời, những đám mây màu tím đang bồng bềnh
trơi, đàn hải âu bay về phía chân trời,…
Học sinh 3: Mặt trời, đám mây.
15


Qua trị chơi này, bầu khơng khí của lớp học thoải mái, vui vẻ, học sinh nhớ và khắc
sâu kiến thức, rèn tính mạnh dạn, phản xạ nhanh, kĩ năng hợp tác, giao tiếp với nhau.
Đặc biệt học sinh hứng thú, u thích mơn Tiếng Việt.
Khi trẻ chơi cần khen ngợi, động viên các em kịp thời. Đây là hoạt động phù hợp
với tâm lí thích hoạt động, thích thư giãn, đó là “học mà chơi, chơi mà học” ở lứa tuổi
này. Chính vừa học vừa chơi làm cho đời sống các em thêm phong phú. Được chơi học
sinh sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động; hứng thú tham gia vào hoạt động học.

Khi đó trẻ khắc sâu được các kiến thức. Khi chơi chúng tập trung cao độ, sẽ biểu lộ
được cảm xúc, tình cảm như vui mừng khi thắng lợi, buồn khi thua. Đặc biệt qua trò
chơi học sinh mạnh dạn, tự tin, tạo sự gắn bó, đồn kết với bạn bè. Từ đó, giúp các em
tiếp thu kiến thức một cách tự giác, dễ dàng hơn, nhớ lâu, khắc sâu kiến thức.
e. Lồng ghép âm nhạc trong tiết học tiếng Việt.
Từ thưở ấu thơ, tiếng ru của bà, của mẹ đã ru ta vào giấc ngủ. Khi bập bẹ nói thì âm
nhạc đã được các em làm quen, dễ gần, dễ nhớ, gần gũi đi vào cuộc sống của các em.
Tác động đến sự phát triển từ thể chất đến tâm hồn khơng gì bằng âm nhạc. Qua các
bản nhạc đó, học sinh tích cự, chủ động, khắc sâu kiến thức, tăng thêm hưng phấn, tiết
học thư giãn, thoải mái và đầy hứng thú, tiết học diễn ra nhẹ nhàng, vui vẻ, mang lại
hiệu quả giáo dục cao.
Ví dụ: Bài Thư Trung thu
Câu hỏi 1: Những câu thơ nào cho thấy Bác Hồ rất yêu thiếu nhi?
“Ai yêu các nhi đồng/ Bằng bác Hồ Chí Minh/ tính các cháu ngoan ngỗn/ mặt các
cháu xinh xinh”.
- Câu thơ của Bác là một câu hỏi (Ai yêu các nhi đồng/ Bằng bác Hồ Chí Minh? )- Câu
hỏi đó nói lên điều gì?
- Học sinh nói theo ý của mình. ( Nhi đồng yêu Bác Hồ, Bác Hồ yêu Nhi đồng).
- Giáo viên sửa sau khi học sinh nói. Bác Yêu nhưng mà yêu nhất. Nên ta có thể nói:
Khơng ai u nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh/ Bác Hồ yêu nhi đồng nhất.
- Giáo viên mở bài hát Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng- Nhạc và lời
Phong Nhã. Cả lớp cùng vỗ tay, hát theo.
Sau khi mở bài hát, nhìn thấy Bác rất vui tươi, ấm áp, gần gũi, yêu quý các em nhất.
Thiếu nhi thêm yêu quý, biết ơn, nhớ Bác nhiều hơn. Đồng thời, cảm nhận những câu,
từ của bài hát khi nói về Bác rất thiêng liêng, … và biết nói thêm những câu hay về
Bác Hồ kính u.
- Bên cạnh đó, người giáo viên cần “u nghề, mến trẻ”, luôn trau dồi phẩm chất
nghề nghiệp, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, tác phong gương mẫu, là người hướng
dẫn, điều khiển tốt vai trị của mình, xác định trọng tâm kiến thức, theo chuẩn kiến
thức kỹ năng, kết hợp giáo dục kỹ năng sống; truyền thụ chính xác, hấp dẫn; truyền đạt


16


các kiến thức sao cho các em lĩnh hội một cách nhẹ nhàng, đầy hứng thú, khơi gợi bản
năng tự lực của bản thân.
- Giáo viên cần tìm hiểu hồn cảnh của học sinh để động viên, gần gũi, khơi gợi để
các em tiếp xúc, nói chuyện.
Khi rèn học sinh kĩ năng nói thì giáo viên ln tìm ra cái mới, sáng tạo và linh hoạt;.
Giáo viên kết hợp nhịp nhàng giữa giáo viên và học sinh, giáo viên bộ mơn, gia đình
và các đồn thể để kỹ năng nói của các em được hình thành và phát triên.
* Đối với học sinh:
Để hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói cho các em. Thì người lĩnh hội, hoạt động
trung tâm chính là trẻ. Các em là người chủ động, sáng tạo trong hoạt động học. Nói
chuyện với thầy cơ giáo về những điều về các môn học và trong đời sống.
Ở nhà:
Các em Cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp“Cái tháp cao nào cũng xây từ mặt đất”,
hoàn thành bài tập mà giáo viên giao. Về nhà nói chuyện với người thân về những điều
ở trường, những tiết học luyện nói tiếng Việt hay các mơn học khác.
Ở lớp:
Phải đi học chuyên cần, chú ý nghe giảng, mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Trẻ học
hỏi Biết hợp tác với bạn và với các nhóm khác.
Tham gia các hoạt động ngoại khóa như nói chuyện và múa hát tập thể.
Ngoài ra, các em muốn rèn luyện kỹ năng nói tốt, tạo thiện cảm của người khác thì
phải biết lắng nghe, khơng cắt ngang khi người khác đang nói chuyện với mình.
Trong cuộc sống:
Khi các em chơi, luyện nói hoặc giao tiếp cùng trang lứa. Sẽ bộc lộ được những gì
thật với lứa tuổi của mình, khơng cịn phải e dè, sợ sai bị la mắng hay nhắc nhở, dần
dần hình thành cho các em thói quen mạnh dạn, tự tin hơn.
Ví dụ: Một nhóm học sinh giờ ra chơi nói chuyện với nhau. (Giáo viên quan sát).

Học sinh 1: Lúc sáng không đi học à?
Học sinh 2: Trông em.
Hoc sinh 3: Ma (bố) bắt ở nhà hả?
Học sinh 2: Ừ…
Giáo viên đến, nói chuyện, hỏi, tìm hiểu thêm lí do, hồn cảnh để hiểu cuộc sống
của các em hơn. Sau đó vừa giao tiếp, gần gũi vừa sửa học sinh luyện nói trong tình
huống đó.
(Nói với học sinh 1). Hôm sau con hỏi bạn: Sao lúc sáng cậu khơng đi học?. (nói
với học sinh 2) Cịn con trả lời bạn: Mình bận ở nhà trơng em…
Qua các tình huống trong cuộc sống này, giáo viên cũng đã luyện nói cho học sinh.
Đồng thười liên hệ với phụ huynh để con em mình đến lớp tiếp thu bài đầy đủ. Xem
17


mơn học nào cũng là mơn quan trọng (Thời khóa biểu sáng này học các môn chuyên
như Mỹ thuật, Âm nhạc, Thể dục…).
Một số em chưa hòa đồng, còn nhút nhát. Giáo viên hỏi han, trao đổi cùng nhóm
bạn. Để học sinh gọi bạn cùng hịa nhập vào nhóm để chơi. Trong khi chơi các em trao
đổi, trò chuyện để bạn khơng cịn ngại ngùng, đơn lẻ nữa mà gắn kết gần gũi nhau hơn.
- Trong các tiết học thì luyện nói rất quan trọng. Nó đóng vai trị then chốt trong
các hoạt động dạy học. Muốn thế, trẻ cần biết lắng nghe giáo viên và bạn đưa ra câu
hỏi hay tình huống giao tiếp. Các em cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chuẩn bị bài
mới trong sách giáo khoa, câu hỏi phần bài học hay mạnh dạn phát biểu xây dựng bài
thì các em sẽ tự tin và khơng bị mất bình tĩnh khi luyện nói.
Giáo viên cùng các bạn khuyến khích, động viên những học sinh chưa mạnh dạn,
chưa hồn thành, hãy tự tin luyện nói, để học sinh hồn thành. Qua đó, trẻ được hình
thành, bồi dưỡng kĩ năng nói. Trong tuần, nếu bạn nào được nhiều nhận xét hoàn thành
tốt. Cuối tháng lớp ghi lại và bầu chọn, sẽ khen trong tiết sinh hoạt lớp như cuốn vở,
cái bút,… Khi được khen các em thấy bản thân mình có ích, quan trọng với thầy cô
giáo và vui sướng, tự tin trước các bạn trong lớp. Cịn các bạn khác lấy đó làm gương

mà phấn đấu để cô giáo tuyên dương và tặng quà như bạn. Chính điều này là động lực,
niềm vui, hạnh phúc, rèn tính mạnh dạn, tự tin hơn, tạo cơ hội và thúc đẩy một phần
hứng thú để các em đến lớp, đến trường.
Qua các tiết học này các em này được nâng cao vốn từ của mình, học hỏi những trẻ
khác ngôn ngữ, điệu bộ, cử chỉ và đặc biệt là hình thành và bồi dưỡng kĩ năng luyện
nói.
* Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói kết hợp với phụ huynh học sinh:
Để hình thành và bồi dưỡng cho trẻ kĩ năng nói. Thì khơng thể khơng nhắc đến
giao đình. Gia đình là tế bào của xã hội. “Gia đình là nơi cuộc sống bắt đầu và tình
u khơng bao giờ kết thúc”. Là nơi trẻ cất tiếng khóc chào đời và tiếng nói đầu tiên
của mỗi con người. Cũng chính là nơi có những người để u thương. Vì thế gia đình
đóng một vai trị hết sức quan trọng trong việc hình thành kĩ năng nói và giáo dục trẻ.
Một đứa trẻ tự tin, mạnh dạn, ứng xử nhanh, giao tiếp giỏi, phát triển tốt đòi hỏi phải
sống trong một gia đình có cách giáo dục tốt. Mà muốn trẻ giáo dục tốt thì cần phải bắt
đầu từ tuổi ấu thơ, đây chính là nền tảng ban đầu của đứa trẻ.
Muốn con có kĩ năng nói tốt, cha mẹ hiểu cần giành thời gian quan tâm, động viên,
gần gũi trẻ. Thường xuyên hỏi han về bài tập của con, về thầy cơ, bạn bè ở trường, tập
trị chuyện, hỏi con mong muốn gì. Qua trị chuyện đó, các em mới nói lên ý kiến của
mình.

18


Giáo viên trao đổi với phụ huynh
Vì thế giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh. Cần kết hợp với họ nhắc
nhở con em mình về nhà học bài, chuẩn bị bài chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có các
bài cần rèn luyện nói, cha mẹ hãy cùng con trao đổi, cho con nói theo khả năng của
mình về nội dung bài học, sau đó người lớn chỉnh sửa cho con.
Cha mẹ hãy dạy con biết tự lập và biết lắng nghe con nói. Sau đó hướng dẫn cho
con muốn bạn bè u thương mình. Thì ngồi chơi chân thành với bạn, đồn kết giúp

đỡ bạn cịn phải biết lắng nghe và khơng cắt lời khi bạn nói. Đó là phép lịch sự tối
thiểu của mỗi người.

19


Nhưng phụ huynh đa số chú ý đến việc con em mình đến trường tiếp thu kiến thức
các mơn học như thế nào? Con mình cuối năm tổng kết có được giấy khen =hay
không? Mà họ không chú ý đến kĩ năng nói trong các mơn học và trong cuộc sống của
con em mình.
Đồng thời qua thực tế tơi thấy. Do điều kiện ở đây cịn khó khăn, phần đơng gia
đình chưa quan tâm, chú ý đến con em mình. Một số gia đình quan tâm đã có trao đổi,
nói chuyện với con em mình về chuyện trường lớp, bạn bè. Gia đình hãy tạo điều kiện
để con của mình nói chuyện, tiếp xúc với các bạn nhà bên cạnh, hay cùng bn làng
mình, khơng nên la mắng con trước mặt bạn bè.
Cha mẹ học sinh cần cộng tác với giáo viên. Nên báo với cơ những lúc gia đình
cảm thấy khó khăn để giáo viên tìm hướng giải quyết. Nếu vấn đề phức tạp người dạy
cảm thấy khó giải quyết sẽ nhờ sự giúp đỡ và kết hợp của ban giám hiệu hay cấp trên.
Có phụ huynh đi làm xa cả tuần mới về nhà, con em mình tự ăn uống, sinh hoạt thậm
chí cịn nhỏ mà cịn nấu ăn, lo cho em. Không nên bắt trẻ nghỉ học để ở nhà đi làm
cùng bố mẹ hoặc ở nhà giữ em để bố mẹ đi làm, mà phải khắc phục và tạo điều kiện để
các em được đến trường. Để các em có thời gian vui chơi, phát triển về mọi mặt. Giáo
viên giải thích cho họ hiểu ở trường giáo dục là giáo viên còn ở nhà phần giáo dục là
gia đình.
Giáo viên và phụ huynh có tầm quan trọng như thế nhưng muốn hình thành và bồi
dưỡng kĩ năng nói tốt thì đồn thể đóng một vai trị khơng thể thiếu.
* Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói kết hợp với các đồn thể:
Để hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói, thì việc kết hợp với các đoàn thể rất quan
trọng. Giáo viên cần kết hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức một số hoạt động ngoại
khóa và xen kẽ các buổi học. Qua các chương trình này học sinh hứng thú đến trường,

rèn các em tính mạnh dạn, tự tintrong giao tiếp và đặc biệt hình thành và bồi dưỡng kĩ
năng luyện nói như: Nói chuyện truyền thống nhân Ngày thành lập Quân đội Nhân dân
Việt Nam, chương trình “Rung chng vàng”, Ngày hội “Thiếu nhi vui khỏe”, Hội thi
chúng em Kể chuyện Bác Hồ…
Ví dụ: Nói chuyện Truyền thống ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.

20


Nói chuyện Truyền thống ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Cô Tổng phụ trách kết hợp với giáo viên chủ nhiệm đưa một số câu hỏi. Chú bộ
đội đọc câu hỏi, học sinh trả lời, ai trả lời đúng và đầy đủ câu từ, sẽ có phần thưởng.
+ Quân đội Nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào? (Quân đội Nhân
dân Việt Nam thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944).
+ Ai là người lấy thân mình lấp lỗ Châu Mai? ( Đồng chí Phan Đình Giót lấy thân
mình lấp lỗ Châu Mai)….
Qua các cuộc trị chuyện như thế, học sinh hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói.
Các em hứng thú, vui vẻ, mạnh dạn hơn, kĩ năng nói được phát triển. Các em biết ơn,
yêu quý các anh hùng, các chú bộ đội.
- Đồng thời, trong một số chương trình học sinh tham gia thi đua với các lớp khác.
Giáo viên hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tỉ mỉ như: Giọng nói phải
truyền cảm, khi kể biết thay đổi giọng điệu lên xuống, kích thích cảm xúc cho người
nghe. Kết hợp ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ phù hợp với ngữ cảnh của câu chuyện... Học
sinh chịu khó học hỏi, nhớ lời và nhập vai nhân vật. Ở lớp giáo viên hướng dẫn cách kể
kết hợp điệu bộ, hình ảnh minh họa nội dung. Ở nhà học sinh rèn thêm để nhớ “Năng
khiếu, nếu có chỉ là một phần, tất cả đều do khổ luyện mà thành” - Richard Zeoli.
Ví dụ: Hội thi: Chúng em Kể chuyện Bác Hồ.
Tổng phụ trách tổ chức, các lớp đăng kí. (Lớp 2B1 có em H’ Jun Chin Niê tham gia
và đạt giải 3). Em kể câu chuyện: Ai ngoan sẽ được thưởng.


21


(Học sinh nhập vai nhân vật Tộ. Qua đây em bộc lộ lời nói, suy nghĩ, ánh mắt,
hành động, cử chỉ của Tộ).
…Khi bác Hồ chia kẹo cho tôi. Tôi xấu hổ, không giám nhận. (Cử chỉ học sinh
ngại ngùng, xấu hổ).
Tôi khẽ thưa với Bác: “Thưa Bác, Hôm nay cháu không vâng lời cô giáo. Cháu
chưa ngoan nên không được ăn kẹo của Bác”. (Học sinh kể giọng khẽ).
Không ngờ Bác lại nhìn tơi cười trìu mến. (Học sinh cười trìu mến khi kể). Xoa đầu
tơi và bảo: “Cháu biết nhận lỗi như thế là ngoan lắm! Cháu vẫn được ăn kẹo như các
bạn khác”. (Học sinh nói giọng ấm của Bác).
Tôi vô cùng sung sướng nhận những chiến kẹo của Bác cho. (Ánh mắt vui, mừng rỡ).
Đó là kỉ niệm đáng nhớ của cuộc đời tôi, tôi không bao giờ quên kỉ niệm ấy. Lời
khen của Bác sẽ giúp tơi khơng bao giờ nói dối nữa. (lời nói học sinh chậm rãi, đầy
lưu luyến, bàn tay để trước ngực,…)…

Học sinh đạt giải trong Hội thi: Chúng em kể chuyện Bác Hồ
Giáo viên kết hợp với Ban giám hiệu, Tổng phụ trách, các ban ngành đoàn thể, các
giáo viên khác trong trường cùng tổ chức tốt những ngày hội đó.
Qua các hoạt động này, trẻ được học hỏi một số kiến thức bổ ích, mạnh dạn, tự tin,
bình tĩnh khi giao tiếp, …hình thành ý thức từ khi ngồi trên ghế nhà trường cũng như
tạo tiền đề sau này.
22


Học sinh được hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói, truyền hứng thú, liên hệ và áp
dụng vào cuộc sống, từ những tiết dạy, những bài học cùng thầy cơ và bạn của mình
và gia đình đã tạo nên thành quả trên.
Ngồi các đồn thể thì giáo viên hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói kết hợp với

giáo viên bộ mơn.
* Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói kết hợp với giáo viên bộ mơn:
Với sự nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ cùng sự ủng hộ, kết hợp nhịp nhàng của giáo
viên và giáo viên bộ môn khác như: Đạo đức, Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Thủ công,
… để cùng truyền thụ kiến thức và hướng dẫn, giúp đỡ, tạo nề nếp tốt cho các em.
Với sự nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ cùng với sự ủng hộ của giáo viên bộ mơn thì
hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói các em đã ngày một tốt hơn. Thầy cơ bộ mơn rất
hài lịng.
Qua đó, trẻ u thích mơn tiếng Việt, rèn nói tốt sẽ hỗ trợ các mơn học khác và vui
thích đến trường, các tiết học diễn ra nhẹ nhàng. Do đó tiết dạy ngày càng đạt hiệu quả
cao, chất lượng học tập của các em tốt hơn.
Ví dụ: Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói trong Mơn Đạo đức.
Bài: Biết nhận lỗi và sửa lỗi.
Giáo viên đưa tranh các tình huống. Học sinh quan sát tranh, suy nghĩ các tình
huống sau đó đóng vai. Các em nói (đặt mình vào vị trí là bạn nhỏ) theo ý nghĩ của
mình.

Tranh 1.

Tranh 2.

23


Tranh 3

Tranh 4.

- Tình huống 1: Sao bạn hẹn rủ tớ đi học mà lại đi một mình?
+ (Học sinh 1): Tớ xin lỗi cậu, vì tớ gần muộn giờ rồi. Đi vội nên tớ quên./

(Học sinh 2): Mình xin lỗi cậu. Mình sơ ý quá./…
- Tình huống 2: Con đã dọn nhà cho mẹ chưa?
+ (Học sinh 1): Con xin lỗi mẹ. Giờ con sẽ làm ngay mẹ ạ
(Học sinh 2): Con chưa làm mẹ ạ. Con xin lỗi mẹ./…
- Tình huống 3: Bắt đền Tường đấy, bạn làm rách sách của tớ rồi.
+ (Học sinh 1): Tớ xin lỗi cậu. Tớ không cố ý đâu bạn à.
(Học sinh 2): Ơi. Mình vơ ý q. Mình xin lỗi cậu./…
Qua các giải pháp đó, học sinh hình thành kĩ năng nói ngày một tốt hơn, kỹ năng
này khơng chỉ giúp các em biết dùng những câu từ hay, thái độ đúng, nói đầy đủ chủ
ngữ và nói lưu lối hơn trong các bài học và trong cuộc sống, trình bày trong tiết học,
mơn học tốt. Mà cịn trau dồi vốn kiến thức, sự linh hoạt, tự tin, tính mạnh dạn, tự tin
hơn. Từ đó, trẻ biết tơn trọng người lớn tuổi, bạn bè, biết xử sự đúng mực hơn, có niềm
vui, hứng thú đến trường, u thích trường lớp, hịa đồng và yêu quý mọi người. Khi
giao tiếp tốt nắm được thế chủ động, dễ tạo thiện cảm cho người đối diện và dễ chinh
phục cảm xúc người khác.
Từ đó, chất lượng học tập được nâng lên. Năm học vừa qua một số học sinh đạt
hoàn thành tốt. Các em cịn lại đã hồn thành chương trình lớp học. Nhà trường, giáo
viên chủ nhiệm, phụ huynh và học sinh rất phấn khởi.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Từ những biện pháp trên cho thấy để hình thành và bồi dưỡnng kỹ năng nói cho
học sinh để chất lượng giáo dục ngày một cao hơn. Thì giáo viên phải là người có vốn
hiểu biết sư phạm, có kiến thức chuyên môn vững vàng, biết kết hợp giữa kĩ năng nói
24


và điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt… phù hợp. Người dạy phải gương mẫu, tiên phong, nhiệt
tình, năng nổ trong công tác giáo dục và trong các phong trào.
Và cần chuẩn bị kĩ nội dung định nói. Phải bình tĩnh, tự tin, mạnh dạn. Người nói
nên bộc lộ ra những điều mình đã chuẩn bị kĩ. Hãy là chính mình chứ không cần phải
theo một khuôn mẫu nào cả. Giáo viên phải người làm việc khoa học, vừa là người

cứng rắn, nghiêm nghị vừa là người địu dàng, tình cảm và yêu nghề mến trẻ. Hướng
dẫn trẻ biết dùng những từ ngữ chọn lọc, biết đồng cảm, yêu thương, sẻ chia buồn vui
và tình thương với những người cịn khó khăn trong cuộc sống.
Cùng với đó, muốn các em có kĩ năng nói tốt. Cơ nên động viên, khích lệ trò để
chúng cảm thấy vui vẻ, tự tin, sung sướng và tự hào, có động lực phấn đấu xứng đáng
với niềm vui đó.
Tuy thế, nhưng khơng phải trẻ nào giáo viên hướng dẫn là cũng luyện nói tốt ngay
hay lĩnh hội, học tập, cảm nhận, rung động và thực hiện được những điều mà giáo viên
mong muốn liền. Vì vậy, để thực hiện các biện pháp, giải pháp tôi không chỉ thực hiện
một vài lần mà cả một quá trình dài với các nhân tố khách quan và chủ quan tác động
tới trẻ. Giáo viên là người đầu tiên khơi nguồn cảm xúc, là người hướng dẫn, truyền
thụ, động viên, khích lệ kịp thời đối với học sinh.
Muốn trẻ luyện nói tốt, có hứng thú, tạo tinh thần thoải khi đến lớp thì u tố nữa
đó là chính các em phải chuẩn bị kĩ bài,…cùng với tác động của cô giáo lúc đó các em
mới rèn kĩ năng nói tốt khi học môn tiếng Việt và các môn học khác.
Giáo viên kết hợp nhịp nhàng với giáo viên bộ môn, Đội. Đó cũng chính là các cầu
nối khơng thể thiếu để trẻ hình thành và phát triển kĩ năng nói tốt, hỗ trợ, giúp trẻ học
hỏi, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp.
Bên cạnh đó, khơng ai gần gũi trẻ hơn là gia đình. Gia đình là cái nơi, tế bào của xã
hội. Đây là một phần quan trọng trong việc hình thành, bồi dưỡng kĩ năng nói và giáo
dục nhân cách của trẻ. Như trên đã nói, đứa trẻ phát triển tốt đòi hỏi phải sống trong
một gia đình có cách giáo dục tốt.
Song song với gia đình là Nhà trường. Đây là môi trường giáo dục tối ưu. Ở trường
người trực tiếp là giáo viên - là người gần gũi nhất đối với các em. Vì thế, cần kết hợp
cả ba yếu tố Gia đình- Nhà trường- Xã hội, một đứa trẻ hình thành niềm đam mê tri
thức và hướng tới cái đích cuối cùng của giáo dục là“Chân – thiện- Mỹ”.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng.
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy và
qua những kinh nghiệm của bản thân. Tôi áp dụng một số giải pháp và khắc phục

những hạn chế trên đã đạt được những kết quả nhất định trong việc dạy - học. Học sinh
được hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói tốt hơn. Các em mạnh dạn, tự tin, biết dùng
25


×