Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Hình thành và củng cố kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông qua dạy học văn học việt nam trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.22 KB, 128 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ DUNG

HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA DẠY HỌC
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: lý luận và phơng pháp dạy học Bộ môn văn vµ tiÕng viƯt
MÃ SỐ: 60.14.01.11

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

NGHỆ AN- 2014


2
MỤC LỤC


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GDKNS:


Giáo dục kỹ năng sống

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

THPT:

Trung học phổ thông

PPDH:

Phương pháp dạy học


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xã hội ngày càng văn minh - hiện đại, thế giới đang bước vào kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên của khoa học công nghệ. Những tiến bộ vượt bậc của
xã hội hiện đại đang và sẽ mang lại cho loài người những tiện ích hữu dụng.
Nhưng, cũng chính ở thế kỷ 21 này, con người đang phải đối diện với những
thách thức to lớn từ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và đặc biệt là mối
quan hệ giữa người với người. Với sự thay đổi đó, xã hội nói chung và ngành
giáo dục nói riêng đang từng ngày phải đối mặt với những thách thức và cần

phải có những thay đổi để phù hợp với những mục tiêu và hoàn cảnh mới.
Giáo dục cần phải đổi mới để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã
hội. Đào tạo ra những con người vừa có tri thức khoa học, vừa có kỹ năng làm
việc nhưng cũng phải vừa có những thái độ, hành vi tích cực trước những sự
thay đổi của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trước đây, trong bối cảnh xã hội truyền thống, những người trẻ tuổi học
cách đối nhân xử thế thông qua đại gia đình, làng xã, văn hóa dân gian, các
chương trình giáo dục chính quy và khơng chính quy,… Nhưng dưới những
chuyển biến kinh tế xã hội diễn ra nhanh chóng đã hạn chế phần nào chức năng
của giáo dục gia đình và các thiết chế truyền thống. Hơn thế nữa những biến
động kinh tế xã hội ngày càng to lớn do q trình hiện đại hóa đem lại cho lứa
tuổi thiếu niên nhiều thử thách. Để giải quyết những thử thách mà thiếu niên
phải đối mặt thì thiếu niên khơng những chỉ chuẩn bị các kỹ năng để lĩnh hội
kiến thức (nghe, nói, đọc, viết, …) mà đó cịn là khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả trước những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một
cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện cụ thể
bởi các hành vi phù hợp và tích cực với người khác, với nền văn hóa và với
mơi trường xung quanh. Chính vì thế,hiện nay việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh đang được khơng chỉ nhà trường mà cịn cả xã hội quan tâm.


2
1.2. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ việc dạy học Ngữ văn có
nhiều thuận lợi. “Văn học là nhân học” (M.Gorki). Bằng những hình tượng
nghệ thuật sinh động,văn học đưa lại cho người đọc những hiểu biết về tự
nhiên,về xã hội,về những người khác và về bản thân,từ đó hình thành củng cố,
phát triển hoặc điều chỉnh kỹ năng sống. Tất nhiên các nền văn học,các thể
loại và tác phẩm có những đặc điểm riêng trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh. Nghiên cứu đề tài này hướng về mục tiêu đó.
1.3. Tác giả luận văn là một giáo viên Ngữ văn tại một trường THPT.

Nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao chất lượng cơng tác của bản thân và
góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học văn học
Việt Nam trung đại nói riêng.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy việc cung cấp kĩ năng sống cho học
sinh qua giờ dạy học văn, đặc biệt là văn học trung đại Việt Nam là hết sức
quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này. Từ thực tế đó,tơi thực hiện đề tài
này với mong muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống các phương pháp rèn luyện
kĩ năng sống cho các em qua giờ dạy, học văn văn học Việt Nam trung đại.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích của đề tài là hình thành và
củng cố kỹ năng sống, đề xuất những phương pháp rèn luyện kỹ năng sống
cho học sinh THPT qua giờ dạy, học văn học Việt Nam trung đại.
3.2. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Thứ nhất, xác lập những cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc hình thành
và củng cố kỹ năng sống qua giờ dạy học văn học Việt Nam trung đại.
Thứ hai, xác lập những nguyên tắc và phương pháp rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh THPT qua giờ dạy học văn học Việt Nam trung đại.
Thứ ba, thiết kế một số giáo án thể nghiệm. Trình bày một số thực
nghiệm tập trung kiểm nghiệm những nghiên cứu về đề tài.


3
3. Lịch sử vấn đề
Dựa vào nguồn tài liệu bao quát được và trong phạm vi quan tâm của
đề tài, tôi điểm lại một số vấn đề cơ bản sau:
3.1. Những ý kiến bàn về rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên
Trong cuốn Phương pháp giảng dạy kỹ năng sống của Bùi Văn Trực
và Phạm Thế Hưng [71], các tác giả đã nêu lên những vấn đề chung của giáo
dục KNS, các phương pháp giảng dạy KNS và một số bài giảng mẫu. Đây là

tài liệu tham khảo để giáo viên có thể giảng dạy hiệu quả KNS. Bên cạnh đó,
giáo viên có thể tham khảo thêm tài liệu Giáo dục kỹ năng sống trong các
môn học ở tiểu học [7]. Tài liệu này gồm hai phần: Phần thứ nhất là một số
vấn đề chung về kỹ năng sống và giáo dục KNS cho học sinh trong nhà
trường phổ thông; Phần hai là giáo dục KNS trong các môn học ở lớp 5. Với
tài liệu này người biên soạn nhằm giúp cho giáo viên tiểu học có thêm hiểu
biết chung về KNS và nội dung, cách thức giáo dục KNS cho học sinh qua
các môn học Tiếng Việt, Đạo đức, Khoa học. Cũng đi theo hướng đó là cuốn
Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường THCS
[52]. Cuốn sách này biên soạn nhằm giúp giáo viên THCS có thêm hiểu biết
chung về kỹ năng sống và nội dung, cách thức giáo dục KNS cho học sinh.
Các cuốn Bài tập thực hành kỹ năng sống 6 [62] , Bài tập thực hành kỹ năng
sống 7 [63], Bài tập thực hành kỹ năng sống 8 [64], Bài tập thực hành kỹ
năng sống 9 [65] của Lưu Thu Thủy chủ biên định hướng cho học sinh rèn
luyện các kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đặc biệt, nhóm tác giả
cịn thiết kế những dạng bài tập nhẹ nhàng, phong phú, đa dạng để giúp các
em rèn luyện KNS có hiệu quả qua các giờ học.
Ngồi những cuốn sách kể trên, cịn có nhiều bài báo liên quan đến
vấn đề giáo dục KNS cho lứa tuổi học sinh. Cụ thể, bài viết Chương trình
giáo dục kỹ năng sống trong thực tiễn đổi mới giáo dục hiện nay của Tiến sĩ
Trần Anh Tuấn [73] đã nói đến việc triển khai chương trình giáo dục kỹ năng
sống được đưa vào trường học vào năm 2010-2011 và đưa ra một số nội


4
dung, biện pháp cơ bản về giáo dục kỹ năng sống ở trường phổ thơng; tác giả
Phan Thanh Vân có bài viết Tích hợp mục tiêu giáo dục kỹ năng sống trong
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp [76], đề cập đến vấn đề giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh phổ thơng theo quan điểm giáo dục tích hợp, đặc biệt
là hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; trên Tạp chí Giáo dục có bài Một số

điểm hạn chế trong kỹ năng sống của sinh viên các trường đại học tại thành
phố Hồ Chí Minh của Huỳnh Văn Sơn [56] cho rằng: “việc trang bị những kỹ
năng sống cho sinh viên trước khi họ bước vào đời là một việc làm hết sức
cấn thiết”, đồng thời tác giả đã đưa ra những điểm hạn chế còn tồn tại trong
kỹ năng sống của sinh viên, từ đó đề xuất một số giải pháp để công tác giáo
dục kỹ năng sống có hiệu quả; cũng theo hướng đó, Trần Minh Hằng trong
bài Giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên hiện nay [26] đã đề cập đến một số
vấn đề như: khái niệm kỹ năng sống, thực trạng KNS của sinh viên hiện nay
và một số biện pháp giáo dục KNS cho sinh viên; từ góc nhìn tâm lý lứa tuổi,
Nguyễn Khắc Hùng có bài viết Giáo dục kỹ năng sống, một yếu tố ngăn ngừa
tội phạm ở trung học phổ thông [32] nêu lên những đặc thù tâm lí lứa tuổi
trung học phổ thơng, từ đó lựa chọn nội dung tổ chức thích hợp, phát huy tính
tích cực chủ động của các em trong hoạt động ngoài giờ lên lớp theo định
hướng của mục tiêu giáo dục kỹ năng sống; Bùi Văn Minh trong bài Giáo
dục kỹ năng sống cho thanh niên, sinh viên trường Cao đẳng Hải Dương một yêu cầu cấp thiết [42] đăng trên tạp chí Khoa học giáo dục cho rằng để
giúp thanh niên, sinh viên trở thành những công dân tốt, làm việc hiệu quả,
bên cạnh những kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, cần trang bị cho
họ những kỹ năng xã hội, kỹ năng mềm đa dạng, theo tác giả, phải đưa giáo
dục kỹ năng sống cho sinh viên vào chương trình đào tạo chính khóa; cũng
cách nhìn ấy, Đặng Thị Vân và Nguyễn Huyền Thương của trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội có bài Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng và biện
pháp giáo dục kỹ năng sống cho thiếu niên [75] đã khai thác nhận thức của cha
mẹ về tầm quan trọng cũng như các biện pháp, hình thức mà họ sử dụng nhằm


5
giáo dục kỹ năng sống cho con; Ngơ Cơng Hồn với bài Cách tiếp cận nghiên
cứu nghiên cứu kỹ năng sống [29] đã chỉ ra cơ sở khoa học về con người và kỹ
năng sống, bên cạnh đó là cách tiếp cận kỹ năng sống; trong bài Giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học ở Lào Cai,

Nguyễn Thị Hài [25] đã nêu lên một số hạn chế về kỹ năng sống của học sinh
phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Lào Cai và một số hình thức giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh nơi đây; Ngô Anh Tuấn và Bùi Thị Hải Lý có bài Xây
dựng quy trình đào tạo kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượng cao - Trường
Đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh [74] đã đề cao việc trang bị
kỹ năng mềm song song kỹ năng chuyên môn (kỹ năng cứng), đồng thời xây
dựng quy trình đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên để bám sát nhu cầu của
người học, nhu cầu của xã hội…; từ góc nhìn của giảng viên đại học, Tạ Quang
Thảo có bài Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong giai đoạn hiện nay [60]
cho rằng, trong quá trình tuyển dụng lao động, ngoài kỹ năng nghề nghiệp, kỹ
năng mềm cần được các nhà tuyển dụng coi trọng, nó trở thành đòi hỏi tất yếu
đối với các trường đại học, cao đẳng trong quá trình đào tạo.
3.2. Những ý kiến bàn về rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua giờ
dạy, học văn học
Rèn luyện kỹ năng sống qua giờ dạy, học văn là lồng ghép hay tích
hợp giáo dục kỹ năng sống vào bài học. Điều này đã ít nhiều được thể hiện
qua một số cơng trình, bài viết. Trong cuốn Giáo dục kỹ năng sống trong môn
Ngữ văn ở trường THCS [49], các tác giả đã định hướng cho giáo viên những
hiểu biết chung về kỹ năng sống và nội dung, cách thức giáo dục KNS cho
học sinh trong môn Ngữ văn ở trường THCS. Trong cuốn Giáo dục kỹ năng
sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT [50], các tác giả đã chia thành hai
phần: Phần thứ nhất là một số vấn đề chung về KNS cho HS ở trong nhà
trường phổ thông. Nội dung cơ bản của phần này gồm: Quan niệm về kỹ năng
sống, phân loại kỹ năng sống, tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho HS


6
và định hướng giáo những giáo dục KNS cho học sinh. Phần hai là giáo dục
KNS trong môn Ngữ văn ở trường THPT. Nội dung cơ bản của phần hai các

tác giả đi vào phân tích khả năng, mục tiêu giáo dục KNS cho HS trong môn
Ngữ văn ở trường THPT, giới thiệu một số nội dung và địa chỉ các tiết
học/bài học tiêu biểu có thể thực hiện giáo dục KNS cho từng lớp, một số bài
soạn tham khảo về giáo dục KNS trong môn Ngữ văn ở trường THPT. Bài
viết Tích hợp giáo dục những vấn đề khoa học xã hội – nhân văn trong dạy
học Ngữ văn của Vũ Thị Thịnh [61] cho rằng tích hợp giáo dục chủ yếu trong
mơn Ngữ văn là tích hợp trong và tích hợp ngồi bộ mơn hay là tích hợp theo
chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc. Theo bài viết, việc tích hợp giáo dục
ngồi mơn Ngữ văn chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương
pháp giáo dục thích hợp. Nguyễn Quang Ninh trong bài Về vấn đề nội dung
và phương pháp giảng dạy một số bộ môn khoa học xã hội và nhân văn với
việc góp phần giáo dục nhân cách cho học sinh phổ thông trung học [46] đã
đưa ra ý tưởng lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh, đặc biệt là giáo dục
nhân cách thông qua các bộ môn khoa học xã hội, trong đó có mơn Ngữ văn.
Gần đây đã có một số Luận văn thạc sĩ bước đầu bàn về giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh qua giờ dạy, học văn. Trong số đó, đáng chú ý là luận
văn Rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh THCS qua dạy học văn học nước
ngồi [59] của Nguyễn Chính Thành. Luận văn đã trình bày khá rõ cơ sở để
hình thành kỹ năng mềm cho học sinh THCS qua dạy văn học nước ngoài,
một số nguyên tắc, phương pháp rèn luyện kỹ năng mềm và một số giáo án
thể nghiệm ở chương trình Ngữ văn trung học cơ sở.
Điểm lại một số cơng trình nghiên cứu, bài viết có liên quan, chúng tôi
nhận thấy cho đến nay, vấn đề rèn luyện kỹ năng sống qua giờ dạy học tác
phẩm văn học trung đại Việt Nam ở trường PT chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chun biệt. Những bài viết, những tài liệu tham khảo mới chỉ là định
hướng bước đầu. Từ thực tế đó, tơi thực hiện đề tài Hình thành và củng cố kĩ
năng sống cho học sinh THPT qua dạy, học văn học Việt Nam trung đại với


7

mong muốn góp một tiếng nói vào một vấn đề đang được nhiều người quan
tâm hướng tới, nhất là đối với học sinh ở trường THPT.
4. Giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung các kỹ năng sống chủ yếu và phương pháp hình
thành,củng cố các kỹ năng sống đó từ việc dạy học văn học Việt Nam trung
đại ở THPT
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, tôi sử dụng phương pháp lý thuyết
và thực nghiệm khoa học.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đây là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vực kỹ
năng sống dành cho học sinh trung học phổ thông qua việc dạy học các tác
phẩm văn học Việt Nam trung đại.Vì thế, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần:
6.1. Về lý luận:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về: kỹ năng sống, biện pháp rèn kỹ
năng sống qua việc dạy và học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại
6.2. Về thực tiễn:
- Góp phần làm sáng tỏ thực trạng kỹ năng sống hiện nay của học sinh
THPT qua việc dạy học văn học Việt Nam trung đại.
- Chứng minh rằng nếu thiết lập hình thành và củng cố được các kĩ năng
rèn luyện phù hợp sẽ trang bị và nâng cao được kỹ năng sống cho học sinh.
- Là căn cứ để tìm ra các phương pháp phù hợp trong việc giảng dạy và
huấn luyện kỹ năng sống cho học sinh…
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Nội dung hình thành và củng cố các kỹ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông qua dạy học văn học Việt Nam trung đại
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm



8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm kỹ năng sống và và tầm quan trong của việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh THPT
1.1.1.1. Khái niệm kỹ năng sống
Có nhiều quan niệm về kỹ năng sống, mỗi quan niệm diễn đạt theo một
cách khác nhau, thường gắn với một bối cảnh cụ thể, với một nền giáo dục
nhất định.
Kĩ năng sống là khả năng tâm lí xã hội, nội dung bao gồm tri thức, thái
độ, giá trị và kĩ năng giúp con người giải quyết có hiệu quả những tình huống,
những vấn đề đáp ứng hoạt động của cuộc sống một cách tích cực
Kĩ năng sống là một phạm trù rộng bao hàm nhiều vấn đề của cuộc sống,
đó là những vấn đề phát sinh trong mối quan hệ giữa con người và con người,
con người với thiên nhiên nhiên, con người với sự phát triển kinh tế - xã hội...
Những người có kĩ năng sống là những người có sự trải nghiệm hiệu quả nhất,
giúp giải quyết hoặc đáp ứng những nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn
tại và phát triển của con người.
Cũng có thể hiểu kĩ năng sống là hành trang luôn đi theo con người,
giúp con người có cuộc sống tốt đẹp hơn hướng con người đến cái chân,
thiện, mỹ của cuộc sống. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên,
thông qua giáo dục hoặc do tự rèn luyện của con người. Hiện nay, khái niệm
về kĩ năng sống vì thuộc về lĩnh vực hành vi của con người nên có nhiều quan
niệm khác nhau:
Những quan niệm nêu trên đều cùng chứa những nội hàm sau:
- Là khả năng thực hiện hoạt động hay hành động phù hợp.
- Là năng lực ứng xử tích cực trước những thách thức của đời sống.



9
- Chỉ có được một khi được rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm, thông qua
giáo dục và tự rèn luyện của con người.
Với những nội dung như vậy có thể đưa ra một khái niệm như sau: Kĩ
năng sống là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình và người khác
phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể kiểm sốt, quản lí có
hiệu quả các nhu cầu và thách thức trong cuộc sống, đồng thời giúp con người
giải quyết có hiệu quả những khó khăn, thách thức trong cuộc sống.
1.1.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trung học phổ thông
Giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội:
Học sinh cắp sách đến trường với một mục tiêu quan trọng nhất là học
chữ, “học lấy cái chữ” nhà trường cũng có mục đích quan trọng nhất là dạy chữ
cho các em, truyền đạt những tri thức khoa học để các em chuẩn bị đầy đủ hành
trang tri thức bước vào đời. Chính vì điều đó các mục tiêu đề ra cũng chỉ xoay
quanh việc đào tạo tri thức, trong khi sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh kế xã
hội, các em học sinh khi đến trường ngoài tiếp xúc với mơi trường giáo dục
trong nhà trường các em cịn tiếp cận với xã hội mà ở đó nhiều vấn đề của cuộc
sống địi hỏi các em phải có kiễn thức về nó, phải có kĩ năng giải quyết hợp lí
mới đem lại hiệu quả tích cực. Lí thuyết đã chỉ ra rằng con người là tổng hòa
của các quan hệ xã hội. Mỗi một con người đều bị chi phối bởi các quan hệ đa
phương, đa chiều. Cuộc sống là một bức tranh đa dạng, sinh động đầy thách
thức, phức tạp. Để tồn tại và phát triển trong thế giới ngày nay và đương đầu
một cách có hiệu quả với hàng loạt những vấn đề gặp phải, mỗi người cần có
bản lĩnh, có những kĩ năng riêng để xử trí với những địi hỏi và thử thách hàng
ngày. Nếu như chúng ta chỉ quan tâm đến việc dạy chữ sẽ rất khó tạo ra thế hệ
học sinh có đầy đủ phẩm chất trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ:
Thực tế cho thấy hiện nay học sinh rất thiếu các kĩ năng cơ bản cần

trong cuộc sống hiện đại: như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sinh hoạt tập thể, kĩ


10
năng hoá giải căng thẳng... Trong khi để cùng học tập sinh sống và làm việc
trong xã hội hiện đại những kĩ năng này không thể thiếu, nhiều ý kiến của các
chuyên gia giáo dục và xã hội học cho rằng việc nhiều bộ phận học sinh ở
nước ta hiện nay thiếu các kĩ năng để có thể đương đầu và giải quyết các vấn
đề trong cuộc sống. Có một nguyên nhân quan trọng là những bất cập trong
chương trình giáo dục ở nhà trường trong suốt thời gian dài chúng ta chỉ quan
tâm đến giáo dục trí dục, nhiều trường nhiều địa phương lấy tỉ lệ học sinh đỗ
tốt nghiệp, học sinh đạt điểm cao là thước đo chất lượng giáo dục mà ít quan
tâm đến sự chăm ngoan, chuyên cần, phát triển nhân cách cho học sinh. Điều
này sẽ dẫn đến sự khập khiễng trong đào tạo, một tiền lệ xấu cho đầu ra của
giáo dục.
Giáo dục kĩ năng sống góp phần giảm tình trạng bạo lực học đường
đang có xu hướng gia tăng, như hiện tượng đánh, chửi nhau, dùng những lời
lẽ không đạo đức của học sinh đối với giáo viên...
Giáo dục kĩ năng sống sẽ giúp các em thích nghi với cuộc sống hiện đại
ngày nay, địi hỏi mỗi con người cần có nhiều hơn các kĩ năng sống “nghệ
thuật sống”, những người vừa có kiến thức vừa có cách sống sẽ nhanh và sẽ
thành cơng hơn, thậm chí trong nhiều cơng việc nghệ thuật sống còn quan
trọng hơn cả tri thức, với mục tiêu đào tạo con người mới với đầy đủ đức, tài
phục vụ cho đất nước; ngành giáo dục nước ta ngoài việc đào tạo tri thức cần
chú ý nhiều hơn đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng là một cách bồi dưỡng cho
học sinh kĩ năng làm việc mà các em rất cần trong tương lai, đây cũng là cách
hình thành nhân cách, rèn luyện đạo đức cho học sinh.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông, và phù hợp với xu thế giáo dục của thế giới.

Có thể đưa ra các lợi ích của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
như sau:


11
Về mặt sức khỏe: Xây dựng hành vi lành mạnh tạo khả năng bảo vệ sức
khỏe cho mình và cho mọi người trong cộng đồng.
Về mặt giáo dục: Mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy trò, sự hứng
thú tự tin, chủ động sáng tạo học tập cuả học sinh, tăng cường sự tham gia của
học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục.
Về mặt văn hóa - xã hội: Thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm bớt
tỉ lệ phạm pháp trong thanh thiếu niên, giảm tỉ lệ nghiện ma túy và bị lạm
dụng tình dục ở tuổi vị thành niên.
Về mặt chính trị: Giải quyết một cách tích cực nhu cầu về quyền của trẻ
em. Các em xác định được bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân,
gia đình và xã hội.
Qua các nội dung trên có thể khẳng định rằng giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh THPT hiện là vấn đề quan trọng đòi hỏi cần tiến hành ngay
trong nhà trường.
1.1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THPT
Lứa tuổi THPT là khoảng từ 15 đến 18, đây là lứa tuổi thanh niên. Về
tuổi đời và thể chất, “tuổi thanh niên thường được xác định từ 15 đến 25 tuổi
với đặc trưng là sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về giải phẫu và sinh
lí, sau khi kết thúc giai đoạn dậy thì” [11, 199]. Trong đó chia làm 2 giai
đoạn: từ 14, 15 tuổi đến 17, 18 tuổi, đó là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên
(thanh niên học sinh); từ 17, 18 tuổi đến 25 tuổi là giai đoạn tuổi thanh niên.
Với cách nhìn ấy, học sinh THPT đa số ở giai đoạn đầu thanh niên,
giai đoạn đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự khác biệt về cơ thể giữa
thanh niên mới lớn với người lớn không đáng kể, nhưng sự phát triển thể lực
của các em còn kém so với người lớn. Tuổi đầu thanh niên bắt đầu thời kì

phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lí. Ở giai đoạn này, sự phát triển của hệ
xương được hoàn thiện, cơ bắp được tiếp tục phát triển, chiều cao và trọng
lượng đã phát triển chậm lại. Các em nữ đạt được sự tăng trưởng đầy đủ vào
khoảng 16-17 tuổi, các em trai vào khoảng 17-18 tuổi. Sức mạnh cơ bắp của


12
các em trai tăng nhanh. Đồng thời, sự phát triển của hệ thần kinh có những
thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng
của não phát triển. Số lượng dây thần kinh liên hợp, liên kết các phần khác
nhau của vỏ não tăng lên. Hệ tuần hồn đi vào hoạt động bình thường, sự mất
cân đối giữa tim và mạch đã chấm dứt. Đa số các em đã qua thời kì phát dục,
hoạt động của các tuyến nội tiết trở nên bình thường.
Với những đặc điểm tâm sinh lý đó, có thể thấy đây là lứa tuổi các em
có cơ thể phát triển cân đối, hài hòa và đẹp nhất, nhạy cảm với cái mới, có
khả năng tiếp nhận cái mới.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển
nhân cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển tâm lí ở lứa tuổi thanh niên.
Sự phát triển tự ý thức của học sinh THPT có một số đặc điểm sau:
Đầu tiên là ý thức về hình ảnh cơ thể. Ngay từ tuổi thiếu niên các em đã chú ý
đến hình dáng bên ngồi của mình và đến tuổi thanh niên các em vẫn còn chú
ý. Thái độ này được duy trì trong suốt thời kì thanh niên. Thứ hai là khả năng
tự đánh giá bản thân. Cũng như thiếu niên, thanh niên khao khát muốn biết họ
là người như thế nào? có năng lực gì ? Vì vậy tự đánh giá là một nét tâm lí
điển hình của lứa tuổi này. Cuối cùng là tính tự trọng. Đây là một trong những
tính cách nổi bật của tuổi thanh niên so với các lứa tuổi khác. Mức độ tự trọng
ở thanh niên có từ mức độ cao và mức độ thấp. Tự trọng cao là sự đánh giá
đúng mức về bản thân, biết bảo vệ danh dự của mình một cách phù hợp trong
hồn cảnh cụ thể. Tính tự trọng thấp là sự coi thường, thiếu tin tưởng vào bản

thân, tự hạ thấp mình. Những thanh niên có tính tự trọng thấp thường gặp
nhiều khó khăn trong giao tiếp và cản trở sự phát triển nhân cách của lứa tuổi
này. Cách tốt nhất để giúp những thanh niên này không phải là phê phán họ
mà cần tổ chức cho họ hoạt động và giao tiếp, để thơng qua đó chúng có thể
trãi nghiệm thực tế. Bằng con đường tự trải nghiệm họ sẽ có thái độ đúng đắn
về bản thân mình.


13
Sự phát triển trí tuệ ở học sinh THPT có tính chủ định được phát triển
mạnh ở tất cả các q trình nhận thức. Về tri giác, thanh niên có độ nhạy cảm
cao, tri giác có mục đích đạt tới mức độ rất cao. Quan sát trở nên có hệ thống
và tồn diện hơn. Thanh niên có thể điều khiển được hoạt động của mình theo
kế hoạch chung và chú ý đến mọi khâu. Tuy nhiên tri giác của học sinh THPT
cần có sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát
vào một nhiệm vụ nhất định và yêu cầu các em không nên kết luận vội vàng
khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện cần quan sát. Về trí nhớ, ở tuổi thanh
niên, ghi nhớ có chủ định giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, mặt khác
vai trị của ghi nhớ lơgíc trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em đã biết
tài liệu nào cần nhớ chính xác, tài liệu nào chỉ cần hiểu mà không cần nhớ. Về
chú ý, học sinh THPT có nhiều thay đổi. Năng lực di chuyển và phân phối chú
ý cũng được phát triển và hoàn thiện một cách rõ rệt. Các em có khả năng vừa
nghe giảng, vừa chép bài, vừa theo dõi câu trả lời của bạn. Tuy nhiên, các em
không phải bao giờ cũng đánh giá đúng đắn ý nghĩa quan trọng của tài liệu
nên các em hay chú ý không chủ định khi giáo viên đề cập tới ý nghĩa thực
tiễn và sự ứng dụng tri thức nhất định vào cuộc sống. Về tư duy, do cấu trúc
não phức tạp và chức năng của não phát triển nên hoạt động tư duy của các
em tích cực, độc lập hơn. Các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu
tượng một cách độc lập, sáng tạo. Các em thích khái quát hóa, thích tìm hiểu

những quy luật và những ngun tắc chung của các hiện tượng hàng ngày,
của những tri thức phải tiếp thu. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ
và nhất qn hơn, tính phê phán của tư duy cũng phát triển.
Những đặc điểm này tạo điều kiện cho học sinh THPT thực hiện các
thao tác tư duy lơgíc, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và
nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, hiện
nay số học sinh THPT đạt mức độ tư duy như trên chưa nhiều. Thiếu sót cơ


14
bản trong tư duy của các em là thiếu tính độc lập. Giúp các em phát triển khả
năng độc lập là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên.
1.1.2. Khả năng,quan điểm và mục tiêu giáo dục kỹ năng sống trong môn
Ngữ văn ở trường THPT
1.1.2.1. Khả năng giáo dục kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn ở
trường THPT
Chúng ta biết rằng các em HS không phải là những chiếc bình cần đổ
đầy kiến thức mà các em là những ngọn đuốc cần thắp sáng, vậy hơn ai hết
GV dạy văn cần phải cố gắng giữ và thổi bùng ngọn lửa ấy trong tâm hồn các
em. Thông qua các giờ dạy, GV sẽ giúp cho HS có những khả năng tâm lí xã
hội, những bài học thiết thực gắn với đời sống để các em biết cách ứng xử,
ứng phó, thể hiện mình và trau dồi nhân cách, biết sống hữu ích, tránh những
va vấp trong cuộc đời.
Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên
cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt,
năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, mơn Ngữ văn
cịn giúp HS có được những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời
sống nội tâm của con người.
Chúng ta đều biết, trong các môn học trong nhà trường, môn Ngữ văn là
môn giúp học sinh phát triển khả năng ngôn ngữ nhiều nhất học sinh , phát

triển tư duy, năng lực liên tưởng và sáng tạo.. Chính ngơn ngữ mới là công cụ
vàng, vạn năng giúp thành công trong các hoạt động kinh doanh và giao tiếp
đời sống.
Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực
ngơn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người.
Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi
dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu
lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.


15
Vì thế, Ngữ văn là mơn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục các kĩ năng sống cho HS.
1.1.2.2. Quan điểm giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn
- Bám sát những mục tiêu giáo dục KNS, đồng thời đảm bảo mạch KTKN của giờ dạy Ngữ văn.
- Tiếp cận GDKNS theo hai cách: nội dung và phương pháp dạy học,
trong đó nhấn mạnh đến cách tiếp cận PP. Nghĩa là thông qua nội dung và
PPDH để giáo dục KNS cho học sinh chứ không phải tích hợp vào nội dung
bài dạy. Rèn luyện KNS cho HS thông qua các giờ học bộ môn.
- Đưa những nội dung GD tiêu biểu cho các dạng bài học, bên cạnh đó
có “độ mở” tạo điều kiện cho GV có thể phát huy tính linh hoạt trong việc
vận dụng các tình huống GD.
- Giáo dục KNS trong mơn học Ngữ văn, theo đặc trưng của môn học, là
giáo dục theo con đường “ mưa dầm thấm lâu” nhẹ nhàng, tự nhiên, không
gượng ép.
1.1.2.3. Mục tiêu giáo dục KNS trong môn Ngữ văn
Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông
- Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống
về văn học và tiếng Việt, bao gồm: Kiến thức về những tác phẩm tiêu biểu
cho các thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam và một số tác phẩm, đoạn

trích của văn học nước ngồi; những hiểu biết về lịch sử văn học, kiến thức về
lí luận văn học cần thiết; những kiến thức khái quát về lịch sử tiếng Việt, các
phong cách ngôn ngữ, những kiến thức về kiểu văn bản, đặc biệt là văn bản
nghị luận...
- Hình thành và phát triển các năng lực Ngữ văn: Năng lực sử dụng tiếng
Việt thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết; năng lực tiếp nhận văn học,
năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng lực thực hành ứng dụng.
- Bồi dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hố; tình u gia
đình, thiên nhiên, đất nước; lịng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lí


16
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ, nhân văn; nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế; ý thức tôn trọng, phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục KNS ở trường THPT thơng qua các giờ học Ngữ văn
theo phương pháp tích cực
- Về kiến thức:
+ Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như các
giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc sâu
kiến thức đã học về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà
trường và xã hội, về định hướng nghề nghiệp.
+ Nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân sống tự
tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển thể chất, tinh thần của bản thân và người khác.
+ Nhận thức được những giá trị cốt lõi làm nền tảng cho các KNS.
- Về kĩ năng:
+ Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt,
hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng ngày.
+ Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng

đắn trong cuộc sống.
+ Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác
trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống (tệ
nạn xã hội, HIV/AIDS, bạo lực, nạn xâm hại tinh thần, thể xác....); giúp HS
phòng ngừa những hành vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển của cá nhân.
- Về thái độ:
+ Hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các KNS mà bản thân đã
rèn luyện được đồng thời biết động viên người khác cùng thực hiện các
KNS đó.
+ Hình thành và thay đổi hành vi, nhất là những hành vi liên quan đến lối
sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, bạn bè, gia đình, cộng đồng.


17
+ Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà
trường và xã hội; có ý thức định hướng nghề nghiệp
1.2. Cở sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ
thông qua giờ dạy văn
1.2.1.1. Các biểu hiện về kỹ năng sống của học sinh hiện nay
Kĩ năng sống của học sinh THPT hiện nay còn:
- Đa phần các em chưa có kĩ năng xác định mục tiêu một cách rõ ràng.
- Kĩ năng hoạt động nhóm chỉ ở mức trung bình thậm chí yếu.
- Các em hầu như chưa tìm ra hướng giải quyết khi gặp khó khăn trong
học tập, cuộc sống và các vấn đề tâm lí.
- Hiện tượng bạo lực học đường ngày càng tăng.
- Khả năng giao tiếp chủ động còn hạn chế.
- Việc xác định vấn đề quan trọng của cuộc sống nhiều khi còn chưa rõ,
chưa đúng với chuẩn mực.
- Hầu như các em chưa có kĩ năng ra quyết định, mà chỉ quyết định các

vấn đề một cách cảm tính.
1.2.1.2. Nhận xét về thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong
nhà trường phổ thông hiện nay
- Ưu điểm: Học sinh cũng có những nhận thức nhất định về kĩ năng
sống, các em cũng có những kĩ năng sống cần thiết để có thể ứng phó với
thực tế cuộc sống, trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên đã đưa các nội
dung kĩ năng sống vào giáo dục học sinh đặc biệt trong các tiết sinh hoạt,
tiết hoạt động ngồi giờ, hay hoạt động ngoại khóa bên cạnh đó trong nhà
trường nhiều hoạt động liên quan đến kĩ năng sống đã được tổ chức thu hút
được đông đảo học sinh tham gia.
- Nhược điểm: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vẫn chưa được chú
trọng nhiều, thậm chí chưa được chú ý một cách đúng mức, việc tích hợp các
nội dung giáo dục kĩ năng sống chưa đạt hiệu quả.


18

1.2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng
- Với xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay,đặc biệt là đổi mới phương
pháp… tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống
vào trường học, việc sử dụng các phương pháp dạy học mới cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho học sinh dễ dàng bộc lộ những quan điểm, suy nghĩ cũng
như thể hiện mình đó là yếu tố thuận lợi để tìm hiểu và rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh.
- Sự phát triển mạnh của xã hội cho phép các em học sinh có thể rèn
luyện các kĩ năng sống từ thực tế một cách thuận lợi.
- Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vẫn chưa được chú trọng đúng
mức, thậm chí coi nhẹ, việc tích hợp các nội dung kĩ năng sống vào các tiết
học, mơn học cịn hạn chế.
- Chưa có bộ tài liệu chính về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

- Những hiểu biết về kĩ năng sống của nhiều giáo viên còn chưa đầy đủ
dẫn đến hiệu quả giáo dục thấp.
1.2.2. Những thuận lợi, khó khăn của việc dạy học văn học Việt Nam
trung đại ở trung học phổ thơng hiện nay
Văn học Việt Nam trung đại vừa có những tính chất phổ biến của văn
học nói chung, vừa có những tính chất đặc thù như là những sản phẩm
tinh thần ra đời trong hồn cảnh xã hội có những quan hệ đặc thù, có đặc
điểm riêng trong quan niệm về tự nhiên, về xã hội và về con người. Vì thế
trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh sẽ bắt gặp một số thuận
lợi và khó khăn khi truyền đạt và khi tiếp nhận văn bản.
1.2.2.1. Những thuận lợi
Văn học Việt Nam trung đại là một bộ phận văn học sử dụng chữ viết
từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Xét trong nội bộ lịch sử văn học Việt
Nam, đây là nền văn học lâu đời nhất. Đối với văn học Việt Nam trung


19
đại là nền văn học viết ra đời sớm nhất, có thời gian tồn tại dài nhất nên
có vai trị to lớn đối với việc hình thành và ni dưỡng những truyền
thống của văn học Việt Nam, có sứ mệnh quan trọng trong việc phản ánh
đời sống của đất nước, dân tộc và con người Việt Nam. Bởi vậy, trong
chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11
nói chung và phần văn học Việt Nam trung đại nói riêng được biên soạn
sau nhiều lần chỉnh lý và hợp nhất đã tiếp thụ được nhiều ưu việt và sửa
chữa được nhiều hạn chế của phần này trong các bộ sách trước. Các bài
khái quát về văn học Việt Nam trung đại vừa tinh giản vừa tập trung làm
rõ được những nội dung chính yếu. Trong thời lượng được quy định, các
tác giả biên soạn sách giáo khoa đã đưa vào những thể loại, những tác giả,
những văn bản đặc sắc của văn học Việt Nam trung đại. Những văn bản
được đưa vào dạy học là những văn bản đã được sàng lọc kỹ qua thời

gian. Đó là những tác phẩm tiêu biểu về chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
nhân đạo trong văn học Việt Nam trung đại vì thế rất gần gũi với người
Việt hôm nay. Đây là một thuận lợi cho giáo viên và học sinh khi được
dạy và học những tác phẩm hay, đặc sắc của nền văn học nước nhà.
Các bộ phận kiến thức được tổ chức chặt chẽ theo hướng tích hợp,
việc dạy học phần nào đó khơng chỉ là sự tiếp cận những kiến thức cô lập
mà thực sự gợi nhớ, củng cố cả những phần khác, giúp giáo viên và học
sinh tiếp nhận rộng và sâu hơn.
Việc biên soạn sách giáo khoa theo thể loại là một trong những thuận
lợi cho người giáo viên khi dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại.
Quan niệm văn chương, lí tưởng thẩm mỹ của xã hội đương thời ít đổi
thay dẫn đến ít đổi thay đã khiến cho chức năng, thi pháp, hình thức của
các thể loại được bảo lưu nhiều hơn so với hiện nay. Điều này phần nào
giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ và phân biệt sự khác nhau giữa các thể
loại, tránh những nhầm lẫn khơng đáng có xảy ra.


20
Chương trình Ngữ văn nói chung và phần văn học Việt Nam trung
đại nói riêng đã chú trọng sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành, chú ý
phát triển cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết của học sinh, từ đó tạo sự
chủ động, sáng tạo cho học sinh.
1.2.2.2. Những khó khăn
Việc dạy và học văn học Việt Nam trung đại đến nay vẫn cịn nhiều
khó khăn. Có nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, những tác phẩm ấy đều viết bằng ngơn ngữ Hán văn cổ hay
chữ Nơm có phần xa lạ với ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại hôm nay. Thêm
vào đó là người tiếp nhận văn bản phải có một kiến thức nền khả dĩ, ít
nhiều phải hiểu rõ mơi trường văn hố trung đại, ý thức hệ thời trung đại,
điển cố điển tích, thể loại văn học...

Thứ hai, tài liệu giảng dạy và học tập các tác phẩm văn học Việt
Nam trung đại khơng nhiều, thậm chí có những tài liệu viết rất qua quýt,
mỗi sách đưa ra một cách hiểu, cách cảm khác nhau khiến cho giáo viên
và học sinh bị phân tâm, khó biết đúng.
Thứ ba, tuy cách viết sách giáo khoa đã có những ưu việt về việc
phân chia thể loại, nhưng do đưa ta những khái niệm, kiến thức về thể loại
vẫn rất sơ sài, ít tác dụng đối với việc đọc - hiểu, hoặc đọc thêm văn bản
văn học Việt Nam trung đại. Điều này ảnh hưởng đến việc cung cấp kiến
thức thể loại cho học sinh.
Ngoài ra, một điều dễ nhận thấy là hiện nay rất ít học sinh yêu thích
các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại. Qua khảo nghiệm của chúng tôi
ở ba trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Mậu, Quỳnh Lưu 1 trong
địa bàn huyện Quỳnh Lưu, hầu hết các học sinh đều cho rằng các văn bản
văn học Việt Nam trung đại ra đời cách đây rất lâu trong điều kiện vật
chất, tinh thần có nhiều điểm khác biệt lớn với hôm nay nên các em cảm
thấy xa lạ và khó cảm thụ hết được cái hay cái đẹp, nhất là những tác


21
phẩm được viết bằng chữ Hán, các em phải học qua các bản dịch với
những từ cổ, với những điển tích, điển cố mà khơng phải từ nào cũng
được giải thích một cách dễ hiểu. Đây cũng là một khó khăn hết sức thực
tế mà mỗi giáo viên đều có thể gặp phải khi truyền thụ tác phẩm văn học
cổ cho học sinh.
Văn học Việt Nam trung đại là một trong những bông hoa rực rỡ
trong vườn văn học nước nhà, nó góp phần làm cho nền văn học Việt Nam
phong phú. Thế nhưng để thưởng thức hương thơm và vẻ đẹp của nó thật
khơng dễ chút nào bởi nó địi hỏi người dạy và người học phải có đầy đủ
vốn hiểu biết về lịch sử thời đại, vốn chữ nghĩa, khả năng cảm thụ sâu
sắc. Vì thế, trước những khó khăn trên, thiết nghĩ người giáo viên cần

phải cố gắng hơn trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cũng như thổi
niềm đam mê cho học sinh, để các em có niềm tự hào về nền văn học Việt
Nam trung đại và yêu thích hơn các tác phẩm văn học ra đời trong thời kì
xã hội phong kiến cách xa các em bao thế kỉ.
Như vậy, văn học thời trung đại Việt Nam đóng mọi vai trị hết sức quan
trọng là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và sáng tạo thời kỳ sau. Trải qua
sự phát triển gần mười thế kỷ đã có những cống hiến và đóng góp rất thiết
thực cho cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Làm giàu và đẹp hơn
tinh thần, con người Việt. Định hướng giáo dục và rèn luyện tư tưởng, tâm
hồn cho các thế hệ mai sau.
1.2.3. Vị trí và cấu trúc chương trình của việc dạy học văn học
Việt Nam trung đại ở trường trung học phổ thơng
1.2.3.1. Vị trí của việc dạy văn học Việt Nam trung đại ở trường trung
học phổ thơng
Xét trong tồn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học Việt Nam
trung đại có một vị trí quan trọng, bởi suốt hàng nghìn năm phát triển, văn
học trung đại Việt Nam đã phản ảnh được con người Việt Nam, đất nước


22
Việt Nam, đồng thời là ý thức người Việt về Tổ quốc, dân tộc. Nền văn
học ấy đã nảy sinh từ chính q trình đấu tranh dựng nước, giữ nước vĩ
đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào q trình đấu
tranh này. Chính từ văn học trung đại, những truyền thống lớn của văn
học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động
của văn học hiện đại chính vì vậy văn học việt nam trung đại có vị trí vơ
cùng quan trọng đối với tiến trình phát triển của văn học nước nhà cũng
như trong trường trung học phổ thông .
Nếu đã từng thực sự biết khám phá, hiểu sâu và lĩnh hội hết những giá trị
tư tưởng cũng như nghệ thuật của những tác phẩm văn học, chắc hẳn ai cũng

có thể nhận thấy những chức năng đặc thù của văn học trong việc bồi đắp tâm
hồn, hình thành nhân cách học sinh.Văn học trang bị những cảm xúc nhân
văn, giúp con người hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có Văn học mà đời
sống tinh thần của con người ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm
hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn
ra xung quanh mình hàng ngày, trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng
quan trọng khi chúng ta đang sống trong guồng quay hối hả của cuộc sống
hiện đại. Văn học bồi đắp cho học sinh lòng yêu nước, thái độ trân trọng
truyền thống, và ngôn ngữ mẹ đẻ... Thời nào cũng vậy, tác phẩm Văn học
chân chính có khả năng kì diệu là thanh lọc tâm hồn con người, làm người
“gần người hơn”. Đọc Truyện Kiều, ta xót xa thương cảm cho số phận cay
đắng, nghiệt ngã của người con gái tài sắc. Đó là dấu hiệu của một tâm hồn
nhân ái, giàu lịng trắc ẩn. Mơn Ngữ văn cịn có vai trị quan trọng trong việc
rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt, cách thức tạo lập các loại văn
bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên mọi lĩnh vực của mỗi người trong


×