Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong bối cảnh hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.1 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tiễn ngày càng chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong hơn 70 năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(6/1991) khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng". Các đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng chỉ rõ: "tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tạo điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc”, trong đó tư tưởng Hồ Chí
Minh về đồn kết quốc tế có vị trí đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế biến đổi nhanh chóng và xu thế tồn cầu
hóa đang gia tăng, khơng một quốc gia nào có thể phát triển mà lại khơng mở rộng
quan hệ đồn kết, hợp tác với các nước khác. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát triển và nâng cao vị thế
của mình trên trường quốc tế, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng
đoàn kết hợp tác theo tinh thần "Việt Nam sẵn sàng làm bạn là đối tác tin cậy của

1


các nước trong cộng đồng quốc tế”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế có
ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Chính vì vậy em lựa chọn đề tài :"Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc
tế và việc vận dụng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay" làm chủ đề
cho tiểu luận thi kết thúc học phần mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phần I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế


1. Những nhân tố hình thành chiến lược đồn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh
1.1. Tiếp thu truyền thống đồn kết của dân tộc
Vào giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị ở
Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Giai cấp tư sản tăng cường áp bức,
bóc lột giai cấp cơng nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản trở nên gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khẳng định quy luật diệt
vong của chủ nghĩa tư bản, khẳng định sự thắng thể của chủ nghĩa cộng sản, đồng
thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, và nêu lên khẩu hiệu chiến
lược: “Vơ sản tất cả các nước, đồn kết lại”.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Vì
lợi nhuận, các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và căn bản đã hoàn thành
việc phân chia thế giới khắp các châu lục. Từ đó, các nước thuộc địa bị các nước đế
quốc áp bức, bóc lột với chế độ cai trị hà khắc. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc
địa là làm thế nào để được giải phóng, thế giới hình thành mâu thuẫn mới, mâu
2


thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc thực dân, trở thành điều kiện
khách quan cho phép phong trào các mạng mở thuộc địa gắn bó với phong trào
cách mạng ở chính quốc.
Sang thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra, dẫn đến những chuyển biến
trong tình hình quốc tế, dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918),
làm cho mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong
trào đấu tranh của công nhân các nước đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ.
Trước tình hình đó, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển
chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vơ sản
có thể thành công ở một số nước, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải

phóng các dân tộc thuộc địa, về sự đồn kết giữa giai cấp vơ sản ở các nước đế
quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi những
điều kiện lịch sử đó. Vào giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước
ta. Trước hành động của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà
Nguyễn đã hèn nhát, dâng nước ta cho Pháp. Thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa, bóc lột nhân dân ta. Dưới chế độ cai trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt
Nam có nhiều biến đổi sâu sắc. Trước tình hình đó, phong trào yêu nước của nhân
dân Việt Nam chống Pháp phát triển mạnh mẽ theo hai khuynh hướng, khuynh
hướng phong kiến và dân chủ tư sản. Nhưng sau một thời gian phát triển rầm rộ,
các phong trào cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp của thực dân Pháp.
Vượt qua sự hạn chế của lịch sử, cùng với những đòi hỏi cấp bách của cách
mạng Việt Nam lúc đó, Hồ Chí Minh đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc khơng chỉ ở Việt Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa.

3


Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến tận mắt cuộc
sống lầm than của dân ta dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, và sự thất bại của
phong trào chống Pháp của các bậc tiền bối. Điều đó giúp cho Người nhận rõ hơn
bản chất dã man của bọn thực dân và cũng làm cho Người sớm nhận thấy được sức
mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân khi được tổ chức lại. Từ đó, Người suy nghĩ
và cân nhắc đến con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã
quyết chọn cho mình hướng đi mới, đến các nước phương Tây, nơi có trào lưu “tự
do, bình đẳng, bác ái” để tìm cách mới rồi về giúp đồng bào mình.
Trước lúc ra đi tìm chân lý cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu truyền
thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, am hiểu vốn văn hố phương Đơng, một
phần văn hố phương Tây. Đó là vốn q, là cơ sở quan trọng để tiếp thu chân lý
cách mạng, là nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành chiến lược đồn kết quốc tế

của Hồ Chí Minh.

1.2. Thực tiễn q trình bơn ba tìm đường cứu nước khắp các châu lục
Trước bối cảnh thế giới đầy biến động và những địi hỏi cấp bách của cách
mạng Việt Nam thì năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm
bạn đồng minh. Ý nghĩ này xuất hiện ở anh từ rất sớm: “Khi tôi độ tuổi mười ba,
lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng
tơi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy,
tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau
những chữ ấy”. Đó là mục tiêu của Người, muốn “trở về giúp đồng bào”, thì trước
hết phải hiểu đầy đủ kẻ thù đang áp bức dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh đất đã
sản sinh ra nó. Đây là sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những người sang Pháp
hổi đó.

4


Trong khoảng thời gian từ năm 1911 – 1920, trải qua q trình gần 10 năm
bơn ba ở nhiều nước khác nhau, được chứng kiến tận mắt cuộc sống lầm than của
nhân dân ngay trên chính mảnh đất giàu có và ở ngay cả “Mẫu quốc”. Từ đó Người
nhận thức rõ hơn về bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc, ở Pháp Người nhận ra rằng:
“ở đó cũng có những người nghèo như ở bên ta”, và Người tự hỏi: “Tại sao người
Pháp khơng “khai hố” đồng bào của họ trước khi đi “khai hoá” chúng ta”. Những
nhận xét đó dẫn Người tới cảm nhận về lực lượng xã hội là bạn đồng minh của các
dân tộc thuộc địa, là cơ sở quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về sự đoàn kết
của nhân dân Việt Nam, các nước thuộc địa với nhân dân lao động, giai cấp cơng
nhân Pháp và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã dừng chân
lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp. Người nhận thức sâu sắc
bộ mặt thật và bản chất của chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chế độ

thực dân là ăn cướp”, “là hiếp dân và giết người”, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của nhân dân lao khổ trên toàn thế giới. Do đó, nhân dân các nước thuộc địa
phải đồn kết với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù chung. Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vơ
sản, giải phóng dân phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai
cấp cơng nhân: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới”.
Bên cạnh đó Người cũng nhận định rằng, “dù màu da có khác nhau, trên thế
giới chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà
cũng chỉ một tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản”. Đến đây, vấn đề bạn,
thù ở Nguyễn Ái Quốc đã được xác định dứt khoát, rằng áp bức giai cấp và áp bức
dân tộc có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc.
5


Như vậy, cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục là cơ sở thực tiễn
quan trọng trong quá trình hình thành chiến lược đồn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh.

1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin với đường lối của Quốc tế Cộng sản
Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí
sắc bén để đấu tranh, đó là viết báo, tham gia các buổi mít tinh, thảo luận. Trong
đó, Người đều đề cập đến vấn đề đồn kết quốc tế. Người nói: “Trong các cuộc bàn
cãi, người ta rất ít nói đến sự đồn kết với các dân tộc thuộc địa. Nhưng đó lại là
vấn đề mà người ta quan tâm hơn cả”.
Tại đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12 – 1920,
Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Đông Dương thuộc địa, đồng thời là đại biều duy
nhất về vấn đề thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội, Người yêu cầu Đảng phải đoàn kết,
ủng hộ cách mạng thuộc địa: “Tôi đến đây, để cùng với các đồng chí góp phần vào

sự nghiệp cách mạng thế giới... Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất
cả các nước thuộc địa”. Lời phát biểu ngắn gọn của Nguyễn Ái Quốc đã quán triệt
tư tưởng chiến lược của Lênin về đồn kết giữa cách mạng chính quốc với cách
mạng thuộc địa.
Quyết định sáng suốt đó của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào lưu phát triển
của lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại biểu của
các dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập đội tiên phong của giai cấp công nhân ở
một nước đế quốc lớn đang áp bức các dân tộc thuộc địa. Bằng những hoạt động,
việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc nêu cao ngọn cờ đồn kết quốc tế, từ đoàn kết các
dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đồn kết giai cấp vơ sản ở chính quốc với giai cấp
vơ sản thế giới.

6


Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản là nhân
tố quan trọng nhất, nhân tố quyết định hình thành chiến lược đồn kết quốc tế của
Nguyễn Ái Quốc. Trải qua những năm tháng bơn ba, tìm đường cứu nước, Người
đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa vô sản, từ một nhà yêu nước trở thành
chiến sĩ chân chính.

2. Những vấn đề cơ bản trong chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí

Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang tính
thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và
tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự
cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đồn kết của ý chí đấu tranh anh dũng, bất
khuất cho độc lập, tự do. Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử
thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh ln có niềm tin bất diệt vào
sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối của cách mạng, Người vẫn

7


bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân
tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh
sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ
đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các
trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức
mạnh to lớn. Sức mạnh đó ln được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận
động, phát triển không ngừng của lịch sử tồn thế giới và tiến trình chính trị quốc tế
sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩaTháng Mười Nga 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể
thành cơng và thành cơng đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào
cách mạng thế giới. Cùng với sự phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới
đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Đối tượng đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là
đồn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của

giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước.

2.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế
Khái niệm đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song
tập trung chủ yếu vào ba lực lượng: phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hồ bình, dân chủ thế giới,
trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược
Việt Nam.
8


Đối với phong trào Cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nịng cốt của
đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đồn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế
là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản. Do đánh giá rất
cao vai trị của khối đồn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 năm 1920, tại
Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể
loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phải hữu lẫn phải tả, chúng tơi
kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tơi”. Tiếp nhận học thuyết Lênin, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tìm thấy
“cải cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của các dân tộc bị nô dịch. Đồng
thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ cơng cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào Cộng sản và công nhân thế
giới, là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa; là Quốc tế thứ III và sau
này là Cục thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm lực,
phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất
trong phong trào Cộng sản và cơng nhân quốc tế.
Chủ trương đồn kết giai cấp vơ sản các nước, đồn kết giữa các Đảng Cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trị của giai cấp vô
sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi tồn thế giới. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực

lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động tồn thế giới.
Trong hồn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đồn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng
hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là
anh em” mới có thể chống lại được, sự đồn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một
bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: từ rất sớm Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước để quốc, tạo sự biệt lập, đối
kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải
9


phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh đã kiến nghị Ban Phương Đông
Quốc tế cộng sản về những biện pháp nhằm “Làm cho các dân tộc thuộc địa hiểu
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,
khối Liên minh này sẽ là một trong những cái bánh của cách mạng vô sản”; và phải
làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vơ sản
phương Tây, vì chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành thắng lợi cuối cùng.
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người u chuộng hịa bình, dân chủ, tự
do và cơng lý Hồ Chí Minh cũng tìm cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới
của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã
gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự do, cơng
lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ thù
hùng mạnh cũng bởi nhờ tồn dân ln đồn kết một lịng, đồng thời nhận được sự
đồn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em,
bạn bè khắp thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày thắng lợi “sẽ
thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ
nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc

chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”.
Đã nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp phong trào
cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các
dân tộc khác bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp
cơng nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.

10


2.3. Hình thức tổ chức đồn kết quốc tế
Đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề sách
lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính ngun tắc, một đòi hỏi
khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924 Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt Trận thông nhất của nhân dân chính
quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản
cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI (1928), quan điểm này trở thành sự thật.
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị - xã hội
trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong
mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc
tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đơng Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm
1941 để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định
thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao
Miên tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình
thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào (Mặt trận nhân dân ba nước Đông
Dương) phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.

Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với
Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam,
thực hiện đồn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc
lập. Với các dân tộc Châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền
hịa bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với
11


vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với
việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của
mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng
lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận
nhân dân Á Phi đoàn kết với Việt Nam.
Thiết lập mặt trận đối với các lực lượng u chuộng hịa bình cơng lý. Trong
những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt động ngoại giao
không mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và các lực lượng
đồng minh phát xít, đồn kết với nhân dân tiến bộ ở các nước trên thế giới, kể cả ở
Mỹ và Pháp, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống
đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đồn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
đặt cơ sở cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc,
Mặt trận đoàn kết Việt - Miên – Lào, Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt
Nam, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Đây thực sự là phát triển rực rỡ và thắng lợi to lớn của tư tưởng đại đồn kết của
Hồ Chí Minh.

2.4.Ngun tắc đồn kết quốc tế

Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết
quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động
quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt
12


lõi có tính ngun tắc trong cơng tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh
đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh
chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng
thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài
người tiến bộ.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách
mạng thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực
lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và cơng nhân quốc tế thì đồn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan
trọng nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc
đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng,
thực hiện sự đồn kết đó phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán
triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
“Có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành
với chủ nghĩa Mác – Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt
động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. “Có tình” là sự thơng cảm,
tơn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng,
cùng chung mục tiêu đấu tranh: phải khắc phục tư tưởng sôvanh, “nước lớn”, “đảng

lớn”, khơng “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, cơng khai cơng kích nhau, hoặc dùng các
giải pháp về chính trị, kinh tế… gây sức ép với nhau. “Có tình” đòi hỏi trong mọi
vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích

13


của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tơn trọng, song lợi ích đó khơng
được tổn hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý, có tình” vừa thể hiện tính ngun tắc, vừa là một nội dung của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất
lớn khơng chỉ trong việc củng cố khối đồn kết quốc tế của giai cấp cơng nhân mà
cịn củng cố tình đồn kết trong nhân dân lao động.
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người
khơng chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu
tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc
lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi
xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong
việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau,
thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng
lợi của cách mạng mỗi nước.
Giương cao ngọn cờ hịa bình và đấu tranh bảo vệ hịa bình là tư tưởng bất di
bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó khơng phải là một nền hịa bình trừu tượng,
mà là “một nền hịa bình chân chính xây trên cơng bằng và lý tưởng dân chủ”,
chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong
suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hịa bình trong cơng lý, lịng thiết tha hịa
bình trong sự tơn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân
dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa lơi kéo
các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam địi chấm dứt chiến

tranh. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân
Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần
kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
14


Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ cách mạng đặt ra. Để đồn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết
định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thơng qua nguồn lực
nội sinh. Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh ln nêu cao khẩu
hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì
trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền,
Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”‘. Trong quan hệ quốc tế,
Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng,
chiêng có to tiếng mới lớn.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngồi, Người
nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tơi, khơng
có sự can thiệp ở ngồi vào”. Trong quan hệ giữa các dân thuộc phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và
bình đẳng, đồng thời đồn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng
lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường lối độc lập, tự chủ, giương cao hai ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hịa lợi ích dân tộc và lợi ích
quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt

Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những
bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự
15


đồn kết của Việt Nam với Liên Xơ và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế
quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội
chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân
thế giới ủng hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

Phần II: Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết quốc tế trong bối cảnh hội nhập
Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay được
xác định và thực hiện với tư cách là một bộ phận của chiến lược xây dựng, phát
triển và bảo vệ đất nước, làm cầu nối nước ta với thế giới, gắn sự nghiệp của toàn
thể dân tộc ta với trào lưu phát triển và tiến bộ của thời đại. Những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế được vận dụng trong chính sách
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trong chủ trương xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, đã nhận thức đúng đắn tính chất của thời đại, nhận biết những mẫu thuẫn cơ
bản, chiều hướng diễn biến thời cuộc, tranh thủ và phát huy được các điều kiện, cơ
hội thuận lợi mà tình hình mới đưa lại, chúng ta đã chủ động tham gia hội nhập khu
vực và thế giới với lộ trình cụ thể, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước và khả
năng thực tế của dân tộc mình, khai thác những thuận lợi đồng thời hạn chế những
tác động tiêu cực từ bên ngoài đối với sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước.
Trong một thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn, hài hòa quan hệ của
nước ta với các nước láng giềng và các nước lớn tiếp tục được coi trọng trong chính

sách đối ngoại của Việt Nam.

16


Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên mọi lĩnh vực. Quan điểm này thể hiện quyết tâm của chúng ta đưa các
mối quan hệ đã được mở rộng đi vào chiều sâu, tích cực hội nhập quốc tế, phấn đấu
tham gia ngày càng nhiều vào công việc quốc tế.
Kiên trì chủ trương Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế. Đại hội VIII đã đưa ra khẩu hiệu: Việt Nam muốn là bạn
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát
triển. Đại hội IX bổ xung và phát triển khi nêu: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới” trong đó đã có thêm “sẵn sàng là
bạn” và “là đối tác tin cậy”. Hội nghị Trung ương 4 khóa X nêu rõ “Những ai chủ
trương tơn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực
nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt
cần tranh thủ, hợp tác, trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt mẫu thuẫn với
ta...”. Như vậy Đảng ta đã có sự đổi mới về vấn đề địch - ta , đối tượng - đối tác
theo tinh thần “thêm bạn bớt thù” của Hồ Chí Minh.
Trước tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động như hiện nay, để
thực hiện tốt đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại nêu trên, một trong những nội
dung quan trọng là phải tiếp tục vận dụng tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh một
cách sáng tạo và phù hợp.
Trước hết, phải xác định rõ mục tiêu đoàn kết trong giai đoạn hiện nay của
cách mạng nước ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Do vậy, cần khai thác mọi khả năng có thể có trên phạm vi quốc gia và quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, với những quan hệ đa chiều. Phải gắn

kết lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế, phải có những chủ trương chính sách đúng
17


đắn mới có thể tranh thủ và tận dụng được mọi khả năng, cơ hội để phát triển, bên
cạnh đó, phải khơi dậy ở dân tộc ta cũng như dân tộc khác nỗi nhục đói nghèo, nỗi
đau lạc hậu, tăng cường tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc cùng vươn tới
hịa bình, ấm no, hạnh phúc và văn minh trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
cùng có lợi, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc, của sự can thiệp, áp đặt
từ bên ngồi. Song song với đó là cần triển khai đồng bộ các chính sách, các giải
pháp trên bình diện quốc gia và quốc tế về đoàn kết dân tộc và đồn kết quốc tế để
làm cho mục tiêu đó thấm nhuần vào tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của người Việt
Nam và bạn bè quốc tế.
Thứ hai, đoàn kết phải là hội nhập với cộng đồng quốc tế, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh cùng tồn tại hịa bình, Hồ Chí Minh đã coi cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, hoạt động đoàn kết quốc tế của Người là gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan
hệ quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Người nêu rõ: Việt Nam muốn “làm
bạn với mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với ai”. Vận dụng quan điểm đó,
hiện nay chúng ta phải tiếp tục mở cửa, hội nhập, là bạn với tất cả các nước với
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế,
chúng ta chủ trương hướng tới tương lai, tạo nên sự tin cậy với các nước. Tuy
nhiên, chúng ta cũng cần chống sự “hội nhập” vô nguyên tắc, hội nhập đi đến hòa
tan, đánh mất chủ quyền và bản sắc dân tộc. Hội nhập phải đi theo lộ trình và bước
đi thích hợp. Hội nhập quốc tế vì lợi ích chung của cách mạng thế giới, Việt Nam
góp phần cùng nhân loại tiến bộ đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của các dân
tộc, đấu tranh cho hịa bình, ổn định và phát triển. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế
Việt Nam cịn tích cực tham gia vào việc giải quyết những vấn đề mang tính tồn
cầu, vì đây vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là nhiệm vụ dân tộc.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự

chủ, tự lực, tự cường. Chúng ta xây dựng đất nước phải bằng chính sức lực và trí
18


tuệ của con người và đất nước Việt Nam, không thể chờ vào viện trợ, cho khơng từ
nước ngồi. Tuy nhiên độc lập dân tộc không phải là biệt lập cơ lập, co mình lại,
khép kín, khơng quan hệ, hẹp hịi, biệt phái. Nhưng càng mở rộng, đồn kết quốc
tế, chúng ta càng phải giữ độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường, khơng lệ thuộc từ bên
ngồi. Khai thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của đất nước là điều kiện cơ bản để
mở rộng quan hệ hợp tác sẽ góp phần củng cố, tăng cường thế độc lập tự chủ của
mình. Đó là hai mặt của một vấn đề, chúng tác động qua lại và quan hệ biện chứng
với nhau. Như vậy quan niệm về độc lập dân tộc của của Đảng Cộng Sản Việt Nam
hiện nay là quan hệ mở và động, luôn kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc, tự chủ kết hợp chặt chẽ với tiếp thu sức mạnh của thời đại để xây dựng và phát
triển đất nước. Việt Nam tuyên bố là bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng
chủ quyền của quốc gia, tăng cường hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối
quan hệ quốc tế chính là q trình tìm kiếm động lực cho sự phát triển đất nước,
giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia trong bối cảnh đầy thách thức của xu thế
tồn cầu hóa.
Thứ tư, chúng ta phải coi trọng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Bởi, chỉ có sức mạnh bên trong, chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng
được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng
lợi mục tiêu của cách mạng. Trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay,
chúng ta càng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, thành tựu khoa học
- công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, gia nhập thị trường quốc tế,
nhưng phải trên cơ sở phát huy đầy đủ yếu tố nội dung, bao gồm các yếu tố: con
người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống (lịch sử văn hóa).

19



KẾT BÀI
Việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đồn kết Quốc
tế” có ý nghĩa to lớn và mang nhiều giá trị thực tiễn với tình hình hội nhập thế giới
của Việt Nam hiện nay. Để áp dụng tư tưởng trên, trước hết đất nước chúng ta cần
phải xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên chính đất nước chúng ta. Để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, địi hỏi đảng,
nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mặt trận dân tộc Việt Nam
chủ trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên trong xã hội có
thể đồn kết được, không phân biệt quá khử, thành phần giai cấp, dân tộc, tơn giáo,
ở trong nước hay nước ngồi trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống
nhất chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đoàn kết giữa nhân dân với nhân dân các nước
trên thế giới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành động lực
chủ yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Khơi dậy và phát huy cao độ
sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để
xây dựng, phát triển đất nước. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của
kinh tế thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh
làm phai nhạt truyền thống đồn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc,
giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa nơng thơn và thành thị,
củng cố khối đại đồn kết 54 dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít
người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tơn trọng tín ngưỡng tơn giáo, các tập quán tốt
đẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây
rối. Phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và phải chống các tệ
nạn xã hội.

20



Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn cầu hóa kinh tế
ngày càng phát triển, địi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng
các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có ngun
tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của đảng và nhà nước ta
là Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, địi hỏi chúng ta phải có những chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ,
để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra Đảng và Nhà Nước ta phải chủ trương phát
huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của
người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà
tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngồi.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Bình Nhưỡng, Trái tim nhân ái, tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn Việt
Nam, số 3-2000.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000.
3. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh,
Nxb Văn hóa, 1996.

21


22



23



×