Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

nguyên lý chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.27 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thường được đo bằng những thiên
niên kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm tháng, ngày giờ. Nhưng còn một cách đo khác sâu sắc
hơn và có ý nghĩa hơn nhiều là xác định sự phát triển xã hội bằng những chuyển
biến, những thay đổi có tính bước ngoặt được bắt đầu từ những sự kiện đặc biệt báo
hiệu sự chuyển hóa về chất của đời sống xã hội. Đó là cách phân định xã hội bằng
thời đại, là việc dựa vào những tiêu chí nhất định để phân kỳ lịch sử và đặt tên cho
nó.
Việc nhận thức rõ và xác định đúng thời đại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì
nó giúp ta biết được những nấc thang phát triển của xã hội, nắm được yếu tố có tính
ổn định trong một thế giới đầy biến động, tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn
những hiện tượng phức tạp mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đặc biệt là mỗi Đảng Cộng sản Mác-xít Lê-ninnít rất cần phải biết mình đang sống ở thời đại lịch sử nào với những đặc điểm, tính
chất, nội dung, xu thế phát triển của nó ra sao. Biết được như vậy cũng là hiểu rõ ta
đang sống ở đâu và sẽ đi tới đâu, giúp ta nhìn xa trơng rộng, nắm bắt khuynh hướng
phát triển và quy luật xoay vần của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi
phù hợp với sự phát triển của lịch sử; vừa dự báo, và đoán định tới mức lường
trước được những thách đố phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường
đi, từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của đời
sống chính trị quốc tế. Có như vậy, đất nước sẽ phát triển mạnh mẽ, thốt được khó
khăn nghèo đói; bình n cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.

1


NỘI DUNG
1. Quan niệm về thời đại
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã có nhiều nhà tư tưởng đưa ra quan điểm
của mình về thời đại và phân chia lịch sử xã hội loài người thành những thời đại từ
thấp đến cao.
Nhà Triết học Cổ điển Đức (Hêghen), căn cứ vào địa chính trị, địa kinh tế


phân chia lịch sử xã hội thành 3 thời kỳ chủ yếu: Phương Đông, Cổ đại và Giéc
manh.
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp (Phuriê), căn cứ vào sự tiến bộ của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất giữa người với người trong quá trình sản
xuất, đã phân chia lịch sử xã hội lồi người thành 4 thời kỳ: Mơng muội, dã man,
gia trưởng và văn minh.
Nhà nhân chủng học người Mỹ (Mc – Gan), căn cứ vào tình trạng hôn
nhân, phân chia lịch sử xã hội thành các thời đại: Mông muội, dã man và văn minh.
Khi nghiên cứu sự phát triển của lịch sử loài người, đặc biệt là nhìn vào lịch
sử phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất qua mỗi giai đoạn, Alvin
Toffler chia nền văn minh làm ba phần, hay còn gọi là ba làn sóng. Làn sóng thứ
nhất với giai đoạn văn minh nơng nghiệp, làn sóng thứ hai với giai đoạn văn minh
cơng nghiệp, làn sóng thứ ba với giai đoạn văn minh hậu công nghiệp.
Sự phân chia các thời đại trong lịch sử nhân loại là một công việc khơng đơn
giản, xuất phát từ những cơ sở, tiêu chí khác nhau. Có nhiều cách phân chia và cách
hiểu về thời đại.
Cách phân chia thời đại dựa trên những tiêu chí kỹ thuật như thời đại đồ đá,
thời đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy móc hơi nước, thời đại tên lửa,
vũ trụ và thời đại tin học…

2


Nhìn chung, những cách phân chia nêu trên đều có sự khái quát cao, đều có
những căn cứ và có những yếu tố hợp lý nhất định, nhưng tất cả đều là cách nhình
phiến diện, mới chỉ nhấn mạnh được một vài khía cạnh của sức sản xuất, khơng chỉ
ra được tính chất tổng hịa của đời sống xã hội và đặc biệt là khơng nêu được động
lực chính của sự phát triển lịch sử xã hội.
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên ở mỗi ngành khoa học,

mỗi phương diện cơng tác khác nhau có cách gọi tên và phân chia thời đại khác
nhau.
Dưới góc độ của mơn CNXHKH, chúng ta chỉ nghiên cứu thời đại về mặt
chính trị - xã hội chứ không nghiên cứu những lĩnh vực khác. Do vậy, việc phân
chia lịch sử xã hội loài người thành các thời đại dựa trên các cơ sở, tiêu chí:
Thứ nhất, căn cứ vào sự xuất hiện của một hình thái kinh tế - xã hội mới
Lúc nào có một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời, nó sẽ mở ra một thời
đại mới cho lồi người. Lồi người có 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với nó
có 5 thời đại lịch sử.
Thứ hai, căn cứ vào sự thay đổi của vị trí trung tâm của giai cấp trong xã hội
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, một hình thái kinh tế - xã hội
có một giai cấp giữ vai trò thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó. Giai
cấp ở vị trí trung tâm phải là giai cấp tiên tiến, đại diện cho xu hướng vận động của
lịch sử, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ, thiết
lập chế độ mới và mở ra thời đại mới.

3


Dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
phân tích xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê-nin đã xem xét vấn đề
thời đại một cách khoa học, phù hợp với sự vận động phát triển của lịch sử lồi
người. Các ơng đã coi hình thái tồn tại của thực tế xã hội là hình thái kinh tế - xã
hội và quá trình phát triển của xã hội là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao. Theo Mác và Ăng-ghen, lịch sử phát triển xã hội loài người cho đến thế kỷ
XIX là các hình thái: cộng sản ngun thủy, chiếm hữu nơ lệ, phong kiến và tư bản
chủ nghĩa. Từ đó, các ông đã rút ra kết luận là hình thái kinh tế -xã hội cộng sản
chủ nghĩa tất yếu sẽ thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, có thể hiểu thời đại theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng,
thời đại là một khái niệm chính trị - kinh tế - xã hội khái qt tiến trình phát triển của

lịch sử lồi người, là thời gian rất dài để chỉ sự phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt
những nấc thang phát triển của hình thái kinh tế xã hội mà theo đó nấc thang cao
hơn, tiến bộ hơn sẽ phủ định nấc thang cũ, lạc hậu để mở đường cho sự phát triển
một thời đại mới. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nhân loại bắt đầu một thời đại
mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
Thời đại theo nghĩa hẹp là khái niệm về thời gian để chỉ xu thế và nội dung
phát triển trên các phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, cơng nghệ…
2. Nội dung thời đại ngày nay
Theo quan điểm của Lê-nin, nội dung thời đại mới - thời đại ngày nay, là xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội là hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài, được bắt đầu từ nước Nga
sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, và sau đó là nhiều nước khác trên thế giới.
Vào những năm 1957 và 1960, Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công
nhân họp ở Mátxcơva, trên cơ sở tiếp thu ánh sáng tại di huấn của Lê-nin, đúc rút
kinh nghiệm từ thực tiễn sinh động của cách mạng thế giới, đã xác định: Nội dung
4


căn bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
mở đầu bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm rung chuyển thế giới, đã phá
tung một khâu yếu nhất của sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, mở đầu cho một
thời đại mới, hình thành một hình thái kinh tế - xã hội mới, khác với hình thái kinh
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Đồng thời cũng là bước ngoặt đánh dấu vai trị trung
tâm lịch sử của giai cấp cơng nhân đã thay thế giai cấp tư sản lỗi thời lạc hậu.
Nội dung thời đại có hai vấn đề mấu chốt. Một là, thời đại hiện nay là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hai
là, thời đại được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Nhận định về nội
dung thời đại như vậy là sự khái quát mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, đầy tính

thuyết phục, đã được sự nhất trí cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Tại sao lại khẳng định nội dung thời đại hiện nay là sự quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, nói đến thời đại mới ra đời thay thế thời đại cũ,
được thể hiện tập trung ở nội dung bản chất của quá trình thay thế hình thái kinh tế
- xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Thực tế chứng minh, khi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng
lợi, đánh dấu sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa
tuy chưa hồn thiện nhưng tỏ rõ tính ưu việt và hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Song,
hình thái kinh tế xã hội mới ra đời thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ đã lỗi thời lạc
hậu là quá trình lâu dài, trải qua thời kỳ quá độ và các giai đoạn phát triển từ thấp
đến cao. Đó là thể hiện một q trình tiến hóa, nấc thang phát triển của một thời đại
mới so với thời đại cũ, mà cái mới ra đời còn non yếu và cái mới chưa mất đi hoàn
toàn.
Tuy nhiên, sau khi thể chế xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để dấy lên một chiến dịch công

5


kích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về
thời đại hòng làm tiêu tan lý tưởng cộng sản trong tâm trí nhân loại.
Luận điểm của họ về nội dung khơng có gì mới mẻ, nhưng cách diễn đạt có
khác đi.
*Về vấn đề thứ nhất của nội dung thời đại: Họ lập luận rằng, nếu nói thời đại
hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thì nay chủ
nghĩa xã hội sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của chủ nghĩa tư bản; rằng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng khơng
thể gượng dậy được nữa.
Cách nhìn nhận của họ rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và là cách nhìn thiển
cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không

thể diễn ra nhanh chóng được, mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là
một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp chứa
đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước tụt lùi. Sự
đổ vỡ của xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề
đối với phong trào cộng sản. Đồng thời ai cũng biết rằng, sự sụp đổ ấy có nhiều
ngun nhân, nhưng nó khơng thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, càng
không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư
bản chủ nghĩa thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng. Q trình chuyển biến
đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp bởi sự chống trả quyết
liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực
đế quốc không từ một thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản.
Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.
* Về vấn đề thứ hai của nội dung thời đại: Kẻ thù tư tưởng của chúng ta
công khai tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ đã sụp đổ thì giá trị của Cách
mạng Tháng Mười cũng chấm hết.

6


Đây đúng là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng thành quả mà Cách mạng
Tháng Mười đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó quyết khơng
phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Vả chăng, lịch
sử đã tỏ rõ, khơng có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại
nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay cơng việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong
ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa
đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Tư
sản Anh (1640 -1648), cách mạng tư sản Pháp1789…
Sự phát triển của xã hội loài người từ sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng
tỏ rằng, lý tưởng Tháng Mười đã không chỉ là ngọn đèn pha dẫn đường tỏa sáng,
mà còn có những đóng góp thực tế to lớn. Cách mạng Tháng Mười là tiếng chuông

đánh thức lịch sử, báo hiệu một trang sử mới của thế giới. Thế giới trước Cách
mạng Tháng Mười là một thời kỳ u mê, an phận, là thời đại của chủ nghĩa tư bản.
Sự đột phá Tháng Mười làm cho chủ nghĩa tư bản bị đổ vỡ một mảnh lớn. Thế giới
bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa
xã hội làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Thành quả của cách mạng Tháng Mười đã tạo cho lồi người có khả năng
kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong
của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã khơng thể sống tự nó nữa mà đã phải cố
gắng vì sự tồn tại của nó. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để
thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội, đảm bảo xã hội…
ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều do kết quả của xã hội đấu tranh của
những người lao động và sâu xa hơn là được ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười…
Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định rằng,
mặc dù tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới có nhiều thay
đổi, có khi là thay đổi khơn lường nhưng bản chất của thời đại khơng thay đổi. Tình
7


hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động nhưng điều đó
khơng làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn
tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều
nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức.
3. Những vấn đề hiện nay
Nhịp độ chuyển biến của thế giới nhanh chóng đến mức khó hình dung. Q
trình đó làm cho tính chất của thời đại càng phức tạp thêm bởi những biểu hiện mới
của nó.
Sau khi Liên Xơ tan rã, chủ nghĩa tư bản thay đổi chiến lược ra sức lợi dụng
q trình quốc tế hóa và tồn cầu hóa để tư bản hóa tồn thế giới. Đó là sự áp đặt

giá trị, đồng hóa thế giới theo màu sắc tư bản chủ nghĩa; là sự đe dọa, chà đạp, phá
vỡ các giá trị truyền thống của các dân tộc và các quốc gia có chủ quyền. Vì thế,
vấn đề nổi bật trên đời sống chính trị quốc tế hiện nay là các tầng lớp, giai cấp bị áp
bức, bóc lột và các dân tộc, các quốc gia độc lập quyết tâm chống lại sự áp đặt và
can thiệp, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ giá trị truyền thống và định hướng phát triển xã
hội của mình. Trong bối cảnh ấy, định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát
triển tất yếu của xã hội lồi người.
Q trình tồn cầu hóa, một mặt, tạo điều kiện cho sự hội nhập và vươn lên
của tất cả các nước, nhưng mặt khác, nó cũng là sự phân chia thành hai thái cực
giàu ngèo, tạo thế độc quyền chưa từng thấy của các trung tâm công nghiệp phát
triển trong các lĩnh vực tài chính, kỹ thuật cơng nghệ. Do đó, một số nước “sinh sau
đẻ muộn” khi bước vào q trình cơng nghiệp hóa gặp rất nhiều khó khăn.
Bản thân các nước tư bản phát triển cũng gặp nhiều thách thức lớn. Do tư
bản tập trung cao độ, do sự phụ thuộc lẫn nhau trong q trình “tồn cầu hóa” ngày
càng đi vào chiều sâu, trong khi đó các thể chế thuộc kiến trúc thượng tầng vẫn
chưa vượt khỏi phạm vi các quốc gia, dân tộc tư sản, nên mâu thuẫn vốn có giữa
8


lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản không hề giảm, mà ngày
càng tăng. Các công ty xuyên quốc gia sáp nhập, liên kết chặt chẽ với nhau về tổ
chức, vốn đầu tư, kỹ thuật, quản lý để chi phối thị trường quốc tế, làm cho các đạo
luật, quy tắc, trật tự của các quốc gia tư bản chủ nghĩa bị phá vỡ, không kiểm sốt
được. Trong khi đó, ngay trong lịng các nước tư bản giàu có nhất vẫn chứa đựng
sự nghèo đói và đặc biệt là sự bất công. Tất cả những điều đó thực sự là những quả
bom nổ chậm, đe dọa xã hội của các nước tư bản phát triển. Cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế tồn cầu diễn ra từ 2008 đến nay bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế
giới đã chứng tỏ những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế các nước tư bản chủ
nghĩa khơng hề dịu đi mà có phần sâu sắc hơn, khủng hoảng kinh tế là căn bệnh
“trầm kha” không thể thoát được của các thể chế kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Q trình tồn cầu hóa khi được gắn với việc tập trung tư bản thì đồng thời
cũng làm cho quy mơ bóc lột của chủ nghĩa tư bản mở rộng, làm cho mâu thuẫn
thời đại thêm sâu sắc. Vì thế việc giải quyết những mâu thuẫn thời đại địi hỏi phải
có sự tự giác cao, đồng thời cần có sự phối hợp khu vực và quốc tế, cần có nội
dung, phương pháp thích hợp.
Chính trong bối cảnh thế giới phức tạp như vậy, các dân tộc càng phải độc
lập, tự chủ và không ngừng sáng tạo, càng hội nhập thì càng cần phải phát huy bản
sắc dân tộc, giá trị chuẩn mực của dân tộc “hội nhập mà khơng hồ tan”. Đúng là
thế giới phát triển theo quy luật của nó, nhưng cách thức phát triển và bước đi là vô
cùng phong phú, đa dạng. Mỗi nước phải tìm ra định hướng phát triển cho mình
trên cơ sở những xu hướng vận động của thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đang ra sức phát huy những
thành tựu đã đạt được, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới có bước phát triển mới, sáng
tạo mơ hình phát triển kinh tế- xã hội đậm nét Việt Nam, đưa nước ta tiến bước
vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế thời đại.
4. Thời cơ và thách thức đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
9


a) Những thời cơ, vận hội
Thực tiễn vận động, phát triển của những xu thế lớn trên thế giới, đặc biệt là
xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam giữ
vững ổn định để phát triển đất nước
Bối cảnh mới làm xuất hiện nhiều xu thế mới đan xen nhau và có tác động
sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội thế giới. Có thể thấy, những xu thế đó là: 1Xu thế hồ bình, hợp tác, hội nhập quốc tế lôi cuốn nhiều nước tham gia; 2- Cách
mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở nhiều quốc
gia, khu vực; 3- Xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế và khu
vực; 4- Những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài nguyên biển, đảo ngày
càng phức tạp; 5- Xu thế dân chủ hoá rộng rãi đời sống xã hội thế giới; 6- Sự tồn tại

và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại; 7- Sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ,
chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa nước lớn, chiến tranh thương mại…; 8- Xu thế nêu
cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân tộc của các nước; 9- Sự xuất hiện đa dạng,
phong phú các mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa như là xu thế tất yếu khách quan,
tạo ra dấu hiệu khôi phục của xã hội xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia, khu vực.
Trong những xu thế trên thì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hợp tác, tập hợp
lực lượng tiến bộ vì hịa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xu thế hướng đến hịa
bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm
tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến
tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và
tận dụng có hiệu quả những thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, giữ vững hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng
hộ của các lực lượng tiến bộ vì hịa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
10


Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế
Do tác động mang tính hai mặt, nên tồn cầu hóa khơng chỉ đặt ra những
thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để các nước xã hội chủ nghĩa
thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới, qua đó, một mặt, tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; mặt khác, thông qua hợp tác quốc tế mà
tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công nghệ và quản lý từ các nước
phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những
thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những
thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ ràng là lợi thế của
những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày nay càng rộng lớn

về quy mơ, hồn thiện về cơ chế hoạt động. Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp
thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc
biệt là những tri thức để phát triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm
tồn cầu. Qua đó, chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định
và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia q trình hợp tác và phân cơng lao động
quốc tế.
Những thành tựu đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã tạo nên điều kiện nền
tảng và vận hội quan trọng cho đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành quả quan trọng, được bạn bè
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín
quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển
11


nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và
trong năm qua, chúng ta đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của
nước ta tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng
có và đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước. Đó chính là một trong những nguồn lực nội sinh bảo đảm điều kiện, tạo cơ sở
cho Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn. Điển hình là sự kiện Việt
Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc sau
phiên bỏ phiếu vào ngày 7-6-2019, với số phiếu rất cao (192/193 phiếu). Kết quả này
phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là
thành quả xứng đáng của Việt Nam sau những nỗ lực đóng góp vào hịa bình, an ninh
thế giới.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá

trị tinh hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc
trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ ràng, muốn cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước thành cơng thì phải đặt con người vào vị trí trung tâm, phải có con
người đạo đức, trí tuệ với đầy đủ các phẩm chất cần có của con người xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt đến con người, coi con
người là trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát triển và định hướng sự nghiệp
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn liền với xây dựng nhân
cách phát triển hài hoà, kế thừa truyền thống và hiện đại, vừa “hồng” vừa
“chun”.
Giá trị truyền thống có vai trị rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát
triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên
nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của toàn
cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước
12


mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ trẻ. Bối cảnh mới
đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị truyền thống, tiếp thu có
chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại trong xây dựng con người mới vì sự
nghiệp đổi mới và phát triển.
b) Những thách thức, nguy cơ
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng
ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…; nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với
nhau, tác động lẫn nhau” và hiện vẫn đang đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam như Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm
2016) vạch rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn
biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những
diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”. Vượt qua bốn nguy cơ
để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ
vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải hy sinh
biết bao nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ là những thách thức thực sự,
địi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đồn kết cao độ, cùng chung sức, đồng
lịng của cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng trong bối
cảnh mới.
Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
13


Tồn cầu hóa tạo ra những thách thức khơng nhỏ đối với những nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì tồn cầu
hóa hiện nay, về bản chất, là tồn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối,
hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái
trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh, đấu tranh
hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc
quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối tồn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất
về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc
cạnh tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay.
Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định trong
20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: Xét về số tuyệt đối thì

GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất nhanh so với
GDP của Việt Nam. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt
Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói cách khác, dù Việt Nam đã
đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi được những bước dài.
Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện
nay, rất cần có chiến lược tổng thể, dài hạn để khắc phục.
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay,
ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả
kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất cơng xã hội
vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội
và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công
bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Các bất công ấy
cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm
14


chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở
một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh
tế tập thể; gia tăng sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng
hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm chống
phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước
Thơng thường, “diễn biến hịa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn
mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế
giới.

Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hịa bình” hiện nay là hoạt động
của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ
chính trị mà họ coi là khơng phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện
pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển
hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ. Hiện nay, “diễn
biến hịa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức,
nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “cơng
nghệ”, đó là “cơng nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự
phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực
thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”
nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem
thường, thực tế đó địi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối
phó và khắc chế cho phù hợp, khơng để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.

15


- Nguy cơ từ tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt được và ưu
điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ như sau: Đa số cán bộ có lập trường tư tưởng,
bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ
chức kỷ luật, ln tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu,
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín.
Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy cịn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự
vững vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây
có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, địi “đa
ngun”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số
cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu
tinh thần trách nhiệm, nói khơng đi đơi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong
thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền,
đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào
“lợi ích nhóm”.
Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình thức
mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác
cán bộ… Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây bức
16


xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây ra
những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của
đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách hiện nay, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp.
Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có
hiệu quả những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước
ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết

với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc.
- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mịn những giá trị truyền
thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Tồn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy q trình hình thành xã hội thơng tin, nền
kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng q trình tồn cầu hóa để
tìm cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngơn ngữ, tập qn, lối sống của mình ra
khắp thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương tiện truyền thông đa
nền tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa” của mình, làm phai nhạt các giá trị
truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng
xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một
nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác
17


động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm,
khó lường. Bởi lẽ, giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trị
quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong
bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải kết hợp
giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với việc
tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài hòa
giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đáp
ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới từ
trước đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc giải quyết

đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh
rằng, bất cứ khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong giải quyết mối quan
hệ này thì khi đó phong trào cách mạng của mỗi nước cũng như của thế giới đều
vấp phải khó khăn, thậm chí là thất bại với những tổn thất hết sức nặng nề.
Trong bối cảnh toàn cầu hố ngày nay, hầu hết các chính phủ trên thế giới
đều cơng khai tun bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Mối quan hệ giữa giai cấp
và dân tộc, giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc sẽ lại nổi lên, làm phân hoá
các lực lượng chính trị thành nhiều đội ngũ, đặc biệt là làm phân liệt phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, làm giảm sút tinh thần và sức mạnh chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng tiêu cực tới phong trào xã hội
chủ nghĩa trên thế giới. Cùng với đó, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi, biệt phái cũng đang có xu hướng ngày càng gia tăng, tác động phức tạp
đến đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm

18


tê liệt truyền thống, chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân trên phạm
vi thế giới.
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hịa
bình, ổn định để phát triển
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh
tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay. Nguyên tắc
“bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng
biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển. Thêm vào đó, q trình hội nhập quốc tế
hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương

châm: Hòa nhập nhưng khơng hịa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm
mưu thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hịa bình” đối với Việt Nam.
Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ này luôn xuất hiện đan xen
nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc xây dựng
những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của
Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT LUẬN

19


Nhận thức về thời đại là vấn đề lý luận cách mạng, khoa học. Nếu nhận thức
đúng thì có đánh giá khách quan về sự phát triển của lịch sử nhân loại, ngược lại,
nếu nhận thức sai sẽ đi đến những kết luận sai lầm, lệch lạc về sự phát triển của
nhân loại. Dù có nhiều biến động của tình hình thế giới, tuy nhiên thời đại hiện nay
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Chủ nghĩa tư bản đã có nhiều hình thức, biện pháp, cách thức thay đổi để
phù hợp, thích nghi với sự phát triển, song hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa mới là hình thái kinh tế xã hội tiếp theo trên quỹ đạo phát triển đi lên của
nhân loại tiến bộ.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tác động lớn đến quá trình
phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trên tồn thế giới. thời cơ và
thách thức đang đặt ra cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vô
cùng to lớn, nếu nắm bắt kịp thời và phát huy được lợi thế trong và ngoài nước
chúng ta sẽ theo kịp sự phát triển mau lẹ này, ngược lại, nguy cơ tụt hậu càng là

hiểm họa lớn hơn bao giờ hết đối với những quốc gia còn chậm phát triển.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tr. 25
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 19
3. GS.TS. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên): Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với vận
mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.
429
4. GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền,
PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 732
5. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn
phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, VPTW, Hà Nội,
2016, tr.18-20
7. GS, TS. Vũ Văn Hiền: Nhận thức về thời đại ngày nay, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2010

21



×