Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

KHẢO SÁT MỘT SỐ BỆNH SINH SẢN THƯỜNG GẶP TRÊN ĐÀN BÒ SỮA TẠI TRẠI TRÌNH DIỂN VÀ THỰC NGHIỆM CHĂN NUÔI BÒ SỮA CÔNG NGHỆ ISRAEL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.36 KB, 38 trang )

ĐỀ CƯƠNG
KHẢO SÁT BỆNH VIÊM VÚ , VIÊM TỬ CUNG VÀ HIỆU
QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TẠI TRẠI TRÌNH DIỄN
VÀ THỰC NGHIỆM CHĂN NI CƠNG NGHỆ
CAO ISRAEL TPHCM
Gíao viên hướng dẫn
Sinh viên thực tập
MSSV
Lớp
Ngành
Niên khóa

: TS NGUYỄN VĂN PHÁT
: BÙI MINH THƯ
: 1711750046
: 17DTYA1
: Thú Y
: 2017 – 2021

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 01 năm 2021


TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu “Khảo sát một số bệnh sinh sản trên bò sữa
và hiệu quả điều trị tại Trại Trình diễn và Thực nghiệm Chăn ni
bị sữa Cơng nghệ cao mơ hình Israel” được thực hiện tại Trại Trình
diễn và Thực nghiệm Chăn ni bị sữa Cơng nghệ cao mơ hình
Israel thuộc xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ
Chí Minh từ ngày 15/01/2021 đến tháng 7/ 2021.
Thí nghiệm đã tiến hành theo kiểu hồn tồn ngẫu nhiên 1 yếu
tố với 3 nhóm lứa đẻ trên 91 con bị đang cho sữa. Thí nghiệm tiến


hành 3 tháng trên các nhóm bị sữa đang cho sữa tại trại.
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ viêm vú trung bình hằng tháng
trên đàn bị 3,25%. Tháng có tỷ lệ thấp nhất là tháng 2 (1,09%), tiếp
đến là tháng 4 (4,26%) và tháng có tỷ lệ cao nhất là tháng 3 (4,40%)
(P > 0,05). Tỷ lệ bò khỏi bệnh thấp nhất là ở thời gian điều trị > 5
ngày (22,22%), tiếp đến là 2 - 3 ngày với tỷ lệ khỏi bệnh là 33,33%
và tỷ lệ điều trị khỏi cao nhất là thời gian điều trị 4 - 5 ngày chiếm
44,44% (P > 0,05). Việc điều trị viêm vú lâm sàng có tỷ lệ khỏi
bệnh khả quan (100,00%).
Đối với bệnh viêm tử cung, tỷ lệ viêm tử cung trung bình hằng
tháng trên đàn bị 3,28%. Tháng có tỷ lệ thấp nhất là tháng 4
(2,13%), tiếp đến là tháng 2 (3,30%) và tháng có tỷ lệ cao nhất là
tháng 3 (4,40%) (P > 0,05). Tỷ lệ bò khỏi bệnh thấp nhất ở những

1


ca điều trị từ 4 – 5 ngày và > 5 ngày (17,29%), cao nhất là 2 - 3
ngày với tỷ lệ khỏi bệnh là 57,14% (P > 0,05). Kết quả điều trị bệnh
viêm tử cung chiếm tỷ lệ 85,71%.

2


MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Ngành chăn ni bị sữa ở Việt Nam đã có hơn nửa thế kỷ. Với rất
nhiều khó khăn và thách thức nhưng chăn ni bị sữa vẫn phát triển
theo hướng tích cực. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về sữa của
người tiêu dùng ngày càng cao vì thế lĩnh vực sữa tươi ngày càng sinh

động. Nhu cầu sữa bình quân trên đầu người ở nước ta trên phương án
cơ sở năm 2019 là 20,8 lít và năm 2020 là 27,3 lít; sản lượng trong
nước đạt 1 triệu lít và đáp ứng 38% nhu cầu tiêu thụ trong nước. Thực
tế thì thời điểm năm 2017 sản lượng sữa tươi trong nước đạt 456,39
nghìn tấn, đáp ứng khoảng 28% tổng lượng sữa tiêu dùng hằng năm;
đến năm 2017 đạt 881 nghìn tấn, đáp ứng 35% tổng lượng sữa tiêu
dùng hằng năm (Bùi Hải Nguyên, 2019). Vì vậy, tiềm năng phát triển
thị trường Việt Nam là rất lớn, Việt Nam cần phát triển nhanh hơn về
đàn bò sữa và sản lượng sữa. Người chăn nuôi, người kỹ thuật phải
khai thác tối đa tiềm năng cho sữa của vật nuôi, đơn vị chăn nuôi phải
đáp ứng những khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao
trong chọn lọc giống, quản lý đàn, trong chế độ thức ăn, chống dịch
bệnh, nâng cao khả năng sinh sản đàn bò và tăng năng suất vật ni.
Bên cạnh đó các biện pháp phòng bệnh chưa được quan tâm
nhiều, bệnh tật xảy ra là điều không tránh khỏi. Đặc biệt là một số

3


bệnh sinh sản trên bò sữa như chậm lên giống, phối giống không đậu,
viêm vú, viêm tử cung, bệnh sốt sữa, bại liệt trước và sau khi đẻ, khó
đẻ, sa tử cung. Đây là một trong những vấn đề gây khó khăn nhất hiện
nay đối với ngành chăn ni bị sữa ở Việt Nam. Không những gây
ảnh hưởng đến chất lượng sữa của bò mà còn giảm đi sự gia tăng số
lượng đàn bò sữa.
Từ thực tế trên được sự đồng ý của khoa bộ môn thú y trường Đại
Học Công Nghệ TP HCM , dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Văn
Phát , chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát một số bệnh sinh sản trên
bò sữa tại Trại Trình diễn và Thực nghiệm Chăn ni bị sữa Cơng
nghệ cao mơ hình Israel”.


Mục tiêu
Đánh giá một số bệnh sinh sản trên bò sữa, để phát hiện bệnh trên
bò cái sinh sản càng sớm càng tốt và có biện pháp can thiệp, điều trị
thích hợp nhằm đảm bảo sức khỏe sinh sản cho đàn bò, giảm thiểu tổn
thất kinh tế đến mức thấp nhất cho ngành chăn ni bị sữa.
Yêu cầu
Theo dõi và ghi nhận một số bệnh sinh sản, góp phần cải thiện
tình trạng bệnh sinh sản trên đàn bò sữa tại trung tâm giống với sự
phối hợp của cán bộ thú y tại trung tâm giống.

4


Một số bệnh sinh sản trên bò bò sữa
Bệnh viêm vú ở bò sữa (Mastitis)
Nguyên nhân

Nguyên nhân xuất phát do chính bản thân bị sữa tùy thuộc vào cá
thể của bị như bị có bầu vu q to và dài dễ gây xay xát, lỗ thơng đầu
vú dễ rị rỉ, bò cao sản là những điều kiện để bộc phát bệnh .
Vi sinh vật gây nhiễm
Vi sinh vật có ảnh hưởng rất lớn trên sức khỏe con người và động
vật qua khả năng lây nhiễm chúng có nhiều loại (type) gây bệnh.
Chúng hiện diện trong khơng khí, thức ăn, chuồng trại, người vắt sữa,

5


đất, phân, nước tiểu. Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể động vật qua

thở, vết thương, ăn uống, lỗ núm vú.
Liên cầu khuẩn (Streptococcus): Trong các loại vi khuẩn gây bệnh
viêm vú, liên cầu khuẩn (Streptococcus) chiếm 86%, chủ yếu là S.
dysagalactiae, S. agalactiae và S. uberis. S. agalactiae là vi khuẩn
gram dương và chỉ phát triển được trên mô tuyến vú nhưng dễ bị
khống chế và tiêu diệt. Trong khi đó, S. dysagalactiae và S. uberis có
thể phát triển bên ngồi mơ tuyến vú và khó loại trừ. Ba loại này chủ
yếu phát triển trong sữa và tấn công lớp tế bào mặt của các ống dẫn
sữa.
Tụ cầu khuẩn (Staphylococcus) chiếm 5,4% trường hợp. Trong
đó, S. aureus (vi khuẩn gram dương) là vi khuẩn gây bệnh mạnh và
thường ở dạng cấp tính. Vi khuẩn này xâm nhập và tấn cơng vào các tế
bào nang và có tính kháng penicilline (có những chủng vi khuẩn có
khả năng hình thành penicillinaza phân hủy penicilline), vì vậy nó rất
khó xử lý. Bên cạnh đó, nó cịn sinh sản ra các độc tố (coagulaza,
hemolysine) gây co thắt mạch máu và hoại tử mô tế bào.
Trực khuẩn bao gồm trực trùng sinh mủ 2,7%, E. coli 1,2%, các
loại vi trùng khác 3,75%. Các vi khuẩn này sống chủ yếu trong môi
trường (phân, chất độn chuồng, nguồn nước bị ô nhiễm) .
Môi trường

6


Thời tiết khí hậu: Các tác nhân của bầu tiểu khí hậu chuồng ni
bị sữa như nhiệt độ, ẩm độ đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
lên tỷ lệ mắc bệnh viêm vú ở bò sữa. Mặt khác, nhiệt độ cao, ẩm độ
cao cũng là điều kiện cho các vi sinh vật gây bệnh, các côn trùng mang
tác nhân gây bệnh phát triển và từ đó gián tiếp gây bệnh. Tại một số
nước có khí hậu theo 4 mùa, thường có một dạng viêm vú gọi là “viêm

vú mùa hè” gây ra bởi các cơn trùng chích cắn truyền vi khuẩn
Corynebacterium pyogenes và một số vi khuẩn kị khí khác. Bệnh này
thường xuất hiện ở vùng khí hậu có độ ẩm cao (thường ở các vùng
thấp, các thung lũng). Các loại stress tác động lên bò sữa (tiếng ồn,
thái độ chăm sóc bị, mật độ ni q cao) ảnh hưởng đến hệ thống
miễn dịch của bò sữa (làm suy yếu) từ đó cũng làm tăng tỷ lệ mắc
bệnh viêm vú. Đặc biệt, nhiệt độ, ẩm độ cao gây stress nhiệt trên bò
sữa là cần được quan tâm nhiều nhất.
Chuồng trại: Bị nếu được ni dưỡng trong chuồng thì cũng dễ bị
mắc bệnh viêm vú. Tại Úc, người ta nhận thấy bị sữa nếu được chăn
thả ngồi đồng cỏ thường xuyên, chỉ ở trong chuồng ở thời điểm vắt
sữa thì tỷ lệ mắc bệnh viêm vú do mơi trường giảm. Tuy nhiên, khi
chăn thả ngồi đồng cỏ, khơng kiểm sốt được hồn tồn thì cần chú ý
đến các tổn thương trên bầu vú từ đó cũng dễ mắc bệnh. Người ta cũng
nhận thấy tỷ lệ bệnh viêm vú ở bị ni nhốt ở kiểu chuồng cầm cột

7


thường cao hơn kiểu chuồng tự do không cầm cột. Tóm lại, chuồng
trại vệ sinh kém, khơng thơng thống và ánh sáng thiếu, mật độ nuôi
cao là nguyên nhân gây tỷ lệ bệnh viêm vú tăng cao, chăm sóc, quản lý
khơng đúng kỹ thuật, dinh dưỡng khơng phù hợp. Ơ bị nằm được xem
như vị trí quan trọng liên quan đến bệnh viêm vú chỉ sau nơi vắt sữa.
Khi bò nằm nghỉ, bầu vú sẽ tiếp xúc với nên và chất lót nên nguy cơ vi
khuẩn xâm nhập vào bầu vú là rất cao. Các vật liệu lót ơ bị nằm có
ảnh hưởng đến sự phát triển của các vi sinh vật và từ đó ảnh hưởng
đến tỷ lệ viêm vú. Bãi chăn thả không vệ sinh, sát trùng và khơng kiểm
sốt được nhiều bị từ nơi khác đến, đem theo mầm bệnh. Nền đất, sân
vận động cũng là những nơi mà vi sinh vật phát triển.

Nguồn thức ăn, nước uống: Người ta nhận thấy cũng có mối liên
hệ giữa phần ăn và bệnh viêm vú. Trong đó, chú ý đến mức cân bằng
dưỡng chất trong khẩu phần và việc thay đổi khẩu phần ăn quá nhanh.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy khẩu phần ăn quá dư thừa nito phi
protein là một trong những yếu tố gây ra bệnh viêm vú. Việc sử dụng
quá nhiều nito phi protein trong khẩu phần sẽ tác động đến hệ miễn
dịch của cơ thể bò sữa. Tại Đức, nghiên cứu cho thấy nếu sử dụng ure
bổ sung vào khẩu phần ăn của bò sữa quá cao thì tỷ lệ viêm vú tăng
16%. Nếu cho lượng ure trong khẩu phần ăn vượt quá 180 g/con/ngày
sẽ làm suy yếu hệ thống miễn dịch của bò một cách rõ rệt. Tỷ lệ thức

8


ăn tinh trong khẩu phần ăn quá cao cũng là nguyên nhân gây bệnh.
Cũng một thí nghiệm tại Đức, so sánh giữa bò sữa lứa thứ nhất khẩu
phần 25% và 40% thức ăn tinh tăng tỷ lệ bệnh viêm vú nhóm bị cho
thức ăn tinh 40% là 36% so với 7% ở nhóm bị cho khẩu phần 25%.
Khẩu phần có năng lượng cao cũng ảnh hưởng đến bệnh viêm vú. Việc
bổ sung quá nhiều thức ăn xanh họ đậu, đặc biệt là cỏ Alfalfa có chứa
nhiều chất estrogen cũng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ viêm vú. Đối với bò
tơ, khi cho ăn khẩu phần chứa nhiều cỏ họ đậu, các chất estrogen
ngoại lai này (không phải do cơ thể bò sản xuất) sẽ làm cho bầu vú bò
tơ trưởng thành sớm từ đó làm nguy cơ nhiễm các vi khuẩn cơ hội từ
mơi trường, bị dễ mắc bệnh viêm vú. Hàm lượng vitamin E và
Selenium cao trong khẩu phần thức ăn sẽ giúp cải thiện hệ thống miễn
dịch của cơ thể bị sữa, từ đó cũng giảm tỷ lệ bệnh viêm vú. Đặc biệt
trong trường hợp bệnh viêm vú tiềm ẩn, việc bổ sung Selenium đã làm
giảm rõ rệt tỷ lệ mắc bệnh viêm vú. Việc bổ sung Selenium cũng giúp
cho bò kháng với các bệnh viêm vú gây ra do nhóm coliform (như E.

coli). Tuy nhiên, cũng ln ghi nhớ là không bổ sung Selenium riêng
lẻ mà phải bổ sung chung với vitamin E. Thức ăn nhiều vi trùng, nấm
mốc sẽ theo hệ thống tiêu hóa gây bệnh nhất là thú bệnh đường tiêu
hóa gây tiêu chảy, từ đó vi khuẩn và độc tố xâm nhập vào máu đến bầu

9


vú. Vi khuẩn, nấm mốc cũng tiết ra các độc tố làm ảnh hưởng đến hệ
thống miễn dịch .
Chăm sóc và vắt sữa
Phương pháp vắt sữa, kỹ thuật vắt sữa không đúng, thời gian và số
lần vắt, áp lực vắt không đảm bảo nhất định dễ gây ảnh hưởng đến bầu
vú. Người vắt sữa có trách nhiệm lau gia súc, dọn nơi vắt sữa, rửa
dụng cụ và tay trước khi bắt đầu vắt sữa. Người vắt sữa phải khỏe
mạnh không mang vi trùng hay bệnh tật có khả năng truyền vi trùng
hoặc lây lan sang gia súc. Nên có quy định người vắt sữa phải có giấy
phép hành nghề và kiểm tra sức khỏe định kỳ. Chú ý có ngăn sát trùng
ở cửa chuồng vì người vắt sữa có thể từ chuồng này sang chuồng khác
hoặc nhà này sang nhà khác .
Phân loại bệnh viêm vú
Phân loại theo sự biểu hiện của triệu chứng
Thể lâm sàng (có biểu hiện ra bên ngồi): Bệnh viêm vú thể lâm
sàng là bệnh có biểu hiện ra bằng những triệu chứng cụ thể (sưng,
nóng, đỏ, đau). Mức độ nghiêm trọng của bệnh cũng như hậu quả của
bệnh biểu hiện rõ rệt nên người ta dễ dàng xử lý điều trị và đánh giá
mức độ nguy hiểm cũng như thiệt hại do bệnh gây ra là không lớn so
với bệnh tiềm ẩn.

10



Thể tiềm ẩn: Bệnh viêm vú thể tiềm ẩn rất phổ biến và gây ra
những thiệt hại kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất
lượng sữa. Bệnh này nguy hiểm ở chỗ là nó duy trì mầm bệnh, lây lan
cho những bị khác mà người chăn ni vẫn khơng biết. Bị ít có triệu
chứng bên ngồi, nhưng thường thì kém ăn, thỉnh thoảng sữa bị bị tủa
và khơng có biểu hiện triệu chứng ở bầu vú. Biện pháp chẩn đoán bệnh
viêm vú tiềm ẩn là dựa vào dấu hiệu của sữa và xét nghiệm sữa để
phân lập vi trùng gây bệnh (123doc, 2016).
Phân loại theo tính chất gây bệnh
Viêm vú do lây nhiễm: Bệnh gây ra do các vi sinh vật gây bệnh
như Streptococcus agalactiae, Streptococcus dysagalactiae và
Staphylococcus aureus và nguồn lây nhiễm chủ yếu từ vú các bò bị
viêm vú.
Viêm vú do tác nhân môi trường: Bệnh gây bởi các vi sinh vật cơ
hội nằm trong mơi trường chung quanh bị (chuồng trại, thiết bị, chất
độn chuồng, phân, nguồn nước). Các nhóm vi sinh vật chủ yếu là
nhóm Coliform (Escherichia coli, Klebsiella pneumonia, Klebsiella
oxytoca, Enterobacter aerogenes), nhóm Streptococcus (S. uberis, S.
bovis, Enterococcus faecium, Enterococcus faecalis) .
Các thể bệnh viêm vú cấp tính
Viêm vú thể tương mạc

11


Triệu chứng: Khi vi trùng theo máu vào sâu bên trong tuyến vú thì
tồn bộ tuyến vú sưng to, sờ nhẹ không đau. Lúc đầu sữa biến đổi
không rõ, về sau khi bệnh lan rộng trong tuyến sữa và bộ phận tiết sữa

thì sữa sẽ lỗng và lợn cợn. Con vật có triệu chứng tồn thân: Sốt cao
(39,5 - 40°C), kém ăn, ủ rũ. Vú bò sưng ở một thùy hay toàn bộ bầu vú
(hiếm khi viêm toàn bộ bầu vú). Khi ấn tay mạnh vào bầu vú, bò bị
đau, bị bị giảm lượng sữa rõ rệt, sữa lỗng và có hạt lổn nhổn.
Nguyên nhân: Do Staphylococcus, Streptococcus, E. coli đi vào tổ
chức liên kết của bầu vú khi bầu bị xây xát. Bệnh có thể kế phát do
viêm tử cung hoặc viêm nội mạc tử cung, vi trùng vào máu và đi đến
tuyến vú.
Chẩn đoán: Chẩn đoán phân biệt với bệnh bầu vú thủy thũng. Ở
bệnh này bầu vú sưng, nóng, đỏ, đau, hạch lâm ba vú cũng sưng to.
Xét nghiệm sữa phát hiện vi trùng gây bệnh.
Tiên lượng: Bệnh nhẹ thì sau 7 – 19 ngày, hiện tượng viêm giảm
nhưng bệnh có thể là mãn tính. Khi tổ chức tuyến vú tổn thương nặng
thì bầu vú có thể bị xơ cứng .
Bệnh thường xảy ra vài ngày sau khi sinh, biểu hiện:
- Con vật có hiện tượng sốt tồn thân (39,5 – 40oC), ít hoạt động,
kém ăn và lượng sữa giảm.
- Bầu vú bị xung huyết, sưng ở một thùy hay tồn bộ bầu vú. Con
vật có phản ứng đau khi ấn mạnh vào bầu vú.
- Lượng sữa sẽ giảm rõ rệt ở thùy vú sưng.

12


- Lúc đầu, sự biến đổi trên sữa không rõ rệt nhưng khi bệnh lan
rộng sẽ thấy sữa lỗng, có những hạt lợn cợn.
Bệnh viêm vú thể tương mạc do các loại vi khuẩn Staphylococci,
Streptococci, E.coli xâm nhập qua các vết trầy, xây xát trên bầu vú đi
vào tuyến vú gây bệnh. Bệnh cũng có thể kế phát do viêm tử cung,
viêm nội mạc tử cung, vi khuẩn theo đường máu đến tuyến vú gây

bệnh. Nếu bệnh nhẹ, sau 7 – 10 ngày hiện tượng viêm giảm nhưng có
thể chuyển sang thể mãn tính. Khi bầu vú bị tổn thương nặng có thể bị
xơ cứng, mất khả năng tiết sữa ở chu kỳ sau.
Viêm vú thể cata
Triệu chứng: Đặc trưng là tế bào thượng bì bị tách ra, ở những ổ
viêm có dịch thẩm xuất và bạch cầu. Sữa bị cặn hoặc cục sữa vón do
bị thẩm xuất và bạch cầu. Thể viêm vú này thường không làm bầu vú
sưng nhưng làm cho núm vú tăng thể tích (to ra) do biểu bì dày lên.
Nguyên nhân: Do Staphylococcus, Streptococcus, E. coli xâm
nhập vào, do cơ vịng đầu vú khép khơng kín sữa rị rỉ ra ngồi, vi
trùng từ đó xâm nhập vào bễ sữa đến các tuyến vú gây viêm. Cũng có
thể do đầu vú bị viêm gây ra, nền chuồng, chất độn chuồng, tay người
vắt hoặc khăn lau đầu vú bẩn.
Chẩn đốn: Thơng qua sờ nắn, đặc biệt là xem xét kích thước núm
vú. Xét nghiệm sữa, kiểm tra vi khuẩn gây bệnh.
Tiên lượng: Thường sau 7 – 10 ngày thì bệnh khỏi và khơng ảnh
hưởng đến sản lượng sữa .

13


Đặc trưng của bệnh viêm vú thể cata là tế bào thượng bì biến dạng
bị bong tróc ra, ở chỗ viêm có dịch thẩm xuất. Dịch này cùng với tế
bào bạch cầu tạo ra một màng phủ trên niêm mạc đường tiết sữa. Khi
vắt sữa, màng này tróc ra lẫn vào sữa tạo thành cặn sữa và đôi khi cặn
sữa này làm tắt nghẽn ống dẫn sữa. Nếu tiếp tục vắt sữa, thời gian sau
có thể sữa trở lại bình thường nhưng lượng sữa sẽ giảm đi. Kiểm tra
bằng mắt thường thấy bầu vú gần như trở lại bình thường nhưng thành
vú dầy lên và mềm, kiểm tra bằng tay thấy bên trong đầu vú có những
cục mềm.

Bệnh viêm vú thể cata do vi khuẩn Staphylococci, Streptococci
hay E. coli xâm nhập khi cơ vịng đầu vú khơng khép kín. Vi khuẩn đi
vào bể sữa đến các tuyến vú gây viêm. Ngồi ra, bệnh viêm vú thể cata
cịn do các ngun nhân: nền chuồng không sạch, sử dụng chung khăn
lau vú cho bò, hoặc do việc vệ sinh vắt sữa kém gây lây nhiễm từ bị
bệnh sang bị khỏe mạnh. Thơng thường, bệnh này sau 7 – 10 ngày nếu
được chăm sóc tốt thì bị sẽ khỏi bệnh, ít ảnh hưởng đến sản lượng sữa
và con vật khơng có biểu hiện triệu chứng tồn thân.
Viêm vú có mủ
Biểu hiện đặc trưng là vú có mủ và dịch thẩm xuất. Bị sốt cao,
mệt mỏi, bỏ ăn. Bầu vú bị sưng, đỏ, nóng, đau. Đầu tiên sữa lỗng có
màu hồng do xuất huyết nhẹ và sau đó lẫn các cục sữa vón và dịch mủ
màu vàng nhạt.
Viêm cata có mủ: Đặc trưng thể này là các vi trùng gây mủ tạo ra
những ổ viêm lan tràn trong bể sữa ống tiết sữa, tuyến vú làm cho mủ
và dịch thẩm xuất chảy xuống ống dẫn vào bể sữa. Thể cấp tính: Thùy
vú bệnh sưng, nóng, đỏ, đau, lượng sữa giảm ngưng hẳn, sữa lỗng

14


màu hồng nhạt, xsung huyết, xuất huyết tuyến sữa; trong sữa có lợn
cợn cục sữa vón do dịch mủ; con vật có triệu chứng tồn thân, sốt 40 41°C, mạch nhanh, ủ rũ. Thể mãn tính: Thú bệnh qua thời kỳ cấp tính
4 ngày bệnh trở thành mãn tính, các triệu chứng giảm dần, bầu vú
giảm sưng đỏ, giảm đau nhưng lượng sữa ít, lỗng, màu vàng nhạt.
Viêm vú có mủ: Thể thùy vú có nhiều bọc mủ to nhỏ khác nhau,
có bọc mủ nhỏ hợp thành bọc mủ lớn. Nguyên nhân do tái phát viêm
cata có mủ, bọc mủ bị tắt hình thành .
Đặc trưng của dạng này là vi khuẩn gây mủ tạo ra các ổ viêm lan
tràn trong tuyến vú làm cho mủ và dịch thẩm xuất chảy xuống ống dẫn

vào bể sữa. Thể viêm này thường kế phát từ thể viêm cata.
Thể cấp tính: Con vật thể hiện triệu chứng toàn thân, sốt cao 40 –
oC
41 , mệt mỏi, bỏ ăn, thùy vú sưng, nóng, đỏ, đau. Lượng sữa giảm
hay ngưng hẳn, trong sữa có lẫn các cục sữa vón và dịch mủ màu vàng
hay vàng nhạt.
Thể mãn tính: Con vật qua thời kỳ cấp tính 3 – 4 ngày bệnh sẽ
chuyển sang thể mãn tính. Bầu vú giảm hiện tượng sưng, nóng, đỏ, đau
nhưng lượng sữa tiếp tục giảm và trong sữa lỗng có các cặn mủ và
nhớt màu vàng nhạt. Nếu bệnh chuyển sang thể mãn tính, điều trị khơng
kịp thời thì các tuyến sữa bị teo, các tổ chức liên kết tăng lên thì lượng
sữa khó trở lại bình thường. Có trường hợp bầu vú mắc bệnh đã điều trị
khỏi nhưng ở chu kỳ sinh sản tiếp theo bệnh sẽ tái phát.
VIÊM VÚ CÓ MÁU
Đặc trưng của bệnh này là các thùy vú có nhiều bọc mủ to nhỏ
khác nhau, thường do tái phát thể viêm cata có mủ. Khi đường tiết sữa

15


bị tắc thì bọc mủ hình thành, các tổ chức của ống tiết sữa bị xuất huyết
và tụ huyết. Bình thường ở thể cấp tính, con vật sốt cao 40 – 41oC kéo
dài hàng tuần, thú mệt mỏi, kém ăn, có thể sưng một bên hay tồn bầu
vú. Trên bầu vú có từng đám tụ huyết đỏ sẩm, con vật có biểu hiện đau
đớn khi ta ấn tay vào bầu vú. Lượng sữa giảm hẳn hay ngưng tiết sữa,
sữa loãng có màu hồng hay đỏ như máu, có những mảnh sữa vón lại.
Bệnh tiến triển nhanh, biến chứng thường xảy ra nhiễm trùng huyết,
con vật sẽ chết sau 7 - 9 ngày.
VIÊM VÚ TIỀM ẨN
Bệnh viêm vú tiềm ẩn là bệnh không gây hiện tượng viêm trên các

tổ chức của tuyến vú mà sự có mặt của các vi khuẩn trong bầu vú chỉ
làm thay đổi tính chất và giảm sản lượng sữa từ từ. Chính vì khơng có
các triệu chứng rõ rệt nên người chăn ni rất khó phát hiện, nguy cơ
lây lan mầm bệnh trong toàn đàn cao, gây thiệt hại về kinh tế rất lớn.
Nguyên nhân chủ yếu của bệnh viêm vú tiềm ẩn là do:
- Bệnh viêm vú trước đó khơng được điều trị khỏi hẳn, bệnh
chuyển sang thể mãn tính và tái phát khi có điều kiện thuận lợi;
- Sức đề kháng của cơ thể con vật kém trong q trình chăm sóc
dinh dưỡng và vệ sinh môi trường, chuồng trại kém, nhiệt độ thời tiết
thay đổi bất thường sẽ làm bệnh bộc phát.
Đối với trường hợp viêm vú tiềm ẩn hoặc viêm vú lâm sàng thể
nhẹ rất khó phát hiện bằng mắt thường hoặc thông qua việc sờ khám
bầu vú. Hiện nay, các nông hộ chăn ni thường chẩn đốn nhanh
bệnh viêm vú bằng các phương pháp sau:
- Phương pháp thử cồn 700-750: dựa vào nguyên tắc chất đạm
trong môi trường acid sẽ bị tủa bởi cồn. Tỷ lệ cồn và sữa là 1:1.
Cách tiến hành:

16


Bước 1: cho 2ml sữa vào 2ml cồn chứa trong ống nghiệm.
Bước 2: lắc nhẹ, sau đó quan sát trên thành ống nghiệm.
Bước 3: đọc kết quả:
- Dung dịch đồng nhất: bị khơng có bệnh.
- Có mảng bám lợn cợn trên thành ống nghiệm: khả năng bò bị
nhiễm bệnh.
- Phương pháp thử CMT (California Mastitis Test): là phương
pháp nhằm phát hiện bệnh viêm vú qua số lượng tế bào bạch cầu trong
1ml sữa. Hiện nay, đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong

chẩn đoán viêm vú tiềm ẩn.
Tỷ lệ sữa và dung dịch CMT là 1:1.
Cách tiến hành:
Bước 1: lau sạch núm vú trước khi vắt sữa.
Bước 2: vắt sữa của 4 núm vú vào 4 đĩa Pétri khác nhau, mỗi đĩa
lấy 2ml sữa.
Bước 3: cho 2ml dung dịch CMT vào từng đĩa.
Bước 4: xoay tròn đĩa, đặt đĩa Pétri trên nền hơi tối để quan sát.
Bước 5: đọc kết quả dựa trên sự đóng vón và thay đổi màu sắc của
hỗn hợp.
Kết quả:
- Bò khỏe mạnh: dưới 300.000 tế bào bạch cầu/ 1ml sữa.
- Bò bị nhiễm bệnh: trên 800.000 tế bào/ 1ml sữa.
Khi thấy kết quả khả nghi bệnh, nên cách ly bò bệnh để tránh sự
lây lan cho bò khỏe, mời bác sĩ thú y đến để điều trị kịp thời.
Ngồi ra có thể dùng Phương pháp thử Blue Methylen dựa vào
nguyên tắc sự mất màu của thuốc thử khi cho vào sữa, tùy theo thời
gian đổi màu thuốc thử có thể ước tính mức độ nhiễm vi sinh của sữa.
Cách tiến hành:
Bước 1: cho 10ml sữa và 1ml dung dịch Blue methylen vào trong
ống nghiệm.

17


Bước 2: lắc nhẹ cho dung dịch trộn đều sau đó để vào tủ ấm 37C.
Sau mỗi 1 giờ lắc nhẹ một lần.
Bước 3: đọc kết quả qua thời gian mất màu của dung dịch Blue
methylen như sau:
+ Nếu mất màu trước 15 phút, sữa bị nhiễm vi sinh rất nặng.

+ Nếu mất màu sau 15 phút – 1 giờ, sữa bị nhiễm vi sinh nặng.
+ Nếu mất màu sau 1 giờ - 3 giờ, sữa bị nhiễm vi sinh nhẹ.
+ Nếu mất màu sau hơn 3 giờ, sữa được xem là đạt tiêu chuẩn về
mức độ nhiễm vi sinh.
Tuy nhiên phương pháp này chỉ xác định mức độ nhiễm vi sinh
trong sữa. Để có thể xác định bị có bị bệnh viêm vú hay không, cần
kết hợp với 2 phương pháp xét nghiệm trên.
- Khi phát hiện trong đàn có bị bị bệnh viêm vú, nơng hộ cần
phải:
* Đối với bò bị bệnh:
- Cách ly thú bệnh sang khu vực riêng biệt.
- Khơng khai thác sữa bị bệnh để bán, mà vắt sữa bỏ vào hố được
sát trùng kỹ lưỡng.
- Mời bác sĩ thú y đến khám và điều trị bệnh (trước tiên nên thử
kháng sinh đồ để dùng thuốc có hiệu quả hơn, giảm chi phí điều trị cho
bò).
* Đối với bò khỏe: ta nên áp dụng đúng quy trình kỹ thuật vắt
sữa, như sau:
- Vắt sữa trên bò khỏe trước.
- Rửa sạch bầu vú trước và sau khi vắt sữa.
- Mỗi 1 con dùng 1 khăn lau vú riêng.
- Nhúng đầu vú vào dung dịch sát trùng (Iod) sau khi vắt sữa
xong.
- Định kỳ hàng tuần kiểm tra bệnh viêm vú cho bò đang vắt
sữa.
18


Điều trị bò bị bệnh viêm vú nhằm 2 mục đích: giúp bầu vú tránh
khỏi vi trùng phá hoại, đồng thời ngăn ngừa bầu vú trở thành nguồn

truyền bệnh viêm vú trong đàn gia súc cái. Trong thời gian điều trị, gia
súc bệnh phải được nhốt riêng, có người chăm sóc và dụng cụ riêng.
Phân và chất độn chuồng, chất thải khác phải được xử lý tiêu độc hàng
ngày. Cần tiên lượng những con khơng cịn khả năng chữa khỏi nên
loại thải sớm.
Phương pháp điều trị:
* Điều trị tại chỗ:
- Massage bầu vú nếu bầu vú sưng, nóng, đỏ, đau.
- Nhúng núm vú vào dung dịch Iod.
- Dùng các loại Pomade như Mastijet fort hay Super Mastikort,
mỗi ống cho 1 núm vú viêm, liệu trình điều trị 2 – 3 ngày.
- Dùng kháng sinh thay cho Pomade bơm vào núm vú, dùng tay
vuốt thuốc lên trên. Liều dùng 200 – 400mg/1 núm vú.
* Điều trị toàn thân:
- Dùng Bio-dexa: 5 – 15 ml/ con, tiêm bắp hay tĩnh mạch (từ 1 – 3
ngày). Lưu ý khơng nên dùng trên bị cái đang mang thai vì thuốc có
thể gây sẩy thai.
- Giảm đau, sốt dùng Vitamin C + Analgine 20ml/1con, tiêm bắp.
- Sử dụng kháng sinh Remacycline (liều 1ml/10kgP), hoặc một số
loại kháng sinh như: Gentamycine, Cephalexin, Amoxillin, … tiêm
bắp. Thời gian tiêm kháng sinh điều trị toàn thân từ 3 - 5 ngày.
Chú ý: Đối với liệu trình điều trị kháng sinh trên bò, ta nên làm
kháng sinh đồ để xác định tính đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh
thì việc điều trị có kết quả hơn.
Ngồi ra trong quá trình điều trị cũng cần các biện pháp hỗ trợ như:
giảm lượng thức ăn tinh trên bò bị viêm vú (do trong thời gian điều trị
không khai thác sữa), có chế độ chăm sóc riêng, bổ sung ADE và các
vitamin.

19



Tùy loại kháng sinh điều trị, thời gian khai thác sữa trở lại sau
điều trị là 2 - 3 ngày.
Cần phải:
- Áp dụng quy trình chăm sóc ni dưỡng tốt.
- Định kỳ vệ sinh sát trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và
các dụng cụ vắt sữa.
- Đảm bảo chuồng trại khơ ráo, khơng đọng phân, nước tiểu.
- Cho bị ăn sau khi vắt sữa để giữ bò ở tư thế đứng trong một
thời gian, hạn chế vi trùng xâm nhập vào đầu vú.
- Thực hiện quy trình kiểm sốt vệ sinh vắt sữa.
- Thực hiện thao tác vắt sữa đúng kỹ thuật.
- Thường xuyên kiểm tra bầu vú, kiểm tra độ nhiễm vi sinh của
sữa bằng phương pháp thử cồn, CMT (6 tháng/ 1 lần) để sớm phát hiện
bệnh viêm vú.
- Dùng vaccin phòng bệnh viêm vú bò sữa (định kỳ 6 tháng/
lần).
Phải kiểm sốt thật tốt q trình vắt sữa để phòng ngừa sự lây lan
bệnh từ bò bệnh sang bò khỏe; Đồng thời, ngăn chặn những điều kiện
thuận lợi giúp cho các vi khuẩn xâm nhập vào bầu vú gây bệnh.
Vắt sữa bằng tay: nên vắt nắm, hạn chế kéo vuốt tránh gây tổn
thương niêm mạc vú.
Vắt sữa bằng máy: chỉ sử dụng máy vắt sau khi bò đẻ vài ngày,
bầu vú hết thủy thũng. Thời gian vắt bằng máy từ 3 – 5 phút, không
được để ống hút ở đầu vú quá 6 phút; Áp lực hút vừa phải, khơng
nhanh. Trước khi vắt cần xoa bóp bầu vú để kích thích tiết sữa.
* Trước khi vắt sữa:
- Chuồng vắt phải khô ráo, sạch sẽ.


20


- Toàn bộ dụng cụ vắt sữa phải sạch sẽ, sát trùng hoặc tráng qua
nước sôi phơi khô.
- Quần áo người vắt sữa phải sạch, rửa tay bằng xà phòng và lau
khô bằng khăn sạch trước khi vắt sữa.
- Dùng khăn sạch nhúng vào nước ấm 40 – 42oC rửa sạch đầu vú,
sau đó lau khơ bằng khăn sạch, mỗi bò sử dụng 1 khăn lau riêng.
* Vắt sữa:
- Vắt bỏ tia sữa đầu ở mỗi núm vú vào ca (không vắt trực tiếp
xuống nền chuồng), cho vào hố tiêu độc.
- Quan sát màu sắc, mùi vị, trạng thái (có vón cục khơng?) những
tia sữa đầu. Loại bỏ những phần sữa bị ô nhiễm. Vắt kiệt sữa để tăng
tỷ lệ mỡ sữa và giảm nguy cơ viêm vú.
- Bò khỏe vắt trước, bò bệnh vắt sau.
- Sữa của những con bò đang bị viêm vú và đang điều trị kháng
sinh phải để riêng không nhập chung vào sữa sạch để bán.
* Sau khi vắt sữa:
- Vệ sinh bầu vú bằng nước sạch, nhúng các đầu vú vào dung
dịch sát trùng Iod.
- Rửa sạch toàn bộ dụng cụ vắt sữa bằng xà phòng, đem phơi
dưới nắng.
- Nên cho bò ăn ngay sau khi vắt sữa xong để bò trong tư thế
đứng trong thời gian chờ cơ vòng đầu vú co hẳn lại, tránh sự xâm nhập
của các vi khuẩn.
Chú ý: Không nên cạn sữa đột ngột bò dễ bệnh viêm vú.
Một số biến chứng thường thấy do bệnh viêm vú trên bò sữa gây
ra là:


21


1. Teo bầu vú: trong bệnh viêm vú, phần lớn các tế bào vú bị tổn
thương, cơ năng tiết sữa khơng phục hồi. Thể tích thùy vú mắc
bệnh nhỏ hơn bình thường, khả năng tiết sữa của tuyến vú giảm
hoặc mất hẳn.
2.
2. Xơ cứng bầu vú: là hậu quả do kế phát viêm vú nặng, các tổ
chức tuyến vú bị teo đi. Khi sờ bầu vú hoặc ấn các tuyến vú thấy
những cục rắn hoặc rắn toàn bộ. Quan sát sau khi vắt sữa, thể tích thùy
vú khơng giảm. Lượng sữa giảm. Nếu xơ cứng một phần tuyến vú thì
sữa lỗng màu xám, vón cục lợn cợn.
3. Bầu vú hoại tử: là hiện tượng bầu vú thối loét và phân hủy do vi
khuẩn gây hoại tử xâm nhập vào tuyến vú qua đường tiết sữa, vết thương
trên bầu vú hoặc mạch máu. Triệu chứng ban đầu bề mặt vú có những
mảng màu hồng tím, cứng, đau. Sau đó lt và hoại tử có mủ, tồn bộ
thùy vú sưng to, ấn vào thấy nước hồng chảy ra. Hạch lâm ba vú sưng to,
đau, có triệu chứng bại huyết.

Điều trị
Những trường hợp viêm vú lâm sàng cấp tính do coliforms thì
khơng cần thiết điều trị bằng kháng sinh, bởi thời gian bệnh ngắn và tỷ
lệ tự khỏi cao. Trường hợp này chỉ cần sử dụng thuốc kháng viêm,
chất điện giải, oxytocin. Trong điều trị bệnh viêm vú bò, kháng sinh
thường được cấp qua đường bơm trực tiếp vào thùy vú hay qua
đường tiêm dưới da, tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch.

22



Khi phát hiện bò bị viêm vú cần cách ly bò sữa ốm, giảm khẩu
phần thức ăn tinh, thức ăn chứa nhiều nhựa, nhiều nước và thức ăn
chứa hàm lượng dinh dưỡng cao khi bò bị viêm vú nhằm giảm quá
trình tạo và tiết sữa. Tăng cường vắt sữa từ 3 - 5 lần/ngày để thải trừ
mầm bệnh, giảm cương cứng bầu vú, thường xuyên tiến hành xoa
bóp bầu vú bị viêm bằng khăn sạch nhúng vào nước ấm, vắt kiệt sữa
bị viêm ra ngoài, ngày 3 - 4 lần và vệ sinh bầu vú và chuồng trại sạch
sẽ. Kiểm tra sau điều trị, sau 5 ngày nếu lượng tế bào Soma và mức
CMT vẫn cao, thì phải thực hiện thêm liệu trình mới.
Thơng thường bị bị viêm vú thường kế phátp nhiễm khuẩn nên
cần sớm sử dụng kháng sinh điều trị. Khi điều trị bằng kháng sinh cần
chú ý đến việc chọn loại kháng sinh và cách đưa kháng sinh vào cơ thể
bò sữa.
Đối với bò viêm vú được phát hiện kịp thời thì ta sử dụng một
trong các kháng sinh để tiêm vắt cho bò. Đối với bò bị viêm vú nặng
thì dùng kháng sinh để tiêm bắp cho bị cịn sử dụng kim thơng vú
bơm nước muối sinh lý hoặc dung dich thuốc tím pha lỗng với nồng
độ 1% vào bầu vú, vắt kiệt sữa, tuyến vú, sau đó bơm trực tiếp kháng
sinh (khơng sử dụng loại kháng sinh nhũ dầu bơm vào bầu vú) hoặc
các dạng thuốc trị viêm vú vào bầu vú với liều lượng theo hướng dẫn.
Ngoài ra rất cần kết hợp hộ lý chăm sóc bị sữa, cung cấp đầy đủ thức
ăn, nước uống theo nhu cầu nếu bò ăn uống kém cần tiến hành truyền

23


Gluco 5% hoặc 10% cho bò, mỗi lần từ 500 - 1000ml đồng thời bổ
sung vitamin bằng cách tiêm bắp tăng sức đề kháng cho bò.
Nếu các vết thương cư trú lâu trong vú thì tốt nhất là điều trị cục

bộ. Điều quan trọng là phải biết được các loại kháng sinh và vi khuẩn
gây bệnh mẫn cảm, cũng như nồng độ ức chế tối thiểu. Các liên cầu
khuẩn thì mẫn cảm với penicilline - G. Ngược lại, phần lớn các tụ cầu
khuẩn hình thành penicillnase và trong trường hợp nhiễm loại này thì
cần sử dụng các kháng sinh khơng bị penicillnase phân hủy. Khi nhiễm
các tụ cầu khuẩn, nên sử dụng các kháng sinh trên cơ sở cloxacilline,
oxacilline, dicloxacilline, licomycine, erytromycine, kanamycine,
bacitracine. Nếu viêm nhiễm do liên cầu khuẩn và tụ cầu khuẩn gây ra,
nên sự dụng phối hợp penicilline - G. Việc sử dụng phối hợp một
kháng sinh có tác dụng diệt và một kháng sinh có tác dụng kiềm hãm
khơng có ý nghĩa lớn .
Phịng bệnh
Một số biện pháp phòng bệnh viêm vú trên bò sữa: Cần chọn
giống tốt, thực hiện đúng quy trình ni dưỡng, vấn đề thú y cũng cần
thực hiện tốt, tiêm phòng đầy đủ cho bò sữa, trước khi vắt sữa cần vệ
sinh sạch sẽ chuồng trại, bầu vú bò, và các thiết bị vắt sữa cần nhúng
đầu vú vào dung dịch thuốc sát trùng Iodine Biodine, Rivanol
Revanol, rửa dụng cụ vắt sữa bằng xà phịng và tráng nước sơi, phơi
trên giá. Khơng để bò nằm ngay sau khi vắt sữa, tránh cho bầu vú và

24


×