Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Phong Cách Của Ernest Hemingway Trong Tiểu Thuyết Khảo Sát Tiểu Thuyết Chuông Nguyện Hồn Ai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.76 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA NGỮ VĂN
----------

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:

PHONG CÁCH CỦA ERNEST HEMINGWAY
TRONG TIỂU THUYẾT (KHẢO SÁT
TIỂU THUYẾT CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI)

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. MAI THẾ MẠNH

Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THỊ TUYẾT

Lớp

: D11NV02

Khóa

: 2011 – 2015

Hệ


: Chính quy

Bình Dương, 5/2015


LỜI CẢM ƠN
Đƣợc sự cho phép của khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Thủ Dầu Một,
cùng với sự đồng ý của thầy giáo ThS. Mai Thế Mạnh, tôi đã thực hiện đề tài
“Phong cách của Ernest Hemingway trong tiểu thuyết (Khảo sát tiểu thuyết
Chuông nguyện hồn ai)” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Để hồn thành đề tài này, lời đầu tiên tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến thầy giáo ThS. Mai Thế Mạnh đã tận tình, chu đáo
hƣớng dẫn tơi thực hiện đề tài này trong suốt thời gian nghiên cứu.
Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cơ giáo
trong khoa Ngữ Văn đã nhiệt tình động viên, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho
tôi hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến ơng bà, cha mẹ, bạn
bè của tôi – những ngƣời luôn bên cạnh chia sẻ, động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã hết sức nỗ lực, cố gắng, nhƣng do kiến thức và kinh nghiệm
còn hạn hẹp nên đề tài khơng tránh khỏi sai sót, rất mong nhận đƣợc sự chỉ
đạo, đóng góp ý kiến từ các thầy cơ giáo để đề tài đƣợc hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong các cơng
trình khác.
Sinh viên

(Kí tên)

Nguyễn Thị Tuyết


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu: .................................................................................................................... 1

1.

Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2.

Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3

2.1. Một số cơng trình nghiên cứu về Ernest Hemingway ở nƣớc ngoài................. 3
2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về Ernest Hemingway ở Việt Nam ................... 5
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 8

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 8


6.

Cấu trúc đề tài ............................................................................................. 8

CHƢƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN ......................................................... 10
1.1

Giải pháp thuật ngữ ................................................................................. 10

1.2

Nhà văn Ernest Hemingway ..................................................................... 15

1.2.1 Sơ lƣợc về tiểu sử ....................................................................................... 15
1.2.2 Con đƣờng đến với văn học và những sáng tác của E.Hemingway ........... 16
1.2.3 Đôi nét về phong cách viết của E.Hemingway .......................................... 19
1.3

Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai ......................................................... 20

1.3.1 Hoàn cảnh sáng tác ..................................................................................... 20
1.3.2 Giá trị của tác phẩm trong sáng tác của E.Hemingway ............................. 20
1.3.3 Sơ lƣợc về nội dung tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai ............................ 21
CHƢƠNG 2: PHONG CÁCH CỦA E NEST HEMINGWAY X T T

N

PHƢƠNG I N NỘI UNG ............................................................................. 23
2.1


Đề tài ........................................................................................................... 23


2.2 Cảm hứng sáng tác ..................................................................................... 26
2.3

Tinh thần nhân đạo ................................................................................... 32

2.4

Đời sống nhân vật ...................................................................................... 37

CHƢƠNG 3: PHONG CÁCH CỦA E NEST HEMINGWAY X T T

N

PHƢƠNG I N NH THUẬT ......................................................................... 44
3.1

Kết cấu, cốt truyện ................................................................................... 46

3.2

Không gian, thời gian ............................................................................... 49

3.2.1 Không gian ................................................................................................. 49
3.2.2 Thời gian ..................................................................................................... 52
3.3


Ngôn ngữ, giọng điệu ............................................................................... 55

3.4.

Miêu tả tâm lý nhân vật ........................................................................... 61

K T LUẬN .......................................................................................................... 66
TÀI LI U THAM KHẢO .................................................................................. 68


MỞ Đ U
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XX là giai đoạn khó quên nhất trong lịch sử thế giới với những biến động
lớn lao của nhân loại trên khắp mọi lĩnh vực từ triết học, kinh tế, khoa học kĩ
thuật… cho đến an ninh thế giới. Chỉ trong vòng ba mƣơi năm, thế giới đã trải qua
hai cuộc đại chiến, trật tự thế giới bị đảo lộn, cuộc sống con ngƣời trở nên xáo trộn
hơn bao giờ hết. Trƣớc tình hình đó, văn học cũng dần có những bƣớc chuyển mình
lớn lao. Sự đổi mới và phát triển của văn học giai đoạn này đƣợc đánh dấu với sự
xuất hiện của nhiều nhà văn tên tuổi nhƣ: André Gide, Franz Kafka, Jean Paul
Sartre, Albert Camus, Samuel Beckett… những tác phẩm kinh điển của họ đã làm
phong phú và rực rỡ thêm cho văn học thế giới. Nhắc đến những nhà văn hiện đại
tiêu biểu nhất của thế kỉ XX, chúng ta khơng thể khơng nhắc đến Ernest
Hemingway. Ơng đã đóng góp cho văn học thế giới những tuyệt tác (Giã từ vũ khí,
Chng nguyện hồn ai, Ơng già và biển cả…) đƣợc ơng viết từ chính những trải
nghiệm trong cuộc đời đầy phiêu lƣu của mình. Ernest Hemingway là nhà văn tiêu
biểu cho nền văn học chống chiến tranh và mô tả số phận của những con ngƣời
trong chiến tranh. Ông nổi tiếng với khả năng biến văn chƣơng báo chí thành văn
chƣơng tiểu thuyết và sử dụng thành công các thủ pháp nghệ thuật nhƣ nghệ thuật
tảng băng trôi, độc thoại nội tâm…
Trong các tác phẩm của E.Hemingway, Chuông nguyện hồn ai đƣợc xem là

bƣớc ngoặt trong sáng tác tiểu thuyết của ông. Tác phẩm chứa nhiều yếu tố nghệ
thuật đặc trƣng và mới mẻ về tƣ tƣởng, phong cách sáng tác; cách xây dựng nhân
vật; ngôn ngữ… Cuốn tiểu thuyết này mang đậm phong cách Hemingway về cả nội
dung lẫn nghệ thuật. Ngoài ra, tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai đƣợc xem là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách trữ tình trong sáng tác của E.Hemingway. Đó là
những đoạn trữ tình sâu sắc ca ngợi những tâm hồn cao cả của con ngƣời của tình
bạn, tình đồng chí, tình u đầy cảm động giữa Jordan và Maria, sự kiên cƣờng,
lịng dũng cảm và tình u nƣớc sâu sắc của El Sordo, Anselmo, Pilar… cùng với

1


đó là những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dịng trữ tình ngoại
đề khiến cốt truyện của Chuông nguyện hồn ai tƣởng nhƣ đơn giản lại trở nên sinh
động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu… đã
cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi đọc nó.
Nhƣ vậy, là một cây đại thụ của văn học thế kỉ XX, Ernest Hemingway với
những đóng góp to lớn của mình cho lịch sử nhân loại xứng đáng trở thành nhà văn
mang tầm vóc thế giới và thời đại, là tấm gƣơng sáng cho các nhà văn ở thế hệ sau
tiếp nối. Đƣợc biết đến tên tuổi của E.Hemingway với những trang viết sâu sắc
cùng nguyên lí tảng băng trơi trong Ơng già và biển cả khi cịn học ở phổ thông,
bản thân tôi rất ngƣỡng mộ tài năng, nhân cách và con ngƣời của ông cũng nhƣ các
tác phẩm mà ơng sáng tác. Tình cảm ấy càng lớn hơn khi tôi đƣợc tiếp cận và biết
đến cuốn tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai đƣợc ông viết rất chân thực và sâu sắc
theo chủ nghĩa hiện thực lãng mạn. Với những trang viết vừa hiện thực vừa trữ tình
và mang đậm phong cách viết của Hemingway, Chuông nguyện hồn ai đã làm nên
thành cơng vang dội và có sức ảnh hƣởng lớn trên văn đàn thế giới. Chính sự đặc
biệt và mới mẻ này trong tác phẩm cũng nhƣ trong sáng tác của ông đã khơi dậy và
thôi thúc tơi đi nghiên cứu về nó. Qua tìm hiểu, tơi nhận thấy hiện tại chƣa có cơng
trình nghiên cứu nào thật sự sâu sắc, có hệ thống về phong cách của E. Hemingway

trong tác phẩm Chng nguyện hồn ai. Chính vì vậy tơi đã quyết định chọn “Phong
cách của Ernest Hemingway trong tiểu thuyết (Khảo sát tiểu thuyết Chuông nguyện
hồn ai)” là đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Việc tìm hiểu phong cách của E.Hemingway trong tác phẩm sẽ tạo điều kiện cho
tơi tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của E.Hemingway cũng nhƣ
tác phẩm Chuông nguyện hồn ai. Đồng thời giúp tôi nhận thức đƣợc rõ hơn những
đóng góp của E.Hemingway trong văn học tiến bộ Mỹ và văn học hiện đại thế giới
thế kỉ XX. Ngoài ra, việc nghiên cứu sẽ góp phần làm tƣ liệu mới, quý báu để cung
cấp thêm vốn hiểu biết phục vụ việc học tập và giảng dạy của thầy và trò trong nhà
trƣờng.

2


2. Lịch sử vấn đề
Chuông nguyện hồn ai là tác phẩm hiện thực lãng mạn nổi tiếng của nhà văn
Ernest Hemingway. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi trong giới phê
bình văn học bởi bên cạnh những lời khen, tác phẩm cũng nhận đƣợc một số lời
nhận xét về nhƣợc điểm tồn tại trong đó. Tuy nhiên qua tìm hiểu,ngƣời viết nhận
thấy dù tác phẩm đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu nhƣng hầu nhƣ chƣa có
cơng trình nghiên cứu nào thật sự sâu sắc và có hệ thống về phong cách của
E.Hemingway trong tiểu thuyết Chng nguyện hồn ai. Điều này khơng có nghĩa là
phủ nhận hồn tồn các cơng trình đã nghiên cứu về Hemingway. Trƣớc một nhà
văn lớn và đặc biệt nhƣ Hemingway, ngƣời ta có vơ số lựa chọn và mỗi nhà nghiên
cứu lại tìm cho mình một con đƣờng riêng để đến với ơng. Có ngƣời thì nghiên cứu
về về tiểu sử, những thăng trầm trong cuộc đời của Ernest Hemingway. Lại có
ngƣời đi vào một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật sáng tác của ơng. Thậm chí có
ngƣời chỉ đi sâu vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể mà họ u thích nhƣ đề tài của
tơi chẳng hạn… Thật khó để kể hết những cơng trình tâm huyết ấy nhƣng bằng
những hiểu biết và tiếp cận ban đầu của mình, ngƣời viết sẽ cố gắng giới thiệu đến

bạn đọc một cách ngắn gọn và đầy đủ nhất có thể. Để đạt đƣợc mong muốn đó và
tạo cho bài viết có hệ thống mạch lạc, tơi tạm tách các cơng trình nghiên cứu về
Ernest Hemingway thành hai phần. Thứ nhất, một số cơng trình nghiên cứu về
E.Hemingway ở nƣớc ngồi. Thứ hai, một số cơng trình nghiên cứu về
E.Hemingway ở Việt Nam.
2.1. Một số cơng trình nghiên cứu về Ernest Hemingway ở nƣớc ngồi
Trong giới phê bình văn học thế giới đã có rất nhiều những cơng trình nghiên
cứu lớn và có giá trị cao về E.Hemingway và những tác phẩm của ơng.
Về ngun lí tảng băng trơi – một thi pháp sáng tác nổi tiếng của
E.Hemingway, nhà nghiên cứu Carlos Baker là ngƣời đầu tiên chú ý đến vấn đề này
và có trong cơng trình “Hemingway: Nhà văn như một nghệ sĩ” (Hemingway: The
Writer as Artist)đƣợc xuất bản tại New York năm 1952. Trong cơng trình, ơng đã

3


khảo sát hầu hết những truyện ngắn và tiểu thuyết của Hemingway để từ đó đi lí
giải ngun lí tảng băng trơi. Cũng đề cập đến ngun lí tảng băng trôi, bên cạnh
nhà nghiên cứu Lionel Trilling (Hemingway và các nhà phê bình – Hemingway and
His Critics) hay nhà nghiên cứu H.E.Bates (Truyện ngắn của Hemingway –
Hemingway’s Short Stories) cùng cho rằng lối viết của E.Hemingway “có thể truyền
tải nhiều thứ trên giấy mà khơng phải nói chút nào về chúng”, cịn có nhà nghiên
cứu James Fent, ơng xem thao tác lƣợc bỏ của ngun lí tảng băng trơi nhƣ một kĩ
thuật buộc ngƣời đọc suy ra phần bị lƣợc bỏ và ông coi “đây là tinh chất
Hemingway”.
Bàn về tiểu thuyết của E.Hemingway, trong giới nghiên cứu đã có rất nhiều
nhà phê bình đề cập về chủ đề này nhƣ Maxwell Geismar (Writers in Crisis), ông đã
cho rằng E.Hemingway là nhà tiểu thuyết chiến tranh; hay John Killinger
(Hemingway và những vị Chúa đã chết, New York, 1965) đã tiếp cận sáng tác của
Hemingway từ phạm trù Hiện sinh chủ nghĩa hoặc nhận định của William Flint

Thrall và Addison Hibbad (A Handbook a Literature, New York, 1960) cho rằng
E.Hemingway đã tạo nên một kiểu tiểu thuyết mới nhƣng chủ yếu là lãng mạn với
những hàm ý…
Nhân vật là phƣơng diện đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý đến nhiều nhất đối
với sáng tác của E.Hemingway. Hầu hết nhà nghiên cứu nào cũng đề cập đến
phƣơng diện này. Tiêu biểu nhất là bài viết của Maxwell Gesimar (Writers in Crisis,
1947) với thừa nhận “nhân vật của Hemingway mang dấu ấn quan niệm của chính
tác giả hay nhân vật chƣa hẳn là hóa thân của tác giả” nhƣng mặt khác, “hƣ cấu
nghệ thuật – của chủ thể ấy, là cái tôi quan niệm của E.Hemingway: thốt ly và
nhập cuộc vẫn ln ln gắn với xã hội Mỹ, nƣớc Mỹ, với nền văn hóa Mỹ, với tình
hình nƣớc Mỹ những năm 20, 30.”. Tiếp sau đó là cơng trình nghiên cứu tổng hợp
về nhân vật có hệ thống của Philip Young (Ernest Hemingway) và Carlos Baker
(Hemingway: The Writer as Artist) đã mở ra những hƣớng mới về ngôn ngữ nhân
vật, thi pháp…

4


Những cơng trình nghiên cứu nƣớc ngồi nêu trên là những đóng góp quý giá về
E.Hemingway cho văn học thế giới nói chung và cho các nhà nghiên cứu phê bình
nói riêng. Trƣớc một nhà văn tài năng và có sức ảnh hƣởng lớn nhƣ E.Hemingway,
rất nhiều nhà nghiên cứu đã dày công nghiên cứu tỉ mỉ, nghiêm túc về ông và các
sáng tác của ông. Ở Việt Nam đã có hàng trăm cơng trình (bao gồm các giáo trình,
luận án, luận văn trong các trƣờng Cao đẳng và Đại học, các cơng trình nghiên cứu
in riêng, các tiểu luận, các bài viết và bài giới thiệu đăng trên tạp chí, báo...) nghiên
cứu về nhiều khía cạnh, phƣơng diện. Để bạn đọc có thể tiếp cận và biết thêm về
những nghiên cứu ấy, ngƣời viết sẽ giới thiệu một số bài nghiên cứu tiêu biểu mà
ngƣời viết bƣớc đầu đã tìm hiểu đƣợc trong mục “Một số cơng trình nghiên cứu ở
Việt Nam” dƣới đây.
2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về Ernest Hemingway ở Việt Nam

Những sáng tác của Hemingway đều đƣợc các thế hệ đọc giả Việt Nam đón đọc.
Điều này cũng cho thấy đƣợc giá trị và vị trí của E.Hemingway và bản thân những
tác phẩm của ông trong lòng bạn đọc Việt Nam. E.Hemingway là một nhà văn Mĩ
quen thuộc đối với đọc giả Việt Nam, ông có những ảnh hƣởng lớn trong sáng tác
của nhiều nhà văn Việt Nam. Hơn nữa, tác phẩm của ông cịn đƣợc đƣa vào chƣơng
trình học bắt buộc ở bậc Trung học và Đại học (ngành văn học) ở Việt Nam. Chính
những điều trên đã đặt ra và địi hỏi những cơng trình nghiên cứu thật sự sâu sắc,
nghiêm túc và có hệ thống về E.Hemingway ở Việt Nam.
Trong số những cơng trình nghiên cứu về Hemingway ở Việt Nam, khơng thể
khơng nhắc đến Lê Đình Cúc với các bài viết trên Tạp chí Văn học nhƣ: Bi kịch
Hemingway (số 6, 1983) hay Nghệ thuật tiểu thuyết Ernest Hemingway (số 2,
1985). Năm 1985, Lê Đình Cúc cũng thực hiện luận án phó Tiến sĩ của mình với đề
tài Tiểu thuyết về chiến tranh của Hemingway. Trong luận án của mình, Lê Đình
Cúc đã đi phân tích, lí giải đƣợc quan niệm thái độ của E.Hemingway đối với chiến
tranh. Đây cũng là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong sáng
tác của Hemingway ở Việt Nam.

5


Năm 1999, Lê Huy Bắc, một chuyên gia với nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu
đã cho ra đời cuốn sách Hemingway và những phương trời nghệ thuật (NXB Giáo
dục, Hà Nội), trong đó ơng cho rằng “Thế giới của Hemingway không chỉ là thế
giới của những căng thẳng, đổ vỡ mà còn là thế giới của nhiều cạm bẫy”. Ngồi ra
trong cuốn sách ơng cịn nhắc đến yếu tố khơng gian tác động đến tính cách nhân
vật “Hemingway xây dựng khơng gian này là để khắc họa nên tính cách chủ đạo
chung cho các nhân vật, tính cách anh hùng”. Đến năm 2001 ông tiếp tục cho ra mắt
cuốn Ernest Hemingway Núi băng và hiệp sĩ (NXB Giáo dục, Hà Nội). Trong
Ernest Hemingway Núi băng và hiệp sĩ, Lê Huy Bắc đã phân tích và khái quát
những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật E.Hemingway nhƣ nguyên lí tảng băng trôi,

cách xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ…
Nối tiếp Lê Huy Bắc, năm 2003, Đào Ngọc Chƣơng cũng đã giới thiệu đến văn
đàn Việt Nam cuốn Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway (NXB
Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh). Trong đó, Đào Ngọc Chƣơng đã đi sâu và lí
giải nhiều vấn đề trong sáng tác của Hemingway nhƣ: nguyên lí tảng băng trôi, thi
pháp, nhân vật…
Năm 2000, Trần Thị Thuận cũng đã nghiên cứu về Đặc trưng thể loại truyện
ngắn qua truyện ngắn của Enest Hemingway để thực hiện luận án Tiến sĩ của mình.
Trong đó, Trần Thị Thuận đã thơng qua nhân vật chủ đạo Nick Adam để khái quát
lên đặc điểm thể loại truyện ngắn của E.Hemingway.
Đặc biệt là nghiên cứu của Đặng Anh Đào trong “Chƣơng IV: Ơnixt
Hêmingway” (Văn học phương Tây, tập 3, NXB Giáo Dục, 1992 do Phùng Văn
Tửu chủ biên) đã khái quát về cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp và phong cách sáng tác
của E.Hemingway, nhất là ngun lí tảng băng trơi.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đã có những
đóng góp lớn về E.Hemingway ở nhiều phƣơng diện, khía cạnh khác nhau nhƣ: thể
loại, nhân vật, phong cách nghệ thuật, đề tài… Tất cả những cơng trình nghiên cứu
ấy là những gợi ý cho đề tài khóa luận của tơi trong q trình thực hiện. Tuy nhiên,

6


các đề tài trên chƣa có những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về phong cách trữ
tình trong sáng tác của E.Hemingway hoặc phong cách trữ tình trong tiểu thuyết
Chng nguyện hồn ai. Chính vì lí do này, tơi đã quyết định đi tìm hiểu và nghiên
cứu đề tài: Phong cách của Ernest Hemingway trong tiểu thuyết (Khảo sát tiểu
thuyết Chuông nguyện hồn ai).
Trên đây là tất cả những cơng trình nghiên cứu điển hình mà ngƣời viết có thể
cung cấp cho bạn đọc, đồng thời đó cũng là cơ sở để tơi có thể hồn thành tốt nội
dung khóa luận. Và những cơng trình cũng nhƣ những tài liệu có liên quan đến đề

tài khóa luận, ngƣời viết sẽ liệt kê trong phần tài liệu tham khảo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai là một sáng tạo nghệ thuật xuất sắc và là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách của Enest Hemingway trong tiểu thuyết. Vƣợt lên
trên những giá trị lịch sử, đặc trƣng trong sáng tác tiểu thuyết đã đƣợc
E.Hemingway đƣa vào trong tác phẩm và khiến nó trở thành cuốn tiểu thuyết mang
một giá trị to lớn, trở thành bản hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân
Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hịa, kéo dài từ năm
1936 đến 1939. Vì vậy, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu đặt ra ở trên, nội dung
nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung đi vào những vấn đề sau:
 Thứ nhất, phong cách của E.Hemingway biểu hiện qua nội dung.
 Thứ hai, phong cách của E.Hemingway biểu hiện qua nghệ thuật.
Với nhiệm vụ trên, trong đề tài này ngƣời viết sẽ lần lƣợt đi khảo sát: đề tài, chủ
đề, tƣ tƣởng, ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật (tiêu biểu là nhân vật Robert
Jordan, María, Anselmo, El Sordo, Pilar), cách sử dụng ngơn ngữ, kết cấu, cốt
truyện... trong tác phẩm. Từ đó cho ta thấy đƣợc bức tranh hiện thực sinh động về
cuộc chiến chống Franco của nhân dân Tây Ban Nha trong cuốn tiểu thuyết Chuông
nguyện hồn ai với nội dung nhân đạo sâu sắc cũng nhƣ phong cách của
E.Hemingway trong tiểu thuyết. Đồng thời qua đó ta cũng thấy đƣợc sự sáng tạo

7


nghệ thuật và những đóng góp lớn lao của nhà văn cho lịch sử phát triển văn học
tiến bộ Mỹ và văn học hiện đại thế giới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tƣợng nghiên cứu: Phong cách của Ernest Hemingway trong tiểu thuyết.


-

Phạm vi nghiên cứu:
+ Tập trung nghiên cứu tác phẩm Chuông nguyện hồn ai qua bản dịch tiếng
Việt của hai dịch giả Nguyễn Vĩnh – Hồ Thể Tần, NXB Văn học, 2010.
+ Tìm hiểu thêm một số tác phẩm khác của E.Hemingway, đặc biệt là các tác
phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết nhƣ: Giã từ vũ khí, Mặt trời vẫn mọc, Ơng già
và biển cả.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hồn thành tốt bài luận văn, tơi sẽ thực hiện các phƣơng pháp sau trong quá trình
nghiên cứu:
-

Phƣơng pháp phân tích: đi sâu vào vấn đề, mổ xẻ từng chi tiết nhỏ và lí giải
chúng bằng sự hiểu biết của bản thân trên cơ sở kiến thức nhất định và những
căn cứ văn bản (để cho việc phân tích có sức thuyết phục thì ngƣời viết sẽ sử
dụng các luận cứ và luận điểm một cách hợp lí).

-

Phƣơng pháp tổng hợp: khảo sát, thu thập các vấn đề có liên quan, sau đó tổng
hợp và ghi nhận lại những vấn đề, những tƣ liệu giúp ích cho bài nghiên cứu.

-

Phƣơng pháp đối chiếu so sánh: đƣa các yếu tố trong phong cách Hemingway
trong tác phẩm với các tác phẩm khác trƣớc đó của E.Hemingway để làm bật
lên ý nghĩa cũng nhƣ vai trò của phong cách E.Hemingway trong tác phẩm.


-

Phƣơng pháp lịch sử: đặt E.Hemingway trong nền văn học đƣơng thời để
nghiên cứu và làm nổi bật phong cách E.Hemingway trong tiểu thuyết Chuông
nguyện hồn ai.
6. Cấu trúc đề tài

8


Chƣơng 1: Những cơ sở lí luận
1.1

Giải thích thuật ngữ

1.2

Nhà văn Ernest Hemingway
1.2.1 Sơ lƣợc về tiểu sử
1.2.2 Con đƣờng đến với văn học và những sáng tác của
E.Hemingway
1.2.3 Đôi nét về phong các viết của E.Hemingway

1.3

Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai
1.3.1 Hồn cảnh sáng tác
1.3.2 Vị trí của tác phẩm trong sáng tác của E.Hemingway
1.3.3 Sơ lƣợc về nội dung tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai


Chƣơng 2: Phong cách của Ernest Hemingway xét trên phƣơng diện nội dung
2.1

Đề tài

2.2

Cảm hứng sáng tác

2.3

Tinh thần nhân đạo

2.4

Đời sống nhân vật

Chƣơng 3: Phong cách của Ernest Hemingway xét trên phƣơng diện nghệ thuật
3.1

Kết cấu, cốt truyện

3.2

Không gian, thời gian

3.3

Ngôn ngữ, giọng điệu


3.4.

Miêu tả tâm lý nhân vật

K T LUẬN
TÀI LI U THAM KHẢO

9


Chƣơng 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Giải thích thuật ngữ
Khái niệm về “phong cách” từ lâu đã đƣợc sự quan tâm trong rất nhiều
ngành khoa học, mỗi ngành lại có những khái niệm khác nhau tùy theo đặc trƣng
của từng ngành.
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, phong cách là “vẻ riêng trong lối sống,
làm việc của một ngƣời hay hạng ngƣời nào đó: phong cách sống, phong cách lãnh
đạo.” [18;1261].
Trong ngôn ngữ học, phong cách là “phiên dạng của ngơn ngữ có những đặc
điểm lựa chọn, kết hợp và tổ chức phƣơng tiện ngôn ngữ liên quan đến nhiệm vụ
giao tiếp.”[18;1261], từ đó xuất hiện khái niệm: phong cách ngơn ngữ khoa học,
phong cách ngơn ngữ chính luận.
Khơng giống với khái niệm về phong cách trong ngôn ngữ học, khái niệm về
phong cách trong nghiên cứu văn chƣơng luôn đƣợc hiểu một cách rộng rãi đa dạng
và cho đến nay. Theo “Đại từ điển tiếng Việt”, đó là: “tồn bộ thủ pháp sử dụng
phƣơng tiện ngôn ngữ đặc trƣng cho từng nhà văn, tác phẩm, thể loại.” [18;1261].
Có thể nói, phong cách ở mỗi phƣơng diện lại mang đến cho ta rất nhiều các
hiểu khác nhau, song trong khi tìm hiểu nghiên cứu cần phân biệt rõ ba phạm trù
phong cách: phong cách trong sinh hoạt hằng ngày, phong cách ngôn ngữ phong

cách nghệ thuật.
Trong văn học, giới nghiên cứu đã có rất nhiều những quan niệm thuật ngữ,
định nghĩa khác nhau về “phong cách” nhƣng vốn chƣa có sử dụng thống nhất cao.
Có thể nói đây là một vấn đề khá phức tạp trong lí luận văn học. Với những cách
tiếp cận và nhìn nhận ở nhiều cấp độ khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu lại đƣa ra
những quan niệm riêng. Trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và s phát triển
văn học, M.Khrapchenco cho rằng có một số lƣợng lớn những định nghĩa khác nhau

10


về phong cáh văn học, chúng “xòe ra nhƣ cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là
những phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát nhất và sự nhìn nhận nó nhƣ
những đặc điểm của những tác phẩm văn học riêng lẻ.” [46;130]. Ông đã minh
chứng bằng việc đƣa ra hàng loạt những ý kiến nhƣ của V.Turbin: “Phong cách – đó
là ngơn từ đƣợc xét trong mối quan hệ của nó với hình tƣợng, đó là tác động qua lại
thƣờng xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn
đặt vào một văn cảnh nghệ thuật”[17;132]. Ngƣợc lại với ý kiến của V.Turbin,
Ar.Grigôiran lại cho rằng: “Phong cách không thể vô can với phƣơng pháp, với thế
giới quan và bút pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ, với cách hiểu của nghệ sĩ về thời
đại, với đặc thù dân tộc trong sách tác của anh ta… Phong cách là sự thống nhất cao
nhất của tất cả những phạm trù đó.” [17;130]. Cịn VKovalev cho rằng: “Phong
cách – đó là sự thống nhất chỉnh thể của nhà văn, đó là liên hệ qua lại giữa những
yếu tố trong hệ thống nghệ thuật của nhà văn, là những quy định lẫn nhau của
những yếu tố đó.” [17;132]. Riêng L.Norichenko lại tìm thấy sự gần gũi giữa phong
cách và cá tính của ngƣời nghệ sĩ. Ông viết: “Phong cách văn học hiểu theo nghĩa
chung nhất là vẻ đặc thù trong những tác phẩm của nhà văn (hoặc của một nhóm
văn bản), vẻ đặc thù này đƣợc quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống
và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trƣng về nội dung với hình thức
của những tác phẩm ấy.” [17,133]. Trong cơng trình của mình, M.Khrapchenco

cũng đã khái quát: “Phong cách là một tổng thể toàn vẹn những sự kiện biểu cảm
khiến cho lời phát ngơn có một sắc thái ý nghĩa đặc biệt, bất chấp cấu trúc ngữ
nghĩa cơ bản của phát ngôn ấy. Cần coi những “sự kiện biểu cảm” này là những “sự
kiện phong cách” sẽ đƣợc nghiên cứu không phải trong thi pháp học và từ chƣơng
học mà là trong bộ môn ngữ văn đặc biệt. Phong cách học cần nắm bắt những sự
kiện này không phải một cách tách biệt mà bao giờ phải nắm bắt trong tính tồn bộ
của chúng vốn đặc trung của từng tác phẩm, từng tác giả (hoặc từng giai đoạn phát
triển sáng tác của tác giả ấy), từng trƣờng phái, từng nƣớc, từng thời
đại…”[17;135].
Nhƣ vậy ta có thể thấy rằng, mỗi nhà nghiên cứu khi nhìn nhận ở những khía

11


cạnh khác nhau sẽ đƣa ra những nhận định, khái niệm khác nhau, không đồng nhất.
Nhƣng rõ ràng, để gây ấn tƣợng và định hình đƣợc phong cách của mình trong lịng
ngƣời đọc thơng qua những tác phẩm văn học là điều không hề đơn giản và dễ dàng
đối với mỗi nhà văn. Các nhà văn lớn đều đi tìm cho mình những con đƣờng và
phƣơng pháp riêng nhằm thể hiện những tƣ tƣởng, hình tƣợng trở nên lơi cuốn, gần
gũi, hấp dẫn ngƣời đọc, từ đó xây dựng phong cách riêng cho mình. Sự độc đáo về
tƣ tƣởng và cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật khéo léo, tài tình mang đậm chất
thẩm mĩ đƣợc xuất hiện một cách thƣờng xuyên, nhất quán, sáng tạo và không
ngừng đổi mới đã giúp cho các nhà văn ấy có thể tạo nên phong cách riêng biệt của
mình trong thế giới văn học rộng lớn và tạc nên bức tƣợng bất diệt trong lòng đọc
giả.
Trong văn học Việt Nam, thuật ngữ “phong cách” gần đây đã đƣợc giới
nghiên cứu bắt đầu quan tâm, tìm hiểu; các tác giả, tác phẩm cũng dần đƣợc nhìn
nhận dƣới góc độ phong cách. Tuy cịn nhiều điều chƣa thống nhất nhƣng bƣớc đầu
đã thấy đƣợc những quan niệm đổi mới và sáng tạo trong giới nghiên cứu văn học
Việt Nam.

Trong sách í luận văn học do Phƣơng Lựu chủ biên, “phong cách” là “chỗ
độc đáo về tƣ tƣởng cũng nhƣ nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng
tác của những nhà văn ƣu tú”[13;89]. Theo Phƣơng Lựu, “Phong cách tuy là cá tính
sáng tạo nhƣng nó vẫn mang dấ ấn dân tộc và thời đại”[13;93]. Trong nhìn nhận và
đánh giá của Phƣơng Lựu, “Độc đáo là một cách đa dạng, bền vững mà ln ln
đổi mới – bấy nhiêu điều đó là những tiền đề quan trọng nhƣng chƣa đủ làm nên
phong cách. Bởi vì trong văn học cũng có cái dở đến “độc đáo”, thậm chí đến gàn
dở, mà cũng rất ngoan cố, thì đó là qi gở chứ khơng phải là phong cách. Phong
cách, do đó, phải có tính chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho ngƣời đọc một
sự hƣởng thụ mĩ cảm dồi dào.”[13;90]. Ông cho rằng không phải cái riêng nào cũng
là phong cách, nhà văn nào cũng có phong cách bởi mỗi con ngƣời mỗi nhà văn đều
là một sự khác biệt, đều có những nét riêng biệt. Với ông, “Phong cách không
những là dấu hiệu trƣởng thành của một nhà văn, hơn thế nữa, khi nó đã đƣợc nở rộ,
12


thì đó chính là bằng chứng của một nền văn học đã trƣởng thành”[13;91]. Mặt khác,
sự thể hiện phong cách nhà văn cịn bộc lộ ở mọi khía cạnh, phƣơng diện trong tác
phẩm bao gồm cả việc chọn đề tài, cảm hứng chủ đạo, thể loại, việc xây dựng nhân
vật, sử dụng ngôn từ… tất cả đều là những điều thƣờng thấy trong thực tiễn phê
bình khi bàn về phong cách nhà văn.
Khác với quan điểm của Phƣơng Lựu trong cuốn í luận văn học, trong
thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, ông cho rằng phong cách ngôn ngữ
và phong cách trong văn học là hai phạm trù khái niệm khác nhau. Theo Lại
Nguyên Ân, trong ngôn ngữ học, phong cách là hệ thống các yếu tố ngôn ngữ, các
phƣơng thức lựa chọn, sử dụng và kết hợp chúng, nghĩa là chỉ những dạng chức
năng của ngôn ngữ văn học, đồng thời, “Cấu trúc của phong cách ngôn ngữ bị quy
định bởi những nhiệm vụ xã hội của việc giao tiếp bằng ngôn từ trong từng lĩnh vực
giao tiếp của con ngƣời”[1;253]. Bên cạnh đó, khái niệm phong cách trong văn học
theo Lại Nguyên Ân là “nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm

có tính chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt”[1;254]. Ngồi ra, ơng
cịn cho rằng những đặc điểm phong cách trong văn học có sự thể hiện cụ thể, trực
tiếp qua bề mặt của tác phẩm, nhƣ một sự thống nhất giữa hiển thị và cảm giác của
tất cả các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật.
Cũng tìm hiểu và nghiên cứu về khái niệm “phong cách” trong văn học,
Nguyễn Đăng Mạnh đã đƣa quan niệm của mình trong Nhà văn Việt Nam hiện đại,
chân dung và phong cách khá chi tiết và thuyết phục. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng:
“Phong cách nghệ thuật là một khái niệm thuộc phạm trù thẩm mĩ, tức nhà văn phải
thực sự có tài năng và đặc biệt phải thực sự sáng tạo ra đƣợc những tác phẩm hay có
giá trị nghệ thuật cao mới đƣợc xem là nhà văn có phong cách. Phong cách là một
chỉnh thể nghệ thuật. Mỗi nhà văn có phong cách tạo ra cho mình một thế giới nghệ
thuật riêng. Thế giới nghệ thuật ấy dù phong phú, đa dạng thế nào cũng có tính
thống nhất. Cơ sở của tính thống nhất này là một nhỡn quan riêng về thế giới và sâu
xa hơn nữa là tƣ tƣởng nghệ thuật riêng của nhà văn. Chừng nào chƣa nhận ra tính
thống nhất ấy, thì chừng đó, chƣa thể xem là đã nắm đƣợc phong cách của một nhà
13


văn. Phong cách bao gồm những đặc điểm độc đáo của các tác phẩm, của một nhà
văn từ nội dung đến hình thức. Nhƣng phong cách là một cái gì cụ thể, hữu hình có
thể và phải mơ tả đƣợc. Cho nên nói đến phong cách dù có đề cập đến nội dung tƣ
tƣởng, cũng phải chỉ ra đƣợc nội dung ấy đã đƣợc hình thức hóa nhƣ thế nào.”
[14;6].
Cũng có cùng quan điểm với một số nghiên cứu đi trƣớc, Nguyễn Đăng
Mạnh cho rằng dù đổi mới vận động nhƣ thế nào, phong cách vẫn vận động trên
một cơ sở thống nhất, khiến cho các tác phẩm của nhà văn dù có những nét rất khác
nhau thì vẫn là tác phẩm của nhà văn đó chứ khơng ai khác. Bên cạnh đó, phong
cách nghệ thuật ln chuyển biến từ tác phẩm này đến tác phẩm khác vì viết văn là
không ngừng sáng tạo và đổi mới. Phong cách nghệ thuật khi định hình sẽ có tính
bền vững vì để tạo ra phong cách, ngồi thế giới quan cịn rất nhiều nhân tố khác

nhƣ truyền thống gia đình, hồn cảnh sống, mơi trƣờng sống xung quanh, thói quen,
suy nghĩ, cảm xúc… những tác động, những thói quen ấy khơng dễ gì thay đổi. Tuy
vậy, ảnh hƣởng lớn nhất đối với một nhà văn thƣờng là những ấn tƣợng về tuổi thơ
của nhà văn đó từ khi cịn nhỏ.
Nhƣ vậy, để xác định phong cách nghệ thuật của một nhà văn ta cần phải có
cái nhìn tinh tế, sâu sắc, khoa học và phải có sự nhìn nhận, phân biệt đúng đắn giữa
phong cách và phƣơng pháp riêng. Bởi nếu phong cách là dấu hiệu trƣởng thành của
một nhà văn lớn thì phƣơng pháp riêng lại là một tài sản tất yếu của mỗi nhà văn.
Nhà văn không thể sáng tác mà khơng có phƣơng pháp. Nói đúng hơn, nhà văn
cũng có những nét riêng thể hiện trong sáng tác nhƣng không phải ai cũng tạo dựng
đƣợc phong cách cho riêng mình.
Nói chung, phong cách là một chỉnh thể thống nhất, bền vững của các yếu tố
nghệ thuật mang tính thẩm mĩ. Mặc dù vậy, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có
phong cách, phong cách chỉ tồn tại với những nhà văn có bản lĩnh, tài năng. Phong
cách đƣợc thể hiện ở các tác phẩm và lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn đó,
làm cho ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này và nhà văn khác.

14


Tóm lại, để có thể thống nhất khái niệm “phong cách” trong văn học là một
điều rất khó, cần nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên cứu hơn nữa. Tuy nhiên, qua
đây ta cũng có thể hiểu đƣợc “phong cách” nhƣ một dấu ấn riêng, nét độc đáo mang
tính ổn định có biến đổi của nhà văn chứ khơng phải đơn thuần là một sự lặp lại
nghèo nàn, đơn điệu.
1.2

Nhà văn Ernest Hemingway

1.2.1 Sơ lược về tiểu sử.

Nhà văn Ernest Hemingway tên đầy đủ là Ernest Miller Hemingway, sinh
ngày 21-07-1899 tại thị trấn Oak Park nằm ở ngoại ô Chicago, thuộc bang Illinois
(Mỹ) và mất vào ngày 02-07-1961 tại thị trấn Ketchum, Idaho. Ơng đƣợc biết đến
với vai trị là tiểu thuyết gia, nhà văn và nhà báo ngƣời Mỹ.
Ernest Hemingway là ngƣời con thứ hai trong gia đình có sáu anh chị em.
Cha E.Hemingway là ông Clarence Edmonds Hemingway làm nghề bác sĩ. Mẹ
E.Hemingway là bà Grace Hall, bà là giáo viên dạy âm nhạc. Từ nhỏ E.Hemingway
đã bộc lộ rõ tƣ chất thông minh và năng khiếu của bản thân trong việc học ngoại
ngữ, đọc sách, quan sát, nghe ngóng và ghi nhận…Ơng thích đấu võ quyền Anh,
bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân của ơng cũng đƣợc thể hiện bằng các phản
kháng nhỏ nhặt, để rồi sau khi lớn lên nó đã bộc lộ bằng những hành động mang
tầm vóc lớn hơn.
Năm mƣời hai tuổi, sau khi đƣợc ông ngoại tặng cho khẩu súng săn, sau một
thời gian tập luyện, ông đã trở thành một tay thiện xạ. Lên trung học, ông hăng hái
tham gia những hoạt động ngoại khóa và các câu lạc bộ thể thao, văn hóa.
E.Hemingway cịn là biên tập viên của tờ Trapeze, tuần báo của trƣờng. Các thầy cô
nhận xét về ông: là ngƣời rất có ý thức cố gắng vƣơn lên và khao khát muốn làm
ngƣời nổi tiếng. Và chƣa đến mƣời năm sau, tên tuổi của ông đã vang dội trong giới
văn học.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông tới thành phố Kansas làm phóng viên cho
tờ báo Star. Tuy chỉ làm việc cho tờ báo Star trong một thời gian ngắn nhƣng ông
15


đã sử dụng tôn chỉ của tờ báo này để tạo nên phong cách viết riêng cho mình: “Sử
dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng
Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận” (“Use short sentences. Use short
first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative”).
Cuộc đời E.Hemingway là những chuyến đi. Trong đó, ngồi những cuộc đi
săn, đi câu cá, xem đấu bị tót, du lịch… thì những chuyến đi dài, tham gia vào các

cuộc chiến tranh khốc liệt của thế giới cũng là những dấu ấn trong cuộc đời ông mà
ngƣời ta không thể không nhắc đến khi nói về ơng. Đó là ít nhất ba lần ơng tình
nguyện tham chiến và giáp mặt với tử thần. Đầu tiên là ở miền Bắc nƣớc

với vai

trò là tài xế xe cứu thƣơng trong Thế chiến I (1918). Sau đó ơng tham dự chiến đấu
bên cạnh những chiến sĩ cộng hòa Tây Ban Nha (1938) với vai trị là phóng viên
đƣa tin. Và cuối cùng là sự tham gia của ông trong hàng ngũ hải quân của Mỹ trong
Thế chiến II với vai trò là chiến sĩ đánh tàu, rồi tiếp đó ơng tham gia giải phóng
Paris (1945). Việc tham dự chiến tranh đã trở thành một nét trong cách sống của
E.Hemingway. Theo ơng, “có trải qua tất cả các nguy hiểm đó mới có thể tìm đƣợc
chân lí về chiến tranh”. Là ngƣời trực tiếp chiến đấu trên chiến trƣờng nhiều lần và
trở về sau nhiều cuộc đại chiến, phải đối mặt với biết bao khó khăn, gian khổ và
những hiểm nguy, tàn bạo, E.Hemingway có lẽ là ngƣời hiểu chiến tranh hơn ai hết.
Vốn là ngƣời thông minh, nhạy bén và là một phóng viên với nhiều kinh
nghiệm, E.hemingway đến với nghiệp viết văn nhƣ một điều tự nhiên tất yếu. Đề tài
đƣợc ông viết nhiều và thành công nhất cũng chính là chiến tranh. Các tác phẩm của
ơng phần lớn đều nhận đƣợc sự ủng hộ của bạn đọc thế giới. Một số tác phẩm của
ông đƣợc chuyển thể thành phim, dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau và xuất bản tại
nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Gần bốn mƣơi năm cầm bút, Ernest Hemingway đã cho ra đời một số lƣợng
tác phẩm khá lớn với nhiều thể loại nhƣ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… trong đó
ơng thành cơng nhất và đƣợc đánh giá cao nhất với thể loại tiểu thuyết.
1.2.2 Con đường đến với văn học và những sáng tác của E.Hemingway

16


Ernest Hemingway bắt đầu viết văn từ rất sớm. Ngay từ khi cịn học ở Trung

học, ơng đã bắt đầu viết cho tờ báo và cuốn niên giám của trƣờng và giữ vai trị biên
tập khi lên học phổ thơng. Tuy nhiên, nghiệp viết văn của ơng đƣợc chính thức đánh
dấu bắt đầu khi ơng trở thành phóng viên cho tờ báo Star vào năm mƣời tám tuổi.
Tác phẩm đầu tay của ông đƣợc sáng tác ngay khi ông tham gia Thế chiến I. Sau
hàng loạt những chứng kiến về cái chết về sự tàn bạo của chiến tranh, ông đã ghi lại
những trải nghiệm này trong cuốn truyện ngắn đầu tay mang tên: A Natural History
of the Dead (Câu chuyện có thật về cái chết). Tuy nhiên nó chƣa gây đƣợc tiếng
vang cho ông. Phải đến năm 1925, khi cuốn tiểu thuyết: “In Our Time” (Trong thời
đại chúng ta) đƣợc xuất bản bởi Three Moutains Press ở Paris, tên tuổi của
E.Hemingway mới bắt đầu gây đƣợc sự chú ý. Tác phẩm là những mẩu chuyện
ngắn và những phác thảo sắc nét về cuộc sống hậu chiến.
Là một nhà văn trƣởng thành từ những khốc liệt của chiến tranh,
E.Hemingway hiểu rõ chiến tranh, hiểu rõ hết thảy những điều ngƣời lính phải trải
qua trong chiến tranh. Chính vì vậy, sau những chuyến đi dài với nhiều trải nghiệm
mới mẻ, E.Hemingway bị nhiều ám ảnh về cái chết. Thƣờng mỗi lần trở về, phải
mất một thời gian dài sau đó E.Hemingway mới có thể cầm bút viết về chiến tranh.
Từ năm 1925 đến 1950 là giai đoạn thành công nhất trong sự nghiệp viết văn của
ông về cả số lƣợng lẫn chất lƣợng. Trong giai đoạn này ông đã cho ra mắt hàng loạt
những tác phẩm chủ yếu viết về chiến tranh và khẳng định tên tuổi của mình trên
văn đàn thế giới. Đó là một loạt tiểu thuyết nhƣ: The Sun Also Rise (Mặt trời vẫn
mọc, 1926), A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí, 1929), To Have and Have Not (Có
và khơng có, 1937), For Whom the Bells Tolls (Chuông nguyện hồn ai, 1940),
Across the River and into the Trees (Qua sơng vào trong cánh rừng)...Trong số đó,
ặt trời v n mọc và Chuông nguyện hồn ai là hai tác phẩm đƣợc giới chuyên môn
đánh giá cao và đƣợc bạn đọc trên khắp nơi trên thế giới yêu mến.
Sau hàng loạt những tác phẩm thành công viết về chiến tranh, E.Hemingway
đã trở thành nhà văn gắn liền tên tuổi của mình với đề tài này. “Nhà văn chiến
tranh” là cái tên mà giới nghiên cứu phê bình văn học thƣờng nhắc đến mỗi khi nói
17



về ông.
Năm 1952, một lần nữa E.Hemingway lại khẳng định tài năng và tên tuổi của
bản thân qua tiểu thuyết “The ld

an and the Sea” Ông già và biển cả) với mảng

đề tài mới mẻ về những chiêm nghiệm và triết lý sâu sắc từ cuộc sống.Tác phẩm đã
mang lại cho ông sự thành công trọn vẹn cả về thƣơng mại lẫn phê bình văn học.
Cũng từ thành cơng của cuốn tiểu thuyết, sau đó ơng đã cho ra đời một số tác phẩm
cùng đề tài và cũng mang lại dấu ấn riêng nhƣ Islands in the Stream, The Garden of
Eden (Vườn địa đàng), True a

irst light…Có thể thấy các tác phẩm này đã có

nhiều đổi mới trong đề tài cũng nhƣ quan niệm về sáng tác của Hemingway. Ngòi
bút của ông dần hƣớng tới cuộc sống với nhiều tầng sâu, ẩn chứa nhiều bài học sâu
sắc về nhân sinh quan.
Trong quá trình đổi mới và phát triển văn học hiện đại ở thế kỉ XX, so với
các nhà văn cùng thời, bằng những kinh nghiệm, sự nỗ lực làm việc cần mẫn,
nghiêm túc và tài năng của mình, Hemingway đã xuất hiện nhƣ một ngôi sao sáng
trên văn đàn thế giới và trở thành nhà văn tiêu biểu của văn học hiện đại thế kỉ XX.
Hemingway xuất hiện trên nhiều tờ báo với những bài phỏng vấn trực tiếp rất nhiều
lần, dù khơng ai có thể phủ nhận tài năng của ông nhƣng E.Hemingway vẫn luôn tỏ
ra khiêm nhƣờng khi trả lời về khả năng viết của bản thân. Các tác phẩm của
E.Hemingway đã thu hút đƣợc sự quan tâm và yêu thích của rất nhiều bạn đọc trong
nƣớc và trên thế giới. Nhiều tác phẩm của ông đã tạo ra nhiều luồng tranh luận
trong giới phê bình văn học và bạn đọc. Nhƣng những “đứa con tinh thần” của ông
vẫn tràn đầy sức sống và cuối cùng tài năng của E.Hemingway cũng đƣợc khẳng
định bằng những giải thƣởng danh giá nhƣ giải Cống hiến của Học viện Văn học –

Nghệ thuật Hoa Kì, năm 1954; giải Pulitzer cho tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai,
năm 1941 và cho tiểu thuyết Ông già và biển cả, năm 1953; giải Nobel cho những
cống hiến văn học trọn đời của E.Hemingway vào năm 1954.

.

Với những điều đã đạt đƣợc cùng những cống hiến lớn lao cho nền văn thế
giới, E.Hemingway xứng đáng là nhà văn tiêu biểu và là “cây đại thụ” của nền văn

18


học hiện đại thế kỉ XX.
1.2.3 Đôi nét về phong cách viết của E.Hemingway
Qua tìm đọc các tác phẩm của E.Hemingway và những bài nghiên cứu về
ông của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi nhận thấy phong cách E.Hemingway đƣợc
định hình và thể hiện rất rõ qua tiểu thuyết cả về phƣơng diện nội dung và nghệ
thuật.
Về nội dung, các tác phẩm của E.Hemingway đều thể hiện một chủ nghĩa
nhân đạo rõ rệt một sự khẳng định cuộc sống của những con ngƣời có nguồn sinh
lực dồi dào . Từ tác phẩm

ặt trời v n mọc cho đến tác phẩm cuối cùng Ông già và

biển cả, ta thấy các nhân vật của E.Hemingway khát khao yêu cuộc sống và luôn
đứng về phía tiến bộ để chiến đấu chống cái gì đó vơ nhân đạo và phi lí, phi nghĩa.
Đa phần các tác phẩm của E.Hemingway mô tả một xã hội tàn nhẫn trong đó con
ngƣời phải đấu tranh gay gắt. Qua đó ca ngợi những con ngƣời biết hi sinh cho một
lý tƣởng, hoặc đã chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy một sự chiến thắng
về tinh thần ở bên trong (El Sordo, Santiago). Các nhân vật chính là những ngƣời

Mỹ, vì nhiều lý do khác nhau họ từ bỏ nƣớc Mỹ. Họ đứng lên chiến đấu trƣớc nguy
hiểm vì tình u, họ khơng hề từ bỏ chiến đấu, họ vẫn hoàn thành trách nhiệm.
Về cách viết, Hemingway nổi tiếng với ngun lí “Tảng băng trơi” cùng
những ngơn từ cơ đọng, súc tích, những câu văn ngắn có hàm nghĩa sâu sắc ẩn chứa
bên dƣới tạo nên chiều sâu giá trị cho tác phẩm. Đặc biệt trong cách dùng từ ngữ,
ông thƣờng dùng những từ ngữ giản dị nhất, thông thƣờng nhất với cách viết tự
nhiên đã tạo nên một nhịp điệu riêng, một sắc thái, một nhạc tính độc đáo của riêng
ơng mà ngƣời khác khơng thể bắt chƣớc đƣợc. Ngồi ra, lối viết của Hemingway
còn độc đáo ở nghệ thuật đối thoại đậm văn phong của “nhà báo”. Tuy nhiên, những
đoạn đối thoại với những câu nói rất ngắn, tƣởng chừng nhƣ cộc lốc lại phục vụ cho
những tình tiết, cho việc bộc lộ nội tâm nhân vật một cách sâu sắc. Bên cạnh đó,
Hemingway cịn vận dụng rất thành cơng nghệ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức
để phục vụ cho việc khắc họa tâm lý cũng nhƣ tính cách của nhân vật.

19


Tất cả những nét đặc trƣng về cả nội dung lẫn nghệ thuật trên đã tạo nên phong
cách riêng biệt trong văn phong của E.Hemingway, nhất là với thể loại tiểu thuyết.
1.3 Tiểu thuyết Chng nguyện hồn ai
1.3.1 Hồn cảnh sáng tác
Năm 1936, E.Hemingway trở lại Binimi khi cuộc nội chiến nổ ra ở Tây Ban
Nha – quốc gia ông yêu mến nhất sau đất nƣớc của mình – với tƣ cách là phóng
viên của Liên đồn báo chí Bắc Mĩ. Tại đây ông đã bỏ ra một số tiền riêng của mình
để mua xe cứu thƣơng cho quân đội Cộng hịa. Ơng ủng hộ phe Cộng hịa và ln
tin rằng quân dân Tây Ban Nha sẽ giành đƣợc thắng lợi trƣớc phe phát xít. Vì vậy,
mùa xn năm 1939, việc phe phát xít giành đƣợc chiến thắng ở Tây Ban Nha đã
trở thành một bi kịch sâu sắc trong Hemingway.Ngay sau đó ơng đã bắt tay vào viết
cuốn tiểu thuyết Chng nguyện hồn ai. Nó đƣợc E.Hemingway sáng tác suốt mƣời
bảy tháng liên tục và hầu hết tác phẩm đƣợc viết trong căn phịng trên góc tầng năm

của khách sạn Ambos Mundos ở Havana. Tháng 7 năm 1940, tác phẩm đƣợc hoàn
thành và xuất bản tại New York vào tháng 11 năm 1940.
1.3.2 Giá trị của tác phẩm trong sáng tác của E.Hemingway
Chuông nguyện hồn ai là một trong những cuốn tiểu thuyết ƣa thích của
Hemingway. Một năm sau khi xuất bản, tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai đƣợc
trao giải Pulitzer cho tác phẩm hƣ cấu (năm 1941). Giải thƣởng là phần thƣởng
xứng đáng cho sự nỗ lực và sáng tạo không ngừng của nhà văn E.Hemingway cũng
nhƣ những giá trị to lớn đƣợc chứa đựng trong tác phẩm về cả nội dung và hình
thức.
Về mặt nội dung, Chng nguyện hồn ai là lời tố cáo đanh thép về tội ác của
bọn Franco và là lời kêu gọi đấu tranh chống phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời
là lời ca ngợi về sự dũng cảm, đoàn kết của nhân dân Tây Ban Nha trong cuộc chiến
chống phát xít Franco và tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đồn
quốc tế. Qua đó, Hemingway cũng hé lộ nguy cơ bành trƣớng của chủ nghĩa phát
xít và đồng thời, phần nào bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ của mình đã giải quyết
20


×