Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

“Đặc điểm khí hậu tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.94 KB, 27 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới quý thầy, cô trong khoa Khoa học Môi Trường và Trái đất trường Đại
Học Khoa Học. Những người đã và đang dìu dắt, dạy dỗ em trong quá suốt trình
học tập, rèn luyện tại trường đã giúp đỡ em rất nhiều trong q trình hồn thành
đề tài này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cơ giáo
hướng dẫn T.S Hồng Lưu Thu Thủy – viện địa lý Hà nội. Người đã tận tình chu
đáo hướng dẫn, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm chun mơn cho chúng em,
giúp em hồn thành đề tài nghiên cứu này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song do những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Vì vậy em rất mong nhận
được sự góp ý, bổ sung từ quý thầy cơ để đề tài được hồn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 17 tháng 11 năm 2017
Sinh viên
Ma Công Hải


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các thành phần cấu tạo nên một tổng thể tự nhiên, khí hậu là thành
phần đặc biệt quan trọng không thể thiếu. Giữa khí hậu và các thành phần tự
nhiên khác như đất, nước, sinh vật… ln có mối quan hệ thống nhất và biện
chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Khí hậu tác động đến các thành phần
khác với vai trò như một nhân tố thành tạo, tạo nên sự đa dạng và phong phú của
tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên như bức xạ Mặt Trời, hồn lưu khí quyển và bề mặt
đệm đã tác động sâu sắc đến khí hậu, tạo nên các đặc điểm của khí hậu làm cho
khí hậu có sự phân hóa đa dạng theo thời gian và khơng gian.


Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, với nguồn
nhiệt dồi dào và lượng mưa, ẩm phong phú. Tuy nhiên, do lãnh thổ nước ta kéo
dài theo phương kinh tuyến cộng với sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nên khí
hậu nước ta có sự phân hóa phức tạp theo hướng Bắc – Nam, Đông – Tây và từ
thấp lên cao. Khí hậu Việt Nam chia thành hai miền với bảy vùng khí hậu với các
đặc điểm khí hậu đặc trưng khác nhau. Lào Cai là một tỉnh có đặc điểm khí hậu
đặc biệt nhất cả nước, mang cả những nét riêng của khí hậu vùng Đơng Bắc, vừa
có những nét riêng của khí hậu Tây Bắc. Đây là địa phương duy nhất trên cả nước
mà sự phân hóa đai cao đầy đủ nhất, rõ rệt nhất.
Lào Cai nổi tiếng với khu vực chuyên canh cây ăn quả, cây dược liệu, các
lồi rau, hoa có nguồn gốc cận nhiệt và ơn đới. Hơn nữa, Lào Cai cịn được biết
đến với các điểm du lịch nổi tiếng như Sa Pa, Bắc Hà, Mường Khương, Si Ma Cai
nhờ có đặc điểm khí hậu mát mẻ mà hiếm có địa phương nào có được điều kiện
đó để phát triển. Tuy nhiên, hiện nay Lào Cai chưa khai thác tốt các ưu đãi của
khí hậu để phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu khí hậu tỉnh Lào Cai
có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc đánh giá đúng tiềm năng và khai thác có
hiệu quả hơn nữa tài nguyên khí hậu của tỉnh, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, vùng và cả nước nói chung.
Với lí do trên, em đã lựa chọn đề tài “Đặc điểm khí hậu tỉnh Lào Cai”. Đề
tài nghiên nghiên cứu đặc điểm khí hậu lào cai, các yếu tố và điều kiện hình thành
khí hậu tỉnh Lào Cai nhằm phục tốt hơn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng
như phát huy tiềm năng vốn có cùa Lào Cai.


2. Mục đích, giới hạn, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu các nhân tố hình thành khí hậu và các đặc điểm chính
của khí hậu tỉnh Lào Cai, bước đầu tiến hành phân vùng khí hậu tỉnh Lào Cai.
2.2. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Nội dung: Tập trung nghiên cứu các nhân tố hình thành khí hậu, đặc điểm

của khí hậu tỉnh Lào Cai thông qua các yếu tố của thời tiết và khí hậu, trên cơ sở
đó bước đầu tiến hành phân vùng khí hậu tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu của đề tài là phạm vi
tỉnh Lào Cai, gồm lãnh thổ tự nhiên của 9 đơn vị hành chính cấp huyện (thành
phố) là thành phố Lào Cai (Tp. Lào Cai) và các huyện Bát Xát, Bắc Hà, Bảo
Thắng, Bảo Yên, Mường Khương, Sa Pa, Si Ma Cai, Văn Bàn.
2.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích và làm rõ các nhân tố hình thành khí hậu tỉnh Lào Cai.
- Nghiên cứu các đặc điểm khí hậu tỉnh Lào Cai thơng qua các yếu tố khí
hậu và các đặc trưng riêng biệt của khí hậu.
- Bước đầu tiến hành phân vùng khí hậu tỉnh Lào Cai.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập những tài liệu liên quan từ các cơ quan, trung tâm nghiên cứu
trong tỉnh, quốc gia, viện địa lý Hà Nội. Trong đó các số liệu khí hậu chủ yếu
được lựa chọn từ kết quả đo đạc và lưu trữ tại các trạm khí tượng trên địa bàn tỉnh
Lào Cai, số liệu khí tượng thủy văn chương trình tiến bộ khoa học kĩ thuật cấp
nhà nước 42A của Tổng cục khí tượng thủy văn, số liệu khí hậu của tỉnh Hoàng
Liên Sơn (cũ) và số liệu quan trắc trong thời gian 20 năm gần đây của Lào Cai
(1994 – 2013).
3.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp tư liệu
Phương pháp phân tích – tổng hợp dùng để phân tích mối quan hệ giữa các
yếu tố hình thành khí hậu, đặc điểm khí hậu tỉnh Lào Cai, so sánh sự khác biệt và
các đặc điểm khí hậu giữa các địa phương trong tỉnh, cũng như giữa Lào Cai với
các tỉnh, vùng khác và trong cả nước.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CÁC NHÂN TỐ HÌNH THÀNH KHÍ HẬU TỈNH LÀO CAI


1.1. Bức xạ Mặt Trời
Vị trí địa lí Lào Cai nằm trong khoảng từ 21051’B đến 22051’B nên Lào
Cai mang nét đặc trưng của chế độ nhiệt vùng nhiệt đới thiên về chí tuyến. Trong
năm vẫn có hiện tượng hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh nhưng khoảng cách rất gần
nhau, lần thứ nhất vào khoảng trung tuần tháng 6 (từ 16- 20/6), lần thứ hai vào hạ
tuần tháng 6 (24-28/6) (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh tại một số địa điểm ở Lào Cai
Ngày Mặt Trời

Ngày Mặt Trời

Vĩ độ

qua thiên đỉnh
lần thứ nhất

qua thiên đỉnh
lần thứ hai

Cực Bắc

22051’B

20/6

24/6

04 ngày

Mường Khương


22046’B

19/6

25/6

06 ngày

Bắc Hà

22032’B

18/6

26/6

08 ngày

Tp.Lào Cai

22030’B

18/6

26/6

08 ngày

Hoàng Liên Sơn


22021’B

18/6

26/6

08 ngày

Sa Pa

22020’B

18/6

26/6

08 ngày

Cực Nam

21051’B

16/6

28/6

12 ngày

Địa điểm


Khoảng
cách

(Nguồn: Khí hậu Hồng Liên Sơn, 1983)
Do vị trí nằm gần chí tuyến Bắc nên mặc dù có hai lần Mặt Trời lên thiên
đỉnh trong năm nhưng khoảng cách giữa hai lần là rất ngắn. Ở phía Nam của Lào
Cai, khoảng cách giữa hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh trong nằm dài nhất là 12
ngày, càng lên phía Bắc, khoảng cách đó càng bị rút ngắn (tại Cực Bắc của Lào
Cai khoảng cách giữa hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh là 04 ngày). Do đó, khác với
các tỉnh khác ở khu vực phía Nam vĩ tuyến 160B, trong chế độ nhiệt của Lào Cai
khơng có hiện tượng xuất hiện hai cực đại và hai cực tiểu trong năm, mà chế độ
nhiệt của Lào Cai chỉ có một cực đại và một cực tiểu. Cực đại trong chế độ nhiệt


xảy ra vào khoảng cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 (ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh
lần thứ hai), cực tiểu rơi vào khoảng thời gian có độ cao Mặt Trời nhỏ nhất
(khoảng tháng 1). Như thế, chế độ nhiệt của Lào Cai có tính chất nhiệt đới cận chí
tuyến.
Bên cạnh thời gian Mặt Trời lên thiên đỉnh, một khía cạnh cũng rất tiêu biểu
của chế độ bức xạ là độ cao Mặt Trời lúc giữa trưa của ngày 15 hàng tháng (bảng 1.2).
Bảng 1.2: Độ cao Mặt Trời giữa trưa trung bình tháng tại một số địa điểm ở
Lào Cai (độ)
Địa
điểm

Tháng
1

2


3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Mường
46,0 53,4 65,0 76,9 86,0 89,5 88,8 81,4 70,3 58,8 48,8 43,9
Khương
Tp. Lào
46,3 54,7 65,3 77,2 86,3 89,2 89,1 81,7 70,6 59,1 49,1 44,2
Cai
Sa Pa

46,5 54,9 65,5 77,4 86,5 89,0 89,3 81,9 70,8 59,3 49,3 44,4


Bảo Hà

46,6 55,0 65,5 77,4 86,5 89,9 89,4 82,0 71,0 59,4 49,4 44,6

(Nguồn: Khí hậu Hoàng Liên Sơn, 1983)
Từ bảng 1.2 cho thấy Lào Cai có độ cao Mặt Trời lúc giữa trưa thấp
nhất là tháng 11, tháng 12 và tháng 1 với trị số góc nhập xạ nhỏ hơn 500. Đến
tháng 2, tháng 3 độ cao Mặt Trời có sự tăng dần lên nhưng vẫn còn thấp, chỉ đạt
trên dưới 600, riêng Mường Khương độ cao Mặt Trời tháng 2 vẫn còn thấp (đạt
53,40). Đây là trị số khá thấp so với các địa phương khác trong cả nước, nhất là so
với các địa phương ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hay các địa phương ở Trung và
Nam Bộ. Từ tháng 4 đến tháng 9, độ cao Mặt Trời tăng dần, hầu hết các trạm
quan sát đều có góc nhập xạ lớn hơn 700, đặc biệt là tháng 6 và tháng 7 có góc
nhập xạ cao nhất, phù hợp với thời gian Mặt Trời lên thiên đỉnh tại các địa điểm.
Về số giờ nắng, Lào Cai là tỉnh có số giờ nắng thuộc loại trung bình so với
các địa phương khác trong cả nước. Số giờ nắng trung bình năm dao động khoảng
1400 – 1600 giờ (so với trung bình cả nước là từ 1400 – 3000 giờ/năm, so với các
tỉnh Nam Bộ dao động từ 2200 – 2800 giờ/năm…). Trong các địa phương trong


tỉnh thì Tp. Lào Cai có số giờ nắng cao nhất, đạt 1588,4 giờ/năm. Một số huyện trị
số giờ nắng thấp như Sa Pa 1445,3 giờ/năm, Bắc Hà 1474,3 giờ/năm…
Theo qui luật chung, số giờ nắng ở Lào Cai cũng phân hóa tn theo chu kì
ngày và năm, tùy thuộc vào từng khu vực địa hình. Theo chu kì ngày thì ban đêm
bằng 0, từ sáng sớm tăng dần và cực đại lúc giữa trưa, sau đó lại giảm dần đến tối.
Theo chu kì năm thì có sự khác biệt giữa các tháng và các khu vực địa hình. Các
vùng thấp hơn thì có số giờ nắng cao nhất vào khoảng tháng 5 (như Tp. Lào Cai,
Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn, hay cao hơn là huyện Bắc Hà… số giờ nắng có
thể đạt trên 170 giờ). Ở những nơi có độ cao lớn như Sa Pa thì tháng có số giờ

nắng cao là tháng 3, tháng 4 với trị số trên dưới 170 giờ nắng/tháng (bảng 1.3).
Bảng 1.3: Số giờ nắng trung bình tháng và năm tại một số trạm ở Lào Cai
(giờ)
Tháng

Năm

Trạm
1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11


12

Bắc


75,8

88,1

122,7

150,1

176,4

140,9

146,1

132,8

116,2

114,5

98,2

112,5

1474,3


Tp.
Lào
Cai

80,4

76,9

105,0

144,9

189,2

148,9

166,6

168,1

162,5

129,9

105,4

110,6

1588,4


147,9

151,1

185,8

176,6

127,1

75,2

76,7

103,9

102,4

123,3

110,3

151,1

1531,4

116,4

112,2


156,4

168,9

150,5

91,8

110,0

114,3

97,8

95,9

104,6

126,5

1445,3

Hồng
Liên
Sơn
SaPa

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)
Ở Lào Cai, số giờ nắng ít liên quan đến vị trí gần chí tuyến Bắc, thêm vào

đó lại có một mùa đơng lạnh do ảnh hưởng của gió mùa Đơng Bắc, có mưa phùn
vào mùa đơng nên trời nhiều mây, u ám, ảnh hưởng đến số giờ nắng. Mùa hạ, số
giờ nắng nhiều địa phương thấp liên quan đến mùa mưa, lượng mây và mưa lớn
làm cho số giờ nắng không cao. Đặc biệt tại Sa Pa và trạm Hoàng Liên Sơn các
tháng mùa hạ số giờ nắng ít, do chịu ảnh hưởng của độ cao và nằm ở sườn đón gió
Đơng Nam của dãy Hồng Liên Sơn, nên lượng mưa lớn, mây mù bao phủ nhiều
nên số giờ nắng ít, vào tháng 7 và tháng 8 số giờ nắng ở Hoàng Liên Sơn chỉ đạt
75-76 giờ/tháng.


Nhìn chung, độ cao Mặt Trời, thời gian chiếu sáng và số giờ nắng là những
chỉ số thể hiện rõ nét nhất chế độ bức xạ của Lào Cai. Và tất yếu theo qui luật
chung, độ cao Mặt Trời càng lớn, thời gian chiếu sáng càng dài, số giờ nắng trong
năm càng lớn thì lượng bức xạ tổng cộng nhận được trong năm càng lớn. Lượng
bức xạ tổng cộng không chỉ dùng để tính tốn sự thu – chi năng lượng, để từ đó
làm cơ sở đánh giá cán cân bức xạ mà đó cịn là một trong những cơ sở để xác
định thời gian mùa mưa, mùa khô ở mỗi khu vực khác nhau.
1.1.1. Bức xạ tổng cộng
Là một tỉnh nằm gần chí tuyến Bắc, lại khơng có mùa khô sâu sắc kéo dài
như các địa phương khác trên cả nước, lượng mây lớn trong năm nên Lào Cai có
lượng bức xạ ở mức trung bình. Tổng lượng bức xạ thu được trong điều kiện
quang mây ở các địa điểm có thể đạt từ 150 – 200 kcal/cm2/năm. Tuy nhiên trong
thực tế không phải lúc nào trời cũng quang mây mà có những tháng lượng mây
chiếm quá 2/3 bầu trời (75 – 80%), điều đó làm cho lượng bức xạ tổng cộng đo
được tại mặt đất (lượng bức xạ thực tế) ở mức tương đối thấp (bảng 1.6).
Bảng 1.4: Lượng bức xạ tổng cộng trung bình tháng và năm tại một số trạm ở
Lào Cai (kcal/cm2)
Trạm

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

5,4

8,1

9

10

11

12

Năm


Sa Pa

5,0 5,6 8,5 11,7 10,4 11,6

5,4 4,9 3,4 6.0

86,0

Bảo


4,8 5,7 7,8 10,0 12,4 11,1 11,6 10,2 9,8 7,9 6,2 5,0

102,5

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A và Khí hậu Hồng Liên Sơn, 1983)

Lượng bức xạ tổng cộng có sự thay đổi theo khu vực và theo mùa. Các khu
vực thấp, lượng mưa và độ mây che phủ thấp nên có lượng bức xạ cao hơn (Bảo
Hà bức xạ tổng cộng 102,5 kcal/cm2/năm), ngược lại, nơi có địa hình cao, mây mù
bao phủ nhiều tháng trong năm, nhất là mùa đông nên lượng bức xạ nhận được
thấp hơn nhiều (Sa Pa chỉ đạt 86,0 kcal/cm2/năm).
Theo mùa, lượng bức xạ tổng cộng tại Lào Cai cao hơn vào các tháng mùa
hạ, nhất là các tháng từ tháng 4 đến tháng 8 (tháng 4 tại Sa Pa là 11,7
kcal/cm2/năm, tháng 5 tại Bảo Hà là 12,4 kcal/cm2/năm). Riêng tháng 7 là tháng


có nhiệt độ cao nhất ở Lào Cai nhưng lượng bức xạ tổng cộng lại khơng phải cao
nhất, điều đó liên quan đến lượng mây và mưa trong tháng này. Tháng 7 cũng là
tháng có lượng mưa lớn, phần nào ảnh hưởng đến sự bao phủ của mây trên bầu

trời, do đó lượng bức xạ của tháng 7 tương đối thấp. Các tháng có bức xạ tổng
cộng thấp là các tháng đầu và giữa mùa đông (từ tháng 11 – tháng 2), lượng bức
xạ tổng cộng chỉ đạt từ 3,0 – 6,0 kcal/cm2/tháng).
1.1.2. Cán cân bức xạ
Cán cân bức xạ là đại lượng đặc trưng cho khả năng thu và chi năng lượng
của mặt đất. Nó phản ánh các đặc điểm vĩ độ và chế độ Mặt Trời nhưng lại phụ
thuộc vào tính chất của bề mặt đệm. Do đó, trị số của cán cân bức xạ không đồng
nhất mà có sự thay đổi tùy từng khu vực, tùy thời điểm khác nhau.
Tại Lào Cai, cán cân bức xạ luôn dương, nhưng trị số không cao, dao động
từ 40 – 65 kcal/cm2/năm. Đó là do nằm ở vĩ độ cận chí tuyến, góc chiếu sáng của
Mặt Trời khơng lớn, lại chịu tác động của gió mùa cực đới, mùa khơ không rõ
rệt…Cán cân bức xạ này thấp hơn cán cân bức xạ của vùng nhiệt đới điển hình
(75 kcal/cm2/năm) (bảng 1.5).
Bảng 1.5: Cán cân bức xạ trung bình tháng và năm tại một số trạm ở Lào
Cai (kcal/cm2)
Trạm

Tháng

Năm

1

2

3

4

5


6

7

8

9

10

11

12

Sa Pa

2,9

3,0

4,7

5,3

3,8

4,6

3,1


7,3

3,8

2,2

1,2

2,8

44,7

Bảo


2,1

2,8

4,4

7,5

8,7

7,5

8,0


7,4

6,5

4,6

3,0

2,0

64,5

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A và Khí hậu Hồng Liên

Sơn, 1983)

Tương tự như lượng bức xạ tổng cộng, cán cân bức xạ tại Lào Cai có sự
khác biệt giữa các khu vực, tại vùng núi cao, cán cân bức xạ đạt giá trị rất thấp (Sa
Pa đạt 44,7 kcal/cm2/năm), vùng địa hình thấp, bức xạ Mặt Trời lớn hơn nên cán
cân bức xạ cao hơn (Bảo Hà 64,5 kcal/cm2/năm). Nếu xem xét về biến trình cán cân
bức xạ trong năm, dễ dàng nhận thấy giá trị cán cân bức xạ cao vào các tháng mùa
hạ (tháng 4 đến tháng 8) với trị số dao động khoảng từ 3,0 – 9,0 kcal/cm2/tháng.
Các tháng mùa đơng có cán cân bức xạ thấp hơn, một phần do lượng bức xạ thu


được trong mùa đơng ít (do độ cao Mặt Trời nhỏ, trời nhiều mây lại có mưa phùn),
năng lượng mặt đất tỏa ra khá lớn nên cán cân bức xạ nhỏ. Vào các tháng trong
mùa đông, cán cân bức xạ chỉ dao động từ 1,0 – 3,0 kcal/cm2/năm, thấp hơn rất
nhiều so với các tỉnh (thành phố) khác, đặc biệt là các tỉnh (thành phố) ở phía nam
dãy Bạch Mã.

Biên độ trung bình của cán cân bức xạ tại Lào Cai dao động từ 6,0 – 7,0
kcal/cm2/năm. Trị số này tương đương với trị số biên độ cán cân bức xạ của các
tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Tây
Nguyên; nhưng so với các tỉnh Nam Bộ thì trị số này cao hơn khá nhiều (Nam Bộ
có biên độ cán cân bức xạ từ 3,0 – 6,0 kcal/cm2/năm).
Tóm lại, cán cân bức xạ tại Lào Cai ở mức trung bình và có sự phân hóa
khá lớn giữa các tháng trong năm. Thời gian có góc nhập xạ lớn và lượng bức xạ
lớn thường rơi vào các tháng trước và sau ngày hạ chí. Lãnh thổ Lào Cai khơng
lớn, nằm trọn trong 10 vĩ tuyến nên sự phân hóa về bức xạ và cán cân bức xạ theo
khu vực là không nhiều. Trị số bức xạ tổng cộng và cán cân bức xạ của Lào Cai
tương đương với các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ nhưng thấp hơn so với các
tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Chính điều kiện địa lí là nguyên nhân sâu sắc dẫn
đến phân hóa các yếu tố bức xạ, đặc biệt là phân hóa theo đai cao và kinh độ.
1.2. Hồn lưu khí quyển
Nằm trong vùng nội chí tuyến bán cầu Bắc nên khí hậu Lào Cai chịu tác
động sâu sắc của hồn lưu khí quyển của đới và của vùng. Đó là sự tác động
thường xuyên của các trung tâm khí áp ở vùng cận nhiệt đới (cao áp cận nhiệt
Thái Bình Dương), vùng xích đạo (dải áp thấp xích đạo)… đồng thời chịu tác
động theo mùa của các trung tâm khí áp hình thành và hoạt động theo mùa như áp
cao lục địa châu Á, áp thấp lục địa châu Úc trong mùa đông, áp thấp lục địa châu
Á, áp cao lục địa châu Úc, áp cao Bắc Ấn Độ Dương trong mùa hạ.
Nét đặc trưng cơ bản của vùng nội chí tuyến là sự hoạt động của gió mậu
dịch (gió tín phong). Dưới tác động của cao áp cận nhiệt đới Thái Bình Dương,
một luồng khơng khí hoạt động ở tầng thấp của khí quyển xuất phát từ rìa Tây
Nam của cao áp này đến Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung theo hướng
Đông Bắc. Ngược lại trên tầng cao, luồng khơng khí di chuyển theo hướng Tây


Nam từ vùng xích đạo về chí tuyến Bắc, trong đó có Lào Cai, tạo thành vịng
hồn lưu mậu dịch.

Gió mậu dịch hoạt động quanh năm nhưng mức độ mạnh yếu tùy từng thời
kì, khi mà gió mùa cực đới hoạt động mạnh ở tầm thấp, thì gió mậu dịch hoạt
động ở tầng cao hoặc xen kẽ giữa các đợt gió mùa cực đới. Trong các tháng giữa
mùa hạ, cao áp cận nhiệt Thái Bình Dương phát triển mạnh mẽ nhất, phạm vi hoạt
động cũng mở rộng về lục địa châu Á, do đó gió mậu dịch được tăng cường hơn.
Tuy nhiên, khi đó áp thấp châu Á và áp cao châu Úc đang trong giai đoạn phát
triển mạnh nhất, nên gió mùa mùa hạ hoạt động thịnh hành ở Việt Nam trong đó
có Lào Cai. Biểu hiện của sự thiết lập gió mùa mùa hạ là vị trí trung bình của dải
hội tụ nhiệt đới, vị trí vùng hội tụ giữa hai luồng mậu dịch Nam – Bắc bán cầu
trong tháng 7 ở khoảng 200B nước ta. Sau đó, sự suy yếu của gió mùa mùa hạ vào
cuối mùa đã làm cho dải hội tụ nhiệt đới bị đẩy lùi vào phía Nam.
Trong mùa đơng hoạt động mạnh mẽ của gió mùa Đơng Bắc thì hoạt động
của gió mậu dịch giảm bớt. Vào tháng 1, vị trí front cực (mặt tiếp xúc giữa khơng
khí cực đới và khơng khí cận nhiệt Thái Bình Dương) ở vĩ độ 17 – 180B. Như thế
hoạt động của gió mậu dịch có sự thay đổi trong năm, khơng thường xun chi
phối khí hậu miền Bắc nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng.
Tóm lại do tác động của hồn cảnh địa lí, gió mùa hoạt động tại Lào Cai
không thuộc một cơ chế thuần nhất. Nó được tạo thành từ nhiều khối khơng khí
của các trung tâm tác động khác nhau, thường xuyên tranh chấp, lấn át nhau. Sự
tác động của hoàn lưu gió mùa đã tạo ra nét đặc sắc của khí hậu Lào Cai là phân
thành hai mùa: Mùa đông lạnh, ít mưa và một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều, đôi
khi chịu tác động của hiệu ứng phơn.
1.3. Đặc điểm của bề mặt đệm
1.3.1. Địa hình
Lào Cai là một tỉnh vùng núi cao với địa hình rất phức tạp và độ chia cắt
lớn. Độ cao trung bình của tồn tỉnh khoảng 1000m so với mực nước biển. Địa
hình bị chia cắt mạnh mẽ và có tính phân bậc rõ nét: Bậc độ cao từ 200m đến
500m chiếm khoảng 28,1%, bậc độ cao từ 500m đến 1000m chiếm 26,7% diện
tích, phần còn lại là bậc độ cao từ 1000m – 2000m và bậc độ cao trên 2000m. Đặc
biệt mức chênh lệch độ cao tuyệt đối ở Lào Cai là rất lớn. Nơi có độ cao thấp nhất



là 80m so với mực nước biển (thuộc huyện Bảo Thắng), ngay cả Tp. Lào Cai
cũng chỉ cao khoảng 100m so với mực nước biển. Các cao nguyên Mường
Khương (772m), Bắc Hà (974m) hay thị trấn Sa Pa nằm ở độ cao 1570m so với
mực nước biển có khí hậu mát mẻ. Đỉnh cao nhất là Phanxipan cao 3143m.
Nhìn tổng quan, địa hình Lào Cai có thể chia thành hai dải với các đặc
điểm khác nhau, mà ranh giới của hai dải địa hình đó là thung lũng sơng Hồng.
1.3.2 Thủy văn
Thủy văn là một yếu tố có tác động rất lớn đến các đặc điểm khí hậu nói
chung và của khí hậu Lào Cai nói riêng. Thủy văn vừa là một trong những yếu tố
góp phần tạo nên cảnh quan chung, lại vừa là nhân tố thể hiện rõ các đặc trưng khí
hậu của tỉnh Lào Cai. Thủy văn tham gia trực tiếp vào vịng tuần hồn vật chất và
năng lượng trong lớp vỏ cảnh quan. Tại Lào Cai, với tính chất khí hậu nhiệt đới
gió mùa cận chí tuyến, có sự phân hóa chế độ mưa thành một mùa hạ mưa nhiều
và một mùa đơng mưa ít, có 3-4 tháng khơ nhưng khơng có tháng hạn, nên đặc
điểm thủy văn của Lào Cai cũng phản ánh rất rõ nét các đặc trưng của khí hậu.
CHƯƠNG 2. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA KHÍ HẬU TỈNH LÀO CAI
2.1 Chế độ nhiệt
Chế độ Mặt Trời với nguồn bức xạ ở mức trung bình, số giờ nắng trong
năm phân bố khơng đều giữa các tháng đã ảnh hưởng lớn đến chế độ nhiệt của
tỉnh. Bên cạnh đó, vị trí địa lí, sự tác động của gió mùa mùa đơng cùng với độ cao
địa hình làm cho chế độ nhiệt của Lào Cai, mặc dù vẫn đạt tiêu chí của vùng nhiệt
đới nội chí tuyến nhưng thiên về chí tuyến hơn là về xích đạo.
2.1.1 Chế độ nhiệt trung bình
Với vị trí gần sát với đường chí tuyến Bắc, lại chịu tác động của qui luật phi
địa đới do đặc thù của tỉnh miền núi với nhiều khu vực có độ cao lớn, thêm vào đó,
tác động của gió mùa mùa đơng với tần suất khá lớn đã làm cho nhiệt độ khơng khí
của Lào Cai không cao và không đều theo các tháng trong năm. Nhiệt độ trung bình
chung tồn tỉnh đạt trên 200C, đảm bảo cho tổng nhiệt hoạt động đạt từ 7000 –

80000C.


Tuy nhiên nhiệt độ trung bình và tổng nhiệt độ hoạt động có sự phân hóa
khơng đều theo từng khu vực, những khu vực có nền địa hình thấp dưới 700m
mới có tổng nhiệt độ hoạt động cao đạt 7500 – 80000C và nhiệt độ trung bình đạt
trên 210C, đạt tiêu chuẩn của vùng nhiệt đới. Những khu vực đạt nhiệt độ trung
bình năm trên 220C với tổng nhiệt hoạt động trên 80000C chiếm tỉ lệ nhỏ. Đó là
khu vực dọc thung lũng sông Hồng thuộc vùng thấp Tp. Lào Cai và các huyện Bát
Xát, Văn Bàn, Bảo Thắng, Bảo Yên. Những vùng cao trên 1000m đều có tổng
nhiệt độ trên dưới 65000C và nhiệt độ trung bình năm trên 180C (bảng 2.1)
Bảng 2.1: Nhiệt độ khơng khí trung bình tháng và năm tại Lào Cai (0C)
Trạm

Tháng
1

2

3

4

5

6

7

8


9

10

11

12

Năm

Mường
11,6 13,0 16,7 21,0 23,4 24,1 24,5 23,9 22,8 20,3 16,5 13,5
Khương

19,3

Bắc Hà

10,8 12,2 16,0 19,7 22,5 23,5 23,7 23,1 21,8 19,2 15,6 12,1

18,4

16,0 16,8 20,6 24,0 26,8 27,6 27,7 27,3 26,3 23,8 20,2 17,3

22,9

Hoàng
Liên
Sơn


7,1

8,9

12,4 14,4 15,7 16,4 16,4 16,4 15,3 13,1

9,7

7,5

12,8

SaPa

8,5

9,9

13,9 17,0 18,3 19,6 19,8 19,5 18,1 15,6 12,4

9,5

15,2

Bảo Hà

15,8 16,7 20,3 23,8 26,8 27,8 27,9 27,5 26,3 23,8 20,3 17,0

22,9


Tp. Lào
Cai

(Nguồn: Địa lí tự nhiên Việt Nam 2 và Khí hậu HồngLiên Sơn, 1983)
2.1.2. Nhiệt độ cực trị
Tại Lào Cai, nhiệt độ cực trị phụ thuộc chặt chẽ vào độ cao địa hình và tác
động của hồn lưu gió mùa, nhất là gió mùa mùa đơng. Ở các khu vực địa hình
thấp có khả năng xuất hiện nhiệt độ cực trị với nhiệt độ tối cao lớn hơn so với các
vùng núi cao, đồng thời nhiệt độ tối thấp ở vùng thấp lại lớn hơn so với các khu
vực địa hình cao (bảng 2.2 và bảng 2.3).
Bảng 2.2: Nhiệt độ khơng khí cao nhất trung bình tháng và năm tại một số
địa điểm ở Lào Cai (0C)
Trạm

Tháng
1

2

3

4

5

6

7


8

9

10

11

12

Năm


Mường
15,4 16,9 21,0 25,1 28,1 28,4 28,7 28,4 27,3 24,3 20,4 17,4
Khương

23,4

Bắc Hà

14,8 16,2 20,4 24,2 26,8 27,5 27,7 27,4 26,1 23,5 19,9 16,7

22,6

Tp. Lào
20,0 21,3 25,3 28,9 32,2 32,7 32,6 32,4 31,3 28,5 25,0 22,0
Cai

27,7


Hoàng
Liên

10,5 12,7 16,0 18,2 19,1 19,1 19,0 19,5 18,5 16,4 13,1 11,1

16,1

12,1 13,8 18,3 21,2 22,5 22,9 23,1 23,0 21,5 18,9 15,8 13,2

18,9

Sơn
SaPa

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)
Theo kết quả quan trắc và đo đạc được từ các trạm khí tượng trong tỉnh thì
tháng 7 là tháng có nhiệt độ cao nhất trung bình lớn nhất. Nhiệt độ cao nhất trung
bình tháng 7 dao động từ 19 – 330C, ngay cả ở trạm Hoàng Liên Sơn (cao 2170m
so với mực nước biển) thì vẫn đạt 190C. Các khu vực địa hình thấp, dao động trên
dưới 300C, cao nhất là tại Tp. Lào Cai (32,70C).
Nhiệt độ khơng khí thấp nhất trung bình năm ở Lào Cai dao động khoảng
10 – 200C, tương đối thấp ở các khu vực địa hình thấp và rất thấp ở các khu vực
núi cao. Tại Tp. Lào Cai (độ cao 100m so với mực nước biển), nhiệt độ khơng khí
thấp nhất trung bình năm mới đạt 19,80C, thấp hơn so với tiêu chuẩn của vùng
nhiệt đới. Cịn các huyện cao hơn, chỉ số đó rất thấp, thậm chí Sa Pa cịn nhỏ hơn
130C, khu vực Ơ Quý Hồ còn 10,8 0C (bảng 2.3).
Bảng 2.3: Nhiệt độ khơng khí thấp nhất trung bình tháng và năm tại một số
địa điểm ở Lào Cai (0C)
Trạm


Tháng
1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Năm

Mường
Khương


9,2

10,6 14,0 17,4 20,2 21,3 21,8 21,2 20,0 17,6 14,0 10,8

16,5

Bắc Hà

8,1

9,5

9,0

15,4

Tp. Lào
12,9 14,3 17,7 20,9 23,4 24,4 24,6 24,2 23,1 20,7 17,4 16,1
Cai

19,8

Hoàng
Liên
Sơn

5,1

6,6


13,0 16,5 19,5 20,6 21,0 20,3 18,8 16,4 12,6

9,7

11,6 13,7 14,9 14,9 14,7 13,6 11,2

7,8

5,4

10,8


SaPa

5,9

7,4

10,7 13,7 16,3 17,4 17,6 17,3 15,8 13,4

9,9

6,8

12,7

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)
Tháng 1 là tháng có nhiệt độ khơng khí thấp nhất trung bình nhỏ nhất, với

các trị số nhiệt độ dao động khoảng từ 5 – 130C. Đặc biệt các huyện vùng cao, trị
số đó rất thấp:SaPa (5,90C), vùng núi cao Hồng Liên Sơn (5,10C), Bắc Hà
(8,10C). Tại Tp. Lào Cai và các huyện vùng thấp, trị số này cao hơn (Tp. Lào Cai
12,90C).
Trong quá trình nghiên cứu về nhiệt độ cực trị, một thơng số khơng thể
khơng xét tới, đó là các chỉ số nhiệt độ tối cao tuyệt đối và nhiệt độ tối thấp tuyệt
đối đã được quan trắc tại các địa điểm trong chuỗi thời gian dài.
Nhiệt độ tối cao tuyệt đối ở các địa phương trong tỉnh không vượt quá 420C,
riêng các địa phương ở vùng thấp và khu vực địa hình lịng chảo, nhiệt độ tối cao
tuyệt đối có thể đạt 38 – 400C, riêng tại Tp. Lào Cai đã đo được tới 41,00C (đo
được ngày 22/5/1957). Đặc biệt ở các khu vực vùng núi cao, nhiệt độ tối cao tuyệt
đối quan trắc được không vượt quá 300C như Sa Pa (đạt 29,80C, quan trắc được vào
tháng 4/1930), hay Hoàng Liên Sơn (đạt 24,90C, quan trắc được ngày 22/5/1977).
Sự chênh lệch độ cao tuyệt đối giữa các địa điểm quan trắc khá lớn, tới 6,10C (cao
nhất là trạm Lào Cai 41,00C và thấp nhất là trạm Hoàng Liên Sơn 24,90C) (bảng
2.4).
Bảng 2.4: Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối tháng và năm tại một số địa điểm ở Lào
Cai (0C)
Trạm

Tháng
1

2

3

4

5


6

7

8

9

10

11

12

Năm

Mường
27,0 30,7 31,9 33,2 34,3 33,5 34,2 33,8 32,9 30,7 29,1 27,0
Khương

34,3

Bắc Hà

25,9 30,9 30,9 32,7 32,8 32,8 33,1 32,9 31,4 29,6 28,7 27,0

33,1

Tp. Lào

31,4 34,6 35,6 38,1 41,0 39,9 39,7 40,0 36,8 37,2 32,7 31,5
Cai

41,0

Hoàng
Liên
Sơn

17,3 20,3 22,3 24,1 24,9 24,8 24,8 24,7 23,6 21,8 21,0 18,0

24,9

SaPa

22,5 29,2 27,3 29,8 28,5 29,4 28,3 29,6 27,2 27,2 26,7 24,0

29,8


(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)
Xét về nhiệt độ tối cao tuyệt đối theo tháng tại Lào Cai, phần lớn các số
liệu đo đạc được tại các trạm cho thấy tháng có nhiệt độ tối cao tuyệt đối là tháng
6 tháng 7, đôi khi cả tháng 5 (như ở Tp. Lào Cai). Điều đó là do thời kì đó đúng
vào thời điểm Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Lào Cai, cộng với thời kì đầu hạ, nhiều
địa phương chịu tác động của gió Tây khơ nóng, tạo điều kiện hình thành nhiệt độ
tối cao. Mức độ chênh lệch độ cao tuyệt đối giữa các tháng trong cùng một trạm
và trong mỗi tháng ở các trạm đều lớn. Điển hình là chênh lệch từ 6-80C giữa các
tháng trong cùng một trạm (Mường Khương chênh lệch nhiệt độ khơng khí giữa
tháng có nhiệt độ tối cao tuyệt đối cao nhất và thấp nhất là 7,20C, Bắc Hà là

7,00C, Tp. Lào Cai là 6,60C, Hoàng Liên Sơn là 7,60C, Sa Pa là 7,30C). Nếu xét về
chênh lệch giữa các trạm trong cùng một tháng, mức độ chênh lệch lớn hơn, trên
dưới 100C, điều đó do tính chất phi địa đới quyết định.
Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối có thể xuống dưới 00C, đặc biệt là các khu vực
địa hình cao (Hồng Liên Sơn -5,70C quan trắc ngày 14/12/1975, Sa Pa -3,20C quan
trắc ngày 14/12/1975, Bắc Hà -3,60C quan trắc ngày 27/12/1902, Mường Khương
0,60C quan trắc ngày 31/12/1975). Ngay cả khu vực thấp như thành phố Lào Cai
nhiệt độ tối thấp tuyệt đối cũng xuống tới 1,40C (quan trắc ngày 03/01/1974) (bảng
2.5).
Bảng 2.5: Nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối tháng và năm tại một số địa điểm ở
Lào Cai (0C)
Trạm

Tháng
1

2

3

4

Mường
Khương

0,8

2,3

4,2


Bắc Hà

-2,8

-0,2

Tp. Lào
Cai

1,4

Hoàng
Liên
Sơn
SaPa

5

6

7

8

10

Năm

11


12

7,5

12,7 15,0 16,6 17,6 13,5 8,2 4,7

0,6

0,6

2,7

6,8

11,2 13,7 15,0 15,0 12,0 5,7 1,9 -3,6

-3,6

5,6

6,8

10,0 14,8 18,7 20,0 17,3 15,8 8,8 5,8

-2,8

-3,1

-1,9


1,9

5,3

8,7

10,2 12,4

-2,0

-1,3

0,0

3,0

8,2

11,0

7,0

10,4

9

2,8

1,4


6,0

3,6 0,0 -5,7

-5,7

8,8

5,6 1,0 -3,2

-3,2

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)


Điều đáng chú ý là nhiệt độ tối thấp tuyệt đối thường xảy ra vào tháng 12
hoặc tháng 1, là các tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất trong năm. Đó cũng là
tháng Lào Cai chịu tác động mạnh mẽ nhất của gió mùa Đơng Bắc, đồng thời
cũng là tháng có độ cao Mặt Trời và thời gian chiếu sáng thấp nhất trong năm.
Khi nhiệt độ xuống thấp dưới 00C là thời điểm xuất hiện loại hình thời tiết có
tuyết rơi, nhất là các vùng núi cao của SaPa, Ý Tý (Bát Xát). Điều này đã phá vỡ
tính nhiệt đới của khí hậu miền Bắc nước ta, đồng thời mở ra một dấu hiệu của
khí hậu ơn đới núi cao có ở Lào Cai.
Sự chênh lệch về nhiệt độ tối thấp tuyệt đối ở các địa điểm tại Lào Cai là
khá lớn tới 7,10C, thấp nhất là Hoàng Liên Sơn -5,70C và cao nhất là trạm Lào Cai
1,40C. Nếu xét trong từng tháng, mức độ chênh lệch nhiệt độ tối thấp tuyệt đối
còn lớn hơn rất nhiều, như tại Mường Khương chênh lệch 17,00C, Bắc Hà chênh
lệch 18,60C, Tp. Lào Cai chênh lệch 18,60C, Hoàng Liên Sơn chênh lệch 18,10C,
Sa Pa chênh lệch 14,20C…

Như vậy xét về cực trị của nhiệt độ đã phần nào thấy được tính bất ổn định
của khí hậu Lào Cai. Đó là sự xuất hiện của nhiệt độ cực trị quá cao vào mùa hạ,
quá thấp vào mùa đông. do Lào Cai chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới lạnh về
mùa đơng và gió Tây khơ nóng về mùa hạ. Mặt khác, do Lào Cai là một tỉnh miền
núi cao ở sâu trong nội địa, ít chịu tác động từ Biển Đơng nên các cực trị nhiệt độ
thể hiện rất rõ nét.
2.2. Chế độ mưa
2.2.1. Tổng lượng mưa trung bình năm
Lào Cai là tỉnh có lượng mưa trung bình năm thuộc loại lớn trong tổng số
63 tỉnh (thành phố) của cả nước. Lượng mưa trung bình của Lào Cai khoảng từ
1500 – 2500mm/năm, trị số phổ biến khoảng 1700 – 2000mm/năm. Mưa chủ yếu
vào mùa hạ, do tác động của gió mùa Đơng Nam cùng với sự tác động của các
nhiễu động thời tiết và bức chắn địa hình. Tuy nhiên lượng mưa trung bình năm
phân bố khơng đồng nhất trên tồn tỉnh, có những khu vực lượng mưa thấp dưới
1500mm/năm nhưng cũng có những khu vực là vùng núi cao đón gió lượng mưa
đạt trên 3500mm/năm (bảng 2.6).
Bảng 2.6: Lượng mưa trung bình tháng và năm tại một số địa điểm ở Lào Cai
(mm)


Địa điểm

Tháng

Năm

1

2


3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

32

44

52

103

203


283

391

369

192

131

83

32

1915

Bát Xát

15

29

43

103

142

217


287

293

180

74

48

20

1451

Bắc Hà

18

30

43

121

165

260

329


363

238

125

64

19

1775

21

36

60

120

209

236

301

331

241


131

55

25

1766

Phố Lu

25

30

47

128

188

251

241

332

219

158


47

29

1695

Văn Bàn

31

34

43

159

145

199

199

262

218

124

38


34

1486

20

19

29

126

125

292

223

232

158

92

29

17

1362


Bảo Hà

20

42

62

150

164

205

219

248

241

101

36

22

1510

Sa Pa


56

79

106

197

353

393

453

478

333

209

122

55

2834

64

72


82

220

417

565

680

632

418

236

101

66

3553

Mường
Khương

Tp.

Lào

Cai


Minh
Lương

Hoàng
Liên Sơn

(Nguồn: Số liệu khí hậu Việt Nam – Chương trình khoa học 42A và Khí hậu Hồng Liên Sơn, 1983)

Trên địa bàn tồn tỉnh đã hình thành trung tâm mưa lớn là Hoàng Liên Sơn
– Sa Pa với lượng mưa từ 2800 – 3500mm/năm, là một trong các trung tâm mưa
lớn của nước ta và là một trong bốn trung tâm mưa lớn của miền Bắc nước ta (Bắc
Quang – trung lưu sơng Lơ ở Hà Giang, Hồng Liên Sơn – Sa Pa, vùng núi Nam
Châu Lãnh – Quảng Ninh, vùng núi Pu Si Lung – trung lưu Sông Đà). Lượng mưa
lớn như vậy là do khu vực này nằm trên sườn núi cao đón gió (sườn đơng Hồng
Liên Sơn đón gió Đông Nam thổi dọc theo thung lũng sông Hồng lên, sườn Tây
Hồng Liên Sơn đón gió mùa Tây Nam). Bên cạnh đó có những khu vực nằm
trong các thung lũng khuất gió nên lượng mưa ít, thường dưới 1500mm/năm như
Minh Lương (1362mm/năm), Văn Bàn (1486mm/năm), Bát Xát (1451mm/năm),
hoặc ở mức dưới 1600mm/năm như Bảo Hà (1510mm/năm).
Bên cạnh đó,lượng mưa của Lào Cai cũng có sự chênh lệch lớn giữa lượng
mưa tháng lớn nhất và nhỏ nhất quan sát được. Ví dụ như ở Bắc Hà lượng mưa cả
năm (thấp nhất) không bằng lượng mưa một tháng cao nhất (năm 1939 lượng mưa


là 1313mm trong khi tháng 7 năm 1937 lượng mưa lên tới 1375mm). Sự chênh
lệch giữa tháng lớn nhất và nhỏ nhất, thậm chí là năm cao nhất với năm thấp nhất
lên tới hàng chục lần (bảng 2.7).
Bảng 2.7: Lượng mưa lớn nhất (Rx) và nhỏ nhất (Rm) trung bình tháng và
năm tại một số địa điểm ở Lào Cai (mm)

Địa

Lượng

điểm

mưa

Mường

Rx

Tháng
1

2

0

0

108

99

Rm

0

0


Rx

66

Rm

0

Rx

Liên

Rm

Sơn

12

Năm

39

Rm

Hoàng

11

674


62

Rm

10

113 122 332 286 521

Rx

Rx

9

186

0

Sa Pa

8

100

Rm

Bảo Hà

7


89

90

Cai

6

609 334 284 297 118 2344

Rx

Tp. Lào Rx

5

669

0

Bắc Hà

4

100 128 135 201 386 470

Khương Rm
Bát Xát


3

6

0

3

0

51

0

66

31

217

53

0

1010

548 332 240 156

88


1972

47

0

828

14

8

0

0

0

132 108 236 303 513 1375 903 502 255 188 120 3284
74

181

240 106

255 280 551 498

586

810 701 409 177 105 3456


44

68

92

100 160 305 354 411

488

47

201 232 360 362 662 636
0

0

3

0

8

14

10

8


16

41

38

7

75

42

189 153

26

5

0

1052

493 564 270 117

81

2198

74


63

0

1013

824

873 954 622 283 312 3497

202

133

46

2

23

1

1313

0

13

4


0

0

11

0

2062

155 149 197 366 633 810 1145 928 636 296 218 263 4376
14

15

38

156 285 431

507

360 309

97

42

tỉnh Lào Cai có sự phân hóa lượng mưa thành hai mùa, một mùa mưa ít và
một mùa mưa nhiều, tương ứng với sự phân hóa của nhiệt độ và hoạt động của gió
mùa. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 (một số địa điểm mùa mưa có thể đến

sớm hơn, kết thúc muộn hơn) tương ứng với hoạt động của gió mùa mùa hạ, với
nền nhiệt cao, lượng mưa chiếm 85 – 90% lượng mưa cả năm. Mùa mưa ít (mùa
khơ) thường trùng với mùa đông và khoảng thời gian chuyển giao mùa, sự tác
động mạnh của gió mùa mùa đơng gió mậu dịch, có hiện tượng mưa phùn làm
cho số ngày mưa khá cao nhưng lượng mưa không lớn, chiếm 10 – 15% lượng
mưa cả năm. Chính sự phân hóa của lượng mưa khơng thật sự rõ nét, nên khí hậu

4

3162


Lào Cai phân mùa dựa theo chế độ nhiệt là chủ yếu, kèm theo tiêu chí lượng mưa,
tức là Lào Cai có một mùa hạ nóng, mưa nhiều và một mùa đơng lạnh ít mưa (trừ
vùng núi cao quanh năm mát mẻ, mưa nhiều).
2.4. Khí áp và gió
2.4.1. Khí áp
Lào Cai có trị số khí áp trung bình thuộc loại thấp, dao động khoảng từ 800
– 1000mb, khá đồng đều giữa các tháng trong năm, tuy nhiên có sự phân hóa theo
các khu vực địa hình (bảng 2.8).
Bảng 2.8: Khí áp mực trạm trung bình tháng và năm tại trạm Sa Pa và Tp.
Lào Cai (mb)
Trạm

Tháng

Năm

1


2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

1007,2

1005,1

1001,7

998,4


994,9

991,9

990,9

992,5

997,1

1003,0

1005.7

1007,1

999,6

843,5

842,3

841,8

840,9

839,5

837,8


837,2

838,1

841,4

844,4

845,4

844,6

841,4

Tp.
Lào
Cai
Sa Pa

(Nguồn: Số liệu khí hậu – Chương trình khoa học 42A)
Xét về diễn biến khí áp theo thời gian, mặc dù trị số khí áp các tháng khá
đồng nhất, nhưng vẫn nhận thấy rõ khí áp tương đối cao vào các tháng mùa đơng
(từ tháng 11 đến tháng 3) với trị số khí áp ln cao hơn trị số khí áp trung bình năm
của các địa điểm. Tháng có trị số khí áp cao nhất có sự khác biệt tùy nơi và tùy vào
điều kiện địa hình, các khu vực địa hình thấp, tháng có trị số khí áp cao nhất thường
rơi vào tháng 1, nơi địa hình cao, tháng có trị số khí áp cao nhất thường là tháng 11
hoặc tháng 12 (Sa Pa tháng có trị số khí áp cao nhất là tháng 11 với khí áp là
845,4mb, tại Tp. Lào Cai tháng có trị số khí áp cao nhất là tháng 1 với trị số là
1007,2mb)….
Vào thời kì mùa hạ (từ tháng 4 đến tháng 10) trị số khí áp giảm đi đơi chút với

các trị số khí áp từ 800mb đến dưới 1000mb. Tháng có trị số khí áp thấp nhất là
tháng 7 với trị số đạt từ 830 – 990mb. Tháng 3 với tháng 10 là hai tháng chuyển mùa,
nên khí áp tại các địa điểm ở hai tháng này chênh nhau khơng nhiều.
Như thế, Lào Cai có khí áp trung bình năm thuộc loại thấp, khá đồng đều
trong năm nhưng có sự chênh lệch giữa các khu vực địa hình. Vùng thấp khí áp


cao hơn và ngược lại, vùng cao khí áp thấp hơn. Biên độ năm của khí áp (chênh
lệch giữa tháng lớn nhất và nhỏ nhất về khí áp trung bình) khá lớn, dao động 2 –
3mb (Tp. Lào Cai 16,3mb, Sa Pa 8,2mb).
2.4.2. Chế độ gió
Về hướng gió, do đặc điểm địa hình phức tạp, có nhiều dạng địa hình núi
cao chắn gió nên hướng gió của Lào Cai khơng phản ánh đầy đủ điều kiện hồn
lưu và mang tính chất địa phương khá sâu sắc. Hướng gió ở Lào Cai phụ thuộc
chặt chẽ vào điều kiện địa lí, mà trước hết là địa hình, địa điểm quan trắc… Trong
đó nổi bật là tình trạng hướng gió thịnh hành khơng thay đổi theo mùa. Ở các địa
phương dọc thung lũng sông Hồng và sông Chảy hay là các thung lũng sơng mở
rộng về phía Đơng Nam như vùng Bát Xát, Tp. Lào Cai, Bảo Hà, Bảo Thắng, Bắc
Hà… thì quanh năm có gió Đơng Bắc hoặc gió Đơng Nam chiếm ưu thế. Hiện
tượng này cũng lặp lại tại vùng núi cao như Sa Pa, tuy nhiên ở Sa Pa đã bắt đầu có
những biểu hiện của hồn lưu, tức là gió Đơng Bắc chiếm ưu thế trong tháng 10
đến tháng 1 và gió Tây chiếm ưu thế trong tháng 7.
Số liệu quan trắc hướng gió vào các tháng 1,4, 7, 10 cho thấy, tại các vùng
thấp dọc thung lũng sông mở rộng theo hướng Đơng Nam thì hướng gió thịnh
hành trong bốn tháng quan trắc đó là hướng Đơng Nam (tại Bắc Hà, hướng gió
Đơng Nam chiếm từ 45 – 54% tần suất hướng gió của Bắc Hà trong bốn tháng đó,
tại Tp. Lào Cai hướng gió Đơng Nam chiếm 30 – 51%, Bảo Hà là 43 – 60%).
Ngoài hướng Đơng Nam thì vào bốn tháng quan trắc đó, hướng Nam và hướng
Đơng cũng có trị số khá cao, thấp nhất là hướng gió Tây và Bắc.
Tại vùng cao, hướng gió ít chịu tác động của bức chắn địa hình hơn, nên khá

đồng nhất và thể hiện rõ hơn tính ổn định của hướng hồn lưu. Ví dụ tại Sa Pa,
tháng 1 hướng gió chiếm ưu thế là Đơng Bắc (18,8%), tháng 4 hướng gió chiếm ưu
thế là hướng Tây (17,9%), tháng 7 hướng thịnh hành là hướng Tây Bắc (31,3%),
tháng 10 hướng gió thịnh hành là hướng Đơng Bắc (26,2%). Như vậy nếu không
chịu sự cản trở của địa hình, thì hướng gió cơ bản của Lào Cai là hướng Đông hay
Đông Bắc về mùa đông và Đông Nam, Nam hoặc Tây Nam vào mùa hạ.
Tại Lào Cai độ cao địa hình khơng ảnh hưởng đáng kể đến sự phân bố
hướng gió thịnh hành mà chủ yếu là hướng địa hình. Tại các trạm khí tượng vùng
cao, hướng gió Đông Bắc không nhất thiết chiếm được ưu thế trong mùa đông và


gió Tây Nam khơng có tần suất trội lên hẳn vào mùa hạ. Trên thực tế hướng gió
khơng những phụ thuộc vào điều kiện địa lí mà cịn thay đổi theo thời gian, giữa
năm này với năm khác và có sự dao động đáng kể so với tần suất của mỗi hướng.
Tóm lại, khí áp và gió là hai trong số nhiều yếu tố khí hậu quan trọng để
tạo nên khí hậu tỉnh Lào Cai. Chính sự phân hóa khí áp và gió tại các khu vực địa
hình đã tạo ra sự phân hóa khí hậu, đồng thời là một trong những căn cứ để tạo
nên sự phân vùng khí hậu tỉnh Lào Cai.
CHƯƠNG 3. PHÂN VÙNG KHÍ HẬU TỈNH LÀO CAI

3.1. Sự phân hóa mang tính quy luật của khí hậu Lào Cai
3.1.1. Phân hóa theo địa đới
Quy luật địa đới là qui luật phổ biến trong khi nghiên cứu sự phân hóa của
các thành phần tự nhiên, trong đó có khí hậu. Qui luật đó tạo ra sự khác nhau căn
bản về chế độ nhiệt, do yếu tố vị trí địa lí tạo ra sự khác biệt cơ bản trong chế độ
bức xạ, từ đó thay đổi nhiệt độ của tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên, tại Lào Cai, do lãnh thổ nằm trong khoảng 10 vĩ tuyến nên sự
phân hóa khí hậu theo qui luật địa đới thể hiện không thực sự rõ nét. Lượng bức
xạ giữa các địa điểm không chênh nhau nhiều, giữa các địa phương cùng độ cao
nằm ở phía Bắc và phía Nam của tỉnh chênh lệch nhiệt độ trung bình năm khoảng

0,10C. Tổng nhiệt hoạt động của Mường Khương chỉ đạt 70480C trong khi Bảo
Hà đạt 83500C. Do đó khi nghiên cứu sự phân hóa khí hậu Lào Cai khơng thể
khơng đề cập đến sự phân hóa theo vĩ độ (tính địa đới).
3.1.2. Phân hóa theo phi địa đới
Lãnh thổ Việt Nam nằm trong á địa ơ gió mùa Trung - Ấn, thuộc địa ô gió
mùa châu Á – nơi có chế độ gió mùa hoạt động điển hình nhất trên Trái Đất.
Nước ta là nơi gặp gỡ và chịu ảnh hưởng của nhiều luồng gió: Gió mùa Đơng
Bắc, gió mậu dịch bán cầu Bắc, gió mùa Tây Nam từ vịnh Bengan, gió mậu dịch
bán cầu Nam vượt xích đạo đi lên. Trong các luồng gió đó thì gió mùa Đơng Bắc
và gió mùa Tây Nam từ vịnh Bengan với hướng gió chịu sự tác động của các sơn
mạch lớn hướng Tây Bắc – Đơng Nam nên đã tạo ta sự phân hóa Đơng – Tây rõ
nét cho khí hậu nước ta nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng.


Địa hình Lào Cai với các dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam, cùng với các cao nguyên, sơn nguyên đã tác động rất lớn đến các luồng gió
thổi đến, tạo ra sự khác biệt giữa các khu vực. Những khu vực phía Đơng dãy Con
Voi, sườn Đơng dãy Hồng Liên Sơn, về mùa đơng nhiệt độ hạ thấp do chịu tác
động mạnh mẽ của gió mùa Đơng Bắc. Nếu so sánh cùng độ cao địa hình, sườn
Đơng của dãy Con Voi có tần suất gió mùa Đông Bắc nhiều hơn, nhiệt độ tháng 1
thấp hơn là các khu vực phía Tây của dãy Con Voi (điều này xảy ra tương tự như
ở sườn Đông và Tây của dãy Hoàng Liên Sơn). Vào tháng 1 nhiệt độ xuống thấp,
chỉ 10 – 110C, trong khi đó sườn Tây có thể 13 – 140C. Vào cuối mùa đơng, lượng
mưa phùn ở sườn Đơng dãy Hồng Liên Sơn có thể có từ 3 – 10 ngày mưa phùn
trong một đợt gió mùa về, nhưng sườn Tây thì có ít hoặc khơng có.
Trong mùa hạ, nền nhiệt cao khắp tồn tỉnh nên sự phân hóa về nhiệt độ
khơng rõ rệt. Có chăng sự phân hóa khí hậu trong mùa hè tại Lào Cai đó là sự
phân hóa về lượng mưa giữa hai sườn Đông – Tây và sự hoạt động của gió Tây.
Sườn Tây dãy Hồng Liên Sơn vào mùa hạ có lượng mưa lớn hơn, do chắn gió
mùa Tây Nam từ vịnh Bengan mang ẩm đến, nên đã hình thành các trung tâm

mưa lớn. Trong khí đó một số khu vực bên sườn Đơng chịu ảnh hưởng của hiện
tượng gió Tây khơ nóng. Riêng các địa phương phía Đơng của tỉnh khơng chịu
hoặc rất ít chịu tác động của hiệu ứng này.
Sự phân hóa khí hậu Lào Cai theo quy luật phi địa đới trong khí hậu cịn
biểu hiện ở sự phân hóa theo đai cao. Theo qui luật chung lên cao 1000m, nhiệt
độ sẽ giảm 60C, đồng thời lượng mưa và ẩm sẽ tăng đến một giới hạn nhất định,
từ đó tạo ra sự khác biệt về khí hậu giữa các khu vực địa hình. Nếu như tại Tp.
Lào Cai nằm ở độ cao khoảng 100m có nền nhiệt cao với tổng nhiệt hàng năm
khoảng 80000C, nhiệt độ trung bình năm 22,90C, lượng mưa dao động khoảng
1700 – 1800mm/năm, trong khi Sa Pa nằm ở độ cao 1570m có nền nhiệt thấp hơn,
tổng nhiệt hoạt động dưới 60000C, nhiệt độ trung bình năm 15,20C, nhiều tháng
nhiệt độ dưới 180C, mùa đông kéo dài; lượng mưa tại Sa Pa rất cao trên
2800mm/năm. Lên cao hơn tại trạm Hoàng Liên Sơn (nằm ở độ cao 2170m),
nhiệt độ trung bình năm xuống 12,80C, ngay cả mùa hạ nhiệt độ cũng dưới 180C,
tổng nhiệt hoạt động dưới 55000C, nhưng lượng mưa và ẩm rất cao, độ ẩm luôn
đạt 95 – 100%, lượng mưa trên 3500mm/năm. Về sự phân hóa khí hậu theo độ
cao địa hình, có thể chia thành ba đai cao như sau:


Đai nhiệt đới gió mùa: Độ cao của đai này dưới 700m, nền nhiệt cao hơn
210C,tổng nhiệt hoạt động trên 80000C, lượng mưa ở mức trung bình từ 1500 –
1800mm/năm, khí hậu phân hóa thành mùa đơng lạnh mưa ít và mùa hạ nóng
mưa nhiều rất rõ nét, trong năm khơng có hiện tượng sương muối, tuyết, băng giá
nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh của gió Tây khơ nóng.
Đai á nhiệt đới gió mùa trên núi: Độ cao từ 700 – 2600m, nền nhiệt giảm
xuống, trung bình năm dưới 180C,tổng nhiệt hoạt động từ 50000C – 65000C,
lượng mưa lớn từ 1800 – 2800mm/năm, độ ẩm cao. Về mùa đông xuất hiện băng
giá và sương muối, đơi khi có tuyết. Sự phân hóa mùa có thể nhận thấy bốn mùa
trong năm (xuân, hạ, thu, đông), nhất là mùa đông nền nhiệt hạ thấp, nhiều nơi
tháng 1 dưới 100C, số ngày mưa phùn lớn.

Đai ơn đới gió mùa núi cao: Độ cao từ 2600m trở lên, chỉ có ở một số đỉnh
núi cao trên dãy Hoàng Liên Sơn. Nền nhiệt rất thấp, nhiệt độ trung bình năm dưới
100C, tổng nhiệt hoạt động dưới 50000C, quanh năm mây mù bao phủ và có gió
mạnh.
Sự phân hóa khí hậu tỉnh Lào Cai theo quy luật địa đới và phi địa đới
không phải là tách biệt, mà hai quy luật đó hoạt động song song, đồng thời và tác
động tương hỗ lẫn nhau. Tuy nhiên, lãnh thổ Lào Cai khơng lớn lắm do đó khi
nghiên cứu sự phân hóa khí hậu của tỉnh cịn chú ý vào sự thay đổi bất thường của
thời tiết như sương muối, băng giá, dơng, mưa đá, gió địa phương, gió mùa… Có
như thế mới thật sự tạo nên bức tranh hồn chỉnh về khí hậu tỉnh Lào Cai.
KẾT LUẬN

1. Khí hậu Lào Cai mang những nét đặc trưng của khí hậu miền Bắc Việt
Nam – khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, có mùa đơng lạnh, có sự biến động lớn và
sự phân hóa theo địa hình.
Ở hầu hết các địa phương trong tỉnh có số giờ nắng cao từ 1400 – 1600
giờ/năm, quanh năm có góc nhập xạ lớn, lượng bức xạ khá lớn và cán cân bức xạ
luôn dương đạt trị số 40 – 65kcal/cm2/năm. Tính chất nhiệt đới hiện rõ nét nhất ở
các khu vực thấp với độ cao địa hình dưới 600m. Những khu vực địa hình cao,
tính chất á nhiệt đới và ơn đới được biểu hiện rõ nét hơn với nền nhiệt thấp và tình


trạng lạnh bất thường ở các khu vực núi cao, nhất là các vùng núi cao trên 1000m
(nhiệt độ trung bình năm xuống dưới 180C, tổng nhiệt hoạt động dưới 65000C,
thấp hơn tiêu chuẩn của vùng nhiệt đới). Chênh lệch nhiệt độ trong năm lớn, dao
động từ 10 – 120C. Trong chế độ nhiệt tại Lào Cai thể hiện rõ nét tính chất cận chí
tuyến, trong năm có một cực đại (tháng 7) và một cực tiểu (tháng 1).
Lượng mưa của tỉnh khá cao, một số nơi lượng mưa lớn hơn 2800mm như
Sa Pa, Hồng Liên Sơn. Tuy nhiên, có một số nơi lượng mưa trung bình năm khá
thấp như Văn Bàn, Bảo Hà… lượng mưa dưới 1500mm/năm.

Độ ẩm không khí lớn, trung bình 80 – 90%, những tháng mùa mưa và vào
thời gian mưa phùn thì độ ẩm khơng khí cao, ngược lại vào thời kì chuyển từ mùa
đơng sang mùa hạ độ ẩm thấp.
2. Khí hậu Lào Cai có sự phân hóa sâu sắc, chia thành hai mùa rõ rệt trong
năm với những sự biến động thất thường của thời tiết. Đó là kết quả của sự
tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, nhất là yếu tố địa hình và hồn lưu gió
mùa Đơng Nam Á.
Mùa đơng của tỉnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với đặc trưng
cơ bản là nền nhiệt bị hạ thấp, với nhiệt độ trung bình dưới 180C, nhiều nơi dưới
160C. Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối ở vùng thấp xuống dưới 20C (Tp. Lào Cai
1,40C), ở vùng cao nhiệt độ tối thấp tuyệt đối xuống dưới 00C (SaPa -3,20C). Càng
lên khu vực địa hình cao, mùa lạnh càng kéo dài, trung bình cứ lên cao 100m,
mùa lạnh kéo dài 7 – 10 ngày. Mùa đông cũng đồng thời là mùa khơ, tùy từng địa
điểm mà mùa khơ có thể bắt đầu và kết thúc sớm hay muộn tùy từng địa phương.
Một số khu vực mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3, một số khu vực thời
gian bắt đầu mùa khô từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 năm sau, với lượng mưa
chỉ chiếm 10 – 15% lượng mưa cả năm, đặc biệt là lượng mưa thấp nhất thường
xảy ra vào tháng 12 và tháng 1. Chính thời kì này, thời tiết vừa khơ lại vừa lạnh là
điều kiện tốt cho sự hình thành sương muối và hạn.
Mùa hạ thường bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10 với nền nhiệt cao, số giờ
nắng nhiều, lượng mưa lớn. Mùa hạ đồng thời cũng là mùa mưa, chiếm khoảng 85
–90% lượng mưa cả năm, mưa nhiều nhất là tháng 7 và tháng 8. Tại Lào Cai, có
những ngày mưa với lượng mưa lớn từ 200 – 300mm, số ngày mưa có lượng mưa
trên 100mm có khoảng 1 – 2 ngày, có năm cịn nhiều hơn. Tuy có sự chênh lệch


rất lớn về lượng mưa nhưng sự chênh lệch về số ngày mưa là khơng nhiều, điều
đó liên quan đến thời kì mưa phùn ở nửa sau mùa đơng kéo dài sang đầu mùa hạ.
Do nền nhiệt không cao lắm, lượng bốc hơi không lớn lại trong điều kiện lượng
mưa lớn đã làm cho cán cân ẩm của tỉnh Lào Cai luôn dương, trị số ẩm ướt rất

cao, tạo thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng, nhất là các loại cây trồng cần
nhiều nước.
3. Khí hậu Lào Cai có nhiều loại hình thời tiết đặc biệt rất điển hình như:
Gió Tây, gió Ơ Q Hồ, sương muối, tuyết và băng giá.
Các hiện tượng này đều gây tác động xấu đến đời sống sản xuất và sinh
hoạt của người dân. Gió Tây khơ nóng chỉ hoạt động vào đầu hạ, tại các vùng
thấp của tỉnh, nhất là tại Văn Bàn, Bảo Thắng, Bảo Yên và Tp. Lào Cai; các khu
vực cao hơn ít chịu ảnh hưởng của gió Tây khơ nóng. Hiện tượng sương muối và
băng giá thường xuất hiện ở các khu vực địa hình cao trên 1000m, vào mùa đơng
đặc biệt là những ngày gió mùa Đơng Bắc tăng cường. Riêng gió Ơ Q Hồ là
một loại gió địa phương, đặc biệt nguy hiểm và chỉ tác động trong phạm vi thị
trấn SaPa và vùng lân cận. Nó có tác động xấu đến sức khỏe người dân và gây
thiệt hại nghiêm trọng trong nông – lâm nghiệp, gia tăng nguy cơ cháy rừng cao.
4. Khí hậu tỉnh Lào Cai có sự phân hóa sâu sắc theo khơng gian lãnh thổ.
Chính sự khác biệt về địa hình cộng với sự tác động của gió mùa là cơ sở
cho sự phân hóa khí hậu trong đó địa hình là nhân tố chủ đạo. Trong các yếu tố
của khí hậu thì nhiệt độ và lượng mưa là hai nhân tố phân hóa rõ nét nhất. Sự
phân hóa về nguồn nhiệt và ẩm đã tạo ra ba tiểu vùng khí hậu trong tỉnh, đó là tiểu
vùng khí hậu núi cao Hồng Liên Sơn, tiểu vùng khí hậu thung lũng sơng Hồng,
sơng Chảy và tiểu vùng khí hậu thượng sơng Chảy.
Tóm lại, Lào Cai là một tỉnh có hệ thống đai cao đầy đủ nhất trong cả
nước, khí hậu vừa mang những đặc điểm của vùng Tây Bắc, vừa có những đặc
điểm tương đồng với khí hậu Đơng Bắc, với nhiều kiểu khí hậu đặc sắc thuận lợi
cho việc đa dạng hóa cơ cấu cây trồng. Mặt khác, với điều kiện khí hậu mát mẻ là
một lợi thế để cho Lào Cai phát triển du lịch, nghỉ mát.
Tuy nhiên, Lào Cai là một tỉnh miền núi có nhiều loại hình thời tiết đặc
biệt, gây khó khăn cho đời sống và sản xuất của nhân dân. Do đó, Lào Cai cần
phải có chiến lược khai thác các lợi thế và có biện pháp hạn chế những tác động



×