Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học tại khu vực dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình (huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Mai Châu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 153 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------

Phạm Quang Tùng

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN ĐA DẠNG
SINH HỌC TẠI KHU VỰC DẢI NÚI ĐÁ VƠI PHÍA TÂY
NAM TỈNH HỊA BÌNH (TÂN LẠC, LẠC SƠN, MAI
CHÂU)
Chuyên ngành: Lâm sinh
Mã số: 62.62.02.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội – Năm 2013


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo tồn đa dạng sinh học được coi là một trong những nhiệm vụ quan
trọng và là trọng tâm đối với sự phát triển trên toàn thế giới. Với sự phát triển
nhanh chóng của kinh tế xã hội cùng với sự quản lý tài nguyên sinh học còn
yếu kém đã làm cho đa dạng sinh học (ĐDSH) bị suy thoái ngày càng nghiêm
trọng [11], [51], [59], [78]. Sự mất mát về ĐDSH hiện nay là đáng lo ngại,
nhiều loài động thực vật bị đe dọa và nguy cơ tuyệt chủng mà nguyên nhân chủ


yếu là do con người sử dụng tài nguyên khơng hợp lý. Do đó, việc quản lý tài
ngun và bảo tồn ĐDSH là thực sự cần thiết và cấp bách [48], [60].
Nhận thức được giá trị to lớn và tầm quan trọng của ĐDSH, năm 1993
Việt Nam đã phê chuẩn công ước quốc tế về bảo tồn ĐDSH. Năm 1995,
Chính phủ đã phê duyệt và ban hành “Kế hoạch hành động ĐDSH ở Việt
Nam”. Năm 2007, “Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020” được xây dựng và phê duyệt triển khai.
Dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình là một trong những hệ sinh
thái (HST) đại diện điển hình quan trọng mang tính tồn cầu về HST rừng trên
núi đá vơi có diện tích rộng lớn cịn sót lại trên vùng đất thấp Việt Nam, được
các nhà khoa học trong nước và quốc tế xác định là khu vực cần ưu tiên cho
việc bảo tồn ĐDSH đặc trưng của vùng núi đá vôi [64], [73]. Nơi đây đã được
các cấp chính quyền của tỉnh Hịa Bình, các tổ chức, cá nhân quan tâm thực
hiện nhiều nghiên cứu về ĐDSH, quản lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và
phát triển sinh kế cho cộng đồng xung quanh [38], [39], [40], [41], [72]. Tuy
nhiên, công tác bảo tồn ĐDSH ở đây vẫn đang gặp nhiều khó khăn và thách
thức, nguyên nhân là do nhu cầu sử dụng tài nguyên ĐDSH tăng cao, mặt khác
do tầm quan trọng và giá trị của ĐDSH đối với cuộc sống của con người rất


2

lớn. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân thấp và năng lực quản lý của các cơ
quan chức năng còn hạn chế, cộng với các giải pháp bảo tồn chưa cụ thể, chưa
sâu sát nên hiệu quả bảo tồn ĐDSH chưa cao làm cho tài nguyên ĐDSH tại
dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình ngày càng suy giảm thậm chí một
số lồi có nguy cơ tuyệt chủng tại khu vực.
Để đánh giá hiện trạng và đề xuất một số giải pháp bảo tồn ĐDSH tại khu
vực dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình, tôi thực hiện “Nghiên cứu một
số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học tại khu vực dải núi đá vơi phía Tây

Nam tỉnh Hịa Bình (huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Mai Châu)”.
2. Mục tiêu của nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng ĐDSH, công tác quản lý, bảo tồn làm cơ sở đề xuất
các giải pháp bảo tồn ĐDSH tại dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
 Ý nghĩa khoa học
- Cung cấp bộ số liệu đầy đủ nhất về ĐDSH của dải núi đá vơi phía Tây
Nam tỉnh Hịa Bình.
- Cung cấp số liệu hiện trạng ĐDSH, nguồn lực và nhân lực để quản lý,
bảo tồn ĐDSH tại dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình.
- Đề xuất giải pháp phù hợp phục vụ việc quản lý dải núi đá vơi phía Tây
Nam tỉnh Hịa Bình.
 Ý nghĩa thực tiễn
- Tư liệu của luận án góp phần vào cơng tác quản lý, sử dụng, phát triển
bền vững tài nguyên ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình


3

- Làm cơ sở cho việc đề xuất các chính sách bảo tồn ĐDSH tại dải núi đá
vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình
4. Những đóng góp mới của luận án
- Lập danh lục đầy đủ và hệ thống động vật và thực vật tại dải núi đá vơi
phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình; Cung cấp nhiều số liệu phân tích tình
hình quản lý tại dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa Bình.
- Đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn để tổ chức quản
lý, phát triển bền vững ĐDSH tại dải núi đá vơi phía Tây Nam tỉnh Hịa
Bình.
5. Tư liệu luận án
Tư liệu để viết luận án bao gồm:

- 354 mẫu vật, di vật đã thu thập (tiêu bản thu từ khu vực này hiện lưu trữ
ở Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn- Ngổ Lng), trong đó có 274 mẫu
thực vật và 80 mẫu động vật.
- 100 tài liệu khoa học của các tác giả khác có liên quan đến đề tài nghiên
cứu (xem phần tài liệu tham khảo)
- 210 ảnh đã chụp trong các chuyến khảo sát.
- 95 phiếu điều tra/phỏng vấn đã thu thập được và xử lý phân tích (gồm
10 lãnh đạo xã, 5 cán bộ dự án, 10 kiểm lâm và 70 hộ dân).
- Nhật ký thực địa ghi chép các chuyến khảo sát.
- Tập bản đồ số hóa về khu vực nghiên cứu.
6. Bố cục luận án
Luận án gồm 135 trang, 29 bảng, 8 hình, 36 ảnh màu, và được cấu trúc
thành 4 phần chính như sau: Đặt vấn đề (3 trang), Chương 1: Tổng quan (35


4

trang), Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu (16
trang), Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận (78 trang), kết luận - kiến
nghị (2 trang).
Danh mục các cơng trình khoa học đã cơng bố của tác giả (5 cơng
trình), tài liệu tham khảo (100 tài liệu) và phần phụ lục gồm: Các loại bản đồ,
các câu hỏi phỏng vấn, danh mục các hình ảnh, danh lục thực vật, danh lục
động vật tại khu vực nghiên cứu.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số khái niệm liên quan đến ĐDSH và bảo tồn đa dạng sinh học
1.1.1. Khái niệm về ĐDSH
Năm 1989, Quỹ Bảo vệ thiên nhiên Quốc tế (WWF) đã định nghĩa:
“ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật,
động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những HST
vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường’’. ĐDSH bao gồm 3 cấp độ: Đa
dạng nguồn gen, đa dạng lồi và đa dạng HST. Trong đó, đa dạng loài bao gồm
toàn bộ các loài sinh vật sống trên Trái đất, từ vi khuẩn đến các loài động vật,
thực vật và các lồi nấm. Ở mức độ vi mơ hơn, ĐDSH bao gồm sự khác biệt về
gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các cá thể cùng chung sống trong một
quần thể. ĐDSH còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các
loài sinh sống, và cả sự khác biệt của mối tương tác giữa chúng với nhau [37].
Theo Công ước đa dạng sinh học thì ĐDSH là sự phong phú các sinh vật
sống gồm các hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái biển, các hệ sinh thái nước ngọt,
và tập hợp các HST mà sinh vật chỉ là một bộ phận. ĐDSH bao gồm sự đa dạng
trong một loài (đa dạng gen) hay còn gọi là đa dạng di truyền, sự đa dạng giữa
các loài (đa dạng loài) và sự đa dạng hệ sinh thái (đa dạng HST). Nói cách khác
ĐDSH là sự đa dạng của sự sống ở các cấp độ và các tổ hợp [3].
Theo luật ĐDSH năm 2008, ĐDSH là sự phong phú về nguồn gen, các
loài sinh vật và HST trong tự nhiên [21].


6

ĐDSH là sự phong phú của tất cả các sinh vật sống trong tự nhiên trên trái
đất, từ các sinh vật nhỏ bé nhất đến những sinh vật lớn nhất, từ Vi sinh vật, Nấm,
Thực vật, Động vật, các HST và môi trường chúng sinh sống.
ĐDSH trực tiếp phục vụ đời sống của con người trong phát triển kinh tế,
góp phần xóa đói, giảm nghèo…. Những giá trị trực tiếp đó là giá trị sử dụng,
tiêu thụ, và sản xuất ra các mặt hàng phục vụ nhu cầu của con người. ĐDSH và

cảnh quan là nền tảng cho sự phát triển các dịch vụ hệ sinh thái, điều tiết nguồn
nước, bảo vệ môi trường đặc biệt trong giảm nhẹ các tác động bất lợi do biến đổi
khí hậu hiện nay [25], [37].
1.1.2. Bảo tồn ĐDSH
Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa con
người với các gen, các loài và các HST nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ
hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng để đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
Có nhiều phương pháp và công cụ để quản lý bảo tồn ĐDSH. Một số
phương pháp và công cụ được sử dụng để phục hồi một số lồi quan trọng, các
dịng di truyền hay các sinh cảnh. Một số khác được sử dụng để sản xuất một
cách bền vững các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ các tài nguyên sinh vật,…
[7], [8], [9], [10], [12], [84], [96]. Có thể phân chia các phương pháp và cơng cụ
thành các nhóm như sau:
- Bảo tồn tại chỗ (in-situ conservation):
Bảo tồn tại chỗ bao gồm các phương pháp và cơng cụ nhằm mục đích bảo
vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các HST trong điều kiện tự nhiên. Tùy
theo đối tượng bảo tồn mà các hành động quản lý thay đổi. Thông thường bảo


7

tồn tại chỗ được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo tồn và áp dụng các
biện pháp quản lý phù hợp [7], [8].
- Bảo tồn chuyển chỗ (ex-situ conservation):
Bảo tồn chuyển chỗ bao gồm các biện pháp di dời các loài cây, con và các
sinh vật ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng [7], [8], [60]. Mục đích của
việc di dời này là để nhân giống, lưu giữ, nhân ni vơ tính hay cứu hộ trong
trường hợp: (1) nơi sống bị suy thoái hay hủy hoại khơng thể lưu giữ lâu hơn các
lồi nói trên, (2) dùng để làm vật liệu cho nghiên cứu, thực nghiệm và phát triển
sản phẩm mới, để nâng cao kiến thức cho cộng đồng. Bảo tồn chuyển chỗ bao gồm

các vườn thực vật, vườn động vật, các bể nuôi thủy hải sản, các ngân hàng giống…
- Phục hồi (Rehabilitation):
Bao gồm các biện pháp để dẫn đến bảo tồn tại chỗ hay bảo tồn chuyển
chỗ. Các biện pháp này được sử dụng để phục hồi lại các loài, các quần xã, sinh
cảnh, các quá trình sinh thái. Việc hồi phục sinh thái bao gồm một số công việc
như phục hồi lại các HST tại những vùng đất đã bị suy thoái bằng cách ni
trồng lại các lồi bản địa chính, tạo lại các q trình sinh thái, tạo lại vịng tuần
hồn vật chất, chế độ thủy văn, tuy nhiên không phải là để sử dụng cho cơng
việc vui chơi, giải trí hay phải phục hồi đủ các thành phần động thực vật như
trước đã từng có [7], [60]. Một trong những mục tiêu quan trọng trong việc bảo
tồn sinh học là bảo vệ các đại diện của HST và các thành phần của ĐDSH.
Ngoài việc xây dựng các KBT cũng cần thiết phải giữ gìn các thành phần của
sinh cảnh hay các hành lang cịn sót lại trong khu vực mà con người đã làm
thay đổi cảnh quan thiên nhiên, và bảo vệ các khu vực được xây dựng để thực
hiện chức năng sinh thái đặc trưng quan trọng cho công tác bảo tồn ĐDSH.


8

1.1.3. Quản lý ĐDSH
a. Khái niệm về quản lý ĐDSH
Quản lý ĐDSH là sự quan tâm, chăm sóc đối với TNTN, các HST, các loài và
nguồn tài nguyên di truyền ở một địa phương, một vùng, một lưu vực, những nơi
có giá trị cao về bảo tồn [7].
Quản lý ĐDSH là cơng việc cần thiết phải có sự tham gia của nhiều ngành:
Các nhà sinh vật học, kinh tế học, nhân chủng học, lâm nghiệp, nông nghiệp, các
nhà khoa học về biển…và được nhiều tổ chức quần chúng, các cấp chính quyền
cùng tham gia thì thành cơng sẽ đạt được kết quả vững chắc.
b. Các công ước về quản lý và bảo tồn ĐDSH



Cơng ước ĐDSH: là thành quả chính của Hội nghị Thượng đỉnh về Môi

trường tại Rio de Janiero vào năm 1992. Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước
vào ngày 16/11/1994 và phê duyệt Kế hoạch Hành động ĐDSH quốc gia vào
tháng 12 năm 1995.


Công ước Ramsar về Đất ngập nước (ĐNN): ban đầu tập trung vào bảo

tồn và sử dụng khôn ngoan các khu ĐNN là sinh cảnh của các loài chim nước
quan trọng. Trọng tâm này ngày càng được mở rộng và hiện nay ĐNN được
xác định rõ ràng là HST rất quan trọng cho bảo tồn ĐDSH nói chung và cho sự
tồn tại của con người nói riêng. Cơng ước Ramsar đã bắt đầu được thực thi từ
năm 1975 và tính tới 04/04/2005, đã có 131 thành viên tham gia ký kết vào
Cơng ước và bảo vệ 1.150 khu ĐNN. Công ước này được bổ sung bằng một
Nghị định thư tại Paris năm 1982. Việt Nam đã tham gia vào Công ước này từ
20/9/1988 và đã thành lập 4 khu ĐNN, trong đó đáng chú ý là KBT Thiên


9

nhiên Xuân Thủy đã được đưa vào danh sách các Khu ĐNN có tầm quan trọng
quốc tế đối với chim di cư [7].


Công ước CITES: Công ước về Buôn bán Quốc tế các loài động, thực vật

hoang dã nguy cấp, Công ước này là một công cụ để hỗ trợ các nước ngăn chặn
buôn bán quốc tế bất hợp pháp và không bền vững động thực vật hoang dã. Công

ước CITES được hình thành vào ngày 03/03/1973 tại Washington với 13 thành viên
ban đầu và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1975. Hiện nay, có 164 quốc gia tham gia
vào Công ước CITES. Để đáp ứng yêu cầu quốc tế về tầm quan trọng của các loài
hoang dã và vai trị của Việt Nam trong hoạt động bn bán động thực vật hoang dã
tại Đông Dương, Việt Nam đã tham gia vào Công ước CITES và trở thành thành
viên chính thức (Số 121) vào ngày 20 tháng 01 năm 1994. Khi nhận thức được là
“mỗi nhà nước chính là người bảo vệ tốt nhất động thực vật hoang dã của chính
nước mình”, Cơng ước CITES sẽ giúp thúc đẩy hợp tác quốc tế trong khuôn khổ
luật pháp quốc tế. Việt Nam tham gia đầy đủ vào các Hội nghị các nước thành viên
được tổ chức hai năm một lần để quyết định những vấn đề chính về thực hiện Cơng
ước và duy trì liên lạc thường xun với Ban Thư ký Công ước CITES và với nhiều
nước thành viên khác. Năm 2004, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc
gia về tăng cường kiểm sốt, bn bán động vật, thực vật hoang dã đến năm 2010,
tiếp đó là nhiều văn bản pháp luật có liên quan [7].
c. Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên
Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên là một thỏa thuận đối tác bởi hai hay
nhiều bên, các bên tham gia có vai trị ngang nhau trong thương thảo, cam kết và
đi đến một chương trình thực thi hành động, chia sẻ quyền lực và lợi ích, đồng
thời có trách nhiệm quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Người sử dụng tài


10

nguyên và các chính quyền địa phương cùng nhau đàm phán thỏa thuận đối
tượng nào? để làm gì? ở đâu? khi nào? bằng cách nào? và mất bao nhiêu? trên
một diện tích tài nguyên cụ thể được thực hiện và giám sát bởi chính những
người sử dụng tài nguyên [7].
Đồng quản lý là một biện pháp hiệu quả để duy trì và tăng cường chức năng
của rừng và đồng thời cung cấp sinh kế cho các cộng đồng địa phương. Để đồng
quản lý TNTN hiệu quả , điều chủ yếu là có sự hỗ trợ tồn diện của chính quyền tất

cả các cấp (tỉnh, huyện, xã), có sự tuân thủ quy tắc có “sự tham gia” và sự thỏa
thuận của tất cả các bên liên quan và ban quản trị nhiều thành phần.
1.2. Nghiên cứu về bảo tồn ĐDSH
1.2.1. Nghiên cứu quản lý và đề xuất giải pháp bảo tồn ĐDSH trên thế
giới
a. Xác lập thứ bậc ưu tiên bảo tồn trên phạm vi toàn cầu
Trên thực tế, các nguồn lực giành cho cơng tác bảo tồn cịn hạn chế, vì vậy để
phân bổ các nguồn lực một cách phù hợp và thiết thực, cần phải xác định được
thứ tự ưu tiên, xây dựng chiến lược và lập kế hoạch trong bảo tồn một cách hiệu
quả. Nhiều tổ chức phi Chính phủ (NGO) đã tham gia vào q trình này nhằm
xác định được các khu vực mà họ muốn hướng các nguồn đầu tư của mình vào
đó [25], [75], [96], [97], có thể gộp thành 3 nhóm như sau:


Bảo tồn dựa trên các sinh cảnh đại diện: Hình thức này đã được một số tổ

chức bảo tồn như Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), tổ chức bảo tồn tự
nhiên (TNC),...sử dụng [25]. Trong đó, WWF đã xác định được 867 vùng sinh thái
trên toàn cầu. Khái niệm này được Tổ chức bảo tồn tự nhiên (TNC) sử dụng như
một phương pháp tiếp cận chủ đạo cho các hoạt động của mình, sau đó phát triển


11

thành “Global 200” nhằm kết hợp các kiểu sinh cảnh đặc trưng nhất trên phạm vi
toàn thế giới [88].


Bảo tồn dựa trên các tiêu chí về lồi: như mức độ phong phú của loài


(Species richness) và số lượng các loài đặc hữu (Endemic species) được Tổ chức
Bảo tồn Quốc tế (CI - Conservation International) và Tổ chức Bảo tồn Chim
Quốc tế (BirdLife International) sử dụng. Phương pháp tiếp cận về loài được tổ
chức bảo tồn quốc tế CI sử dụng nhằm tập trung các nguồn lực vào các khu vực
có tính ĐDSH cao nhất, có mối đe dọa lớn nhất, đồng thời đưa ra khái niệm các
điểm nóng về ĐDSH [79], [87], [88] và những vùng còn nguyên vẹn được xem
là vùng có giá trị ĐDSH cao [89].
BirdLife cũng đưa ra khái niệm về các vùng chim đặc hữu (EBA: Endemic
Bird Area) để áp dụng cho những nơi có ít nhất hai loài phân bố hẹp (RRS:
Ranger - restricted species), lồi phân bố hẹp là lồi có phạm vi phân bố trên
tồn cầu nhỏ hơn 50.000 km2. Bên cạnh đó BirdLife còn đưa ra khái niệm về các
vùng chim quan trọng [6], [26], đó là những vùng có tầm quan trọng quốc tế về
bảo tồn chim, được xác định dựa trên tiêu chí về lồi như: sự hiện diện của các
loài đe dọa, các loài phân bố ở một khu vực có diện tích hẹp, hoặc là nơi tụ tập
của nhiều lồi [82]. Từ đó, Tổ chức bảo tồn quốc tế (CI), BirdLife và Plant Life
đã phối hợp nghiên cứu và đưa ra khái niệm các vùng ĐDSH chính [85].


Bảo tồn dựa trên tiêu chí về các mối đe dọa: để xác định các mức đe dọa

tối thiểu hoặc các vùng biệt lập, được Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã
Quốc tế (FFI) và Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS) sử dụng [90].


12

b. Xác định các cảnh quan để bảo tồn
Thuật ngữ “cảnh quan” (landscape) mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy
theo mục đích cụ thể. Theo mục đích bảo tồn, thì cảnh quan có thể hiểu là: “Một
vùng đất rộng lớn bao gồm nhiều đặc trưng khác nhau và được xem như là kết

quả của một quá trình hình thành và biến đổi lâu dài” [100]. Đến nay vẫn chưa
có giải thích cụ thể nào về qui mơ của cảnh quan, cũng như chưa có định nghĩa
nào về việc xác định ranh giới của cảnh quan. Tuy nhiên, các nhà qui hoạch bảo
tồn đã xác định ranh giới của cảnh quan dựa trên các yếu tố tự nhiên như: lưu
vực, vùng núi, ngọn núi, phạm vi phân bố của một loài hoặc nhóm lồi [95].
Cho dù chưa có định nghĩa rõ ràng về cảnh quan, nhưng việc xác định các
cảnh quan trong ưu tiên bảo tồn đã giúp cho việc bảo vệ và duy trì các chức năng
sinh thái của nó, đồng thời giúp cho việc xác định và thực thi các chiến lược về
bảo tồn. Theo cách này, WWF (2004) đã đưa ra khái niệm về tầm nhìn ĐDSH
nhằm xác định các khu vực ưu tiên bảo tồn trong phạm vi một vùng sinh thái.
WCS (2004) cũng đưa ra khái niệm về loài đại diện cho một vùng cảnh quan
nhằm bảo vệ các giá trị ĐDSH trong từng vùng [91].
c. Xác định các khu vực để triển khai các hoạt động bảo tồn
Bảo tồn thông qua việc thiết lập hệ thống các KBT là ý tưởng đầu tiên
xuất hiện ở Hoa Kỳ từ thế kỷ XIX bằng việc thành lập VQG Yellowstone ngày
01 tháng 03 năm 1872 [89].
Bảo tồn ngày càng được chú trọng, mở đầu là việc tổ chức Hội nghị Thế
giới các VQG lần thứ nhất từ những năm 60 của thế kỷ XX; vấn đề đào tạo
chuyên sâu về quản lý động thực vật hoang dã cũng đã được quan tâm; các giải
pháp bảo tồn ĐDSH, các chương trình hỗ trợ bảo tồn bằng nhiều hình thức khác


13

nhau như hưởng lợi từ động vật hoang dã, con người và sinh quyển cũng đã được
triển khai. Điều đặc biệt quan trọng là cứ 10 năm một lần, hội nghị các VQG và
KBT được tổ chức, bắt đầu từ việc hỗ trợ các KBT đến việc chú ý nhiều đến các
KBT ở những vùng nhiệt đới, việc gặp gỡ của các tổ chức bảo tồn và các Chính
phủ tại các hội nghị đã rút ra được nhiều kinh nghiệm từ thực tế cũng như cơ hội
để các nước có tiếng nói chung về vấn đề bảo tồn. Càng về sau, hội nghị càng

chú trọng nhiều đến tình hình thực tiễn của hoạt động bảo tồn, cụ thể là tại hội
nghị lần V hiệp ước Durban về biến đổi khí hậu tồn cầu và kế hoạch hành động
được thơng qua [43].
Có thể nói rằng, đến nay trên thế giới mặc dù vẫn cịn nhiều khó khăn,
thách thức, nhưng bảo tồn ĐDSH đã được quan tâm một cách tồn diện. Cơng
tác bảo tồn ĐDSH không chỉ tập trung bảo vệ tài nguyên, xây dựng hệ thống các
khu bảo tồn mà còn chú trọng đến giáo dục về quản lý và nâng cao hiệu quả
trong điều hành cũng như nhận thức bảo tồn, chú ý đến khía cạnh xã hội nhân
văn trong bảo tồn như phối hợp bảo tồn, bảo tồn dựa vào cộng đồng, chia sẻ lợi
ích từ bảo tồn nhằm hướng đến đích cuối cùng là sử dụng bền vững các thành
phần của ĐDSH, chia sẻ các lợi ích có được từ việc sử dụng các nguồn tài
nguyên một cách bình đẳng và cơng bằng.
d. Phương thức tiếp cận được áp dụng trong quản lý bảo tồn ĐDSH
Nhằm đảm bảo phát triển bền vững (PTBV), nhiều ngành, nhiều tổ chức
liên quan đến sử dụng tài nguyên thiên nhiên đang hình thành và xây dựng
những phương thức tiếp cận mới về quản lý, đó là [93], [94]: (1) Quản lý hệ sinh
thái, (2) Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, (3) Đồng quản lý tài
nguyên thiên nhiên, (4) Bảo tồn và phát triển tổng hợp, (5) Phát triển bền vững.


14

Các phương thức tiếp cận nêu trên đều giống nhau trong việc nỗ lực tìm
kiếm một số giải pháp tối ưu để giải quyết mâu thuẫn và chia sẻ quyền lợi trong
việc sử dụng các nguồn TNTN, mà những quyền lợi này có thể là giữa bảo tồn
và phát triển, giữa cộng đồng địa phương và một quốc gia, hoặc giữa các nhóm
người có liên quan trong xã hội. Điểm nổi bật trong các phương thức tiếp cận
này là nâng cao vai trò của cộng đồng địa phương cũng như những nhóm người
trong xã hội có liên quan đến TNTN (những người hưởng lợi, những người bị tác
động). Các phương thức tiếp cận này đang được hình thành và phát triển nhằm

khắc phục những hạn chế trong cách quản lý áp đặt từ trên xuống theo cách quan
liêu bao cấp và đẩy mạnh cách thức quản lý TNTN từ dưới lên.
Những điểm khác biệt cơ bản giữa các phương thức tiếp cận là sự nhìn
nhận vấn đề, điểm trung tâm là tính ưu tiên của các phương pháp cụ thể được
ứng dụng. Ví dụ: phương pháp tiếp cận hệ sinh thái quan tâm trước tiên là tính
tồn vẹn của HST và nhìn nhận con người là một bộ phận của HST. Vì vậy
muốn đạt được mục đích cơ bản trên thì phải tuân thủ các nguyên tắc của phát
triển bền vững. Vì thế, phương pháp tiếp cận là làm sao tận dụng được mọi thế
mạnh của cộng đồng trong việc sử dụng và bảo vệ TNTN, để có thể chia sẻ lợi
ích một cách cơng bằng cho cộng đồng địa phương được quan tâm trước tiên,
nhưng tất nhiên đều phải gắn chặt với quyền lợi bảo tồn thiên nhiên để đảm bảo
sự hài hồ. Trong khi đó, phương pháp tiếp cận đồng quản lý có nhiều đặc điểm
giống với phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng, nhưng mang ý nghĩa rộng
hơn, tức là quan tâm đến mọi đối tác, mọi nhóm xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp
liên quan đến tài nguyên, để đạt được mục đích là chia sẻ quyền lợi cơng bằng
đồng thời khơng làm suy thối TNTN và bảo vệ ĐDSH.


15

Trên thế giới, phát triển bền vững, đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng
là vấn đề được chú trọng trong quản lý, sử dụng ĐDSH ở dải núi đá vơi nói
riêng. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo nên sự thay đổi cần thiết cho sự phát
triển của xã hội sinh thái học bền vững. Thực tế tại New Zealand cho thấy, vào
những năm 1980, mạng lưới các VQG ở nước này bắt đầu phát triển và liên tục,
vừa bảo vệ các vùng nhỏ, vừa tạo ra các khu giải trí cho cộng đồng.
Ngồi ra, phục hồi rừng nghèo trên núi đá vôi như: Viện khoa học Quảng
Tây và Quảng Đông - Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt là nghiên
cứu đặc điểm sinh trưởng của một số lồi cây trên núi đá vơi: Toona sinensis,
Delavaya toxocarpa, Chukrasia tabularis, Excentrodendron tonkinensis,…trong

thời kỳ 1985 -1998 [16]. Những nghiên cứu đó đã được tổng kết sơ bộ sau nhiều
hội thảo khoa học ở Học viện Lâm nghiệp Bắc Kinh với sự tham gia của nhiều
nhà khoa học lâm nghiệp đầu ngành của Trung Quốc, bên cạnh đó các hướng
dẫn về kỹ thuật phục hồi rừng trên núi đá vôi đã được xây dựng, gồm một số
nguyên lý: Là một trong những HST rất nhạy cảm, có sự cân bằng mỏng manh
và điều kiện sống rất khắc nghiệt; Tốc độ tăng trưởng của cây trên núi đá vôi rất
chậm (trữ lượng gỗ bình quân 1 ha rừng nguyên sinh trên núi đá vôi chỉ bằng 1/2
trữ lượng gỗ bình quân rừng nguyên sinh trên đất); HST núi đá vơi có tính chống
chịu cao; HST núi đá vơi có khả năng phục hồi rất khó vì thiếu các yếu tố lập địa
cần thiết [16]. Tuy nhiên, những nguyên lý phục hồi và phát triển rừng trên núi
đá vôi chưa được tổng kết một cách có hệ thống nên việc áp dụng những hướng
dẫn này cho nhiều quốc gia khác gặp rất nhiều khó khăn.


16

1.2.2. Nghiên cứu quản lý và đề xuất giải pháp bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam
Theo đánh giá của Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới (WCMC) (1992,
2003), Việt Nam được xếp thứ 16 trong số các nước có ĐDSH cao nhất thế giới
[9]. Theo báo cáo quốc gia về ĐDSH Việt Nam năm 2011 thì hệ thực vật Việt
Nam đã ghi nhận 13.766 lồi thực vật, trong đó có 11.373 lồi thực vật bậc cao
có mạch, có 2256 chi, 305 họ chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 5%
tổng số họ thực vật trên thế giới, 2.393 loài thực vật bậc thấp chưa kể các nhóm
vi tảo ở nước [9], [58].
Về hệ động vật, ngồi các lồi đặc hữu Việt Nam cịn có nhưng lồi động
vật mang tính chất hỗn hợp của hai khu hệ động vật Nam Trung Hoa và Ấn Độ,
Mã Lai [58], [60], [81]. Nhiều lồi khơng những có giá trị cao về kinh tế, mà cịn
có giá trị bảo tồn ở Việt Nam và thế giới, nhiều lồi có tên trong Sách Đỏ Việt
Nam (2007) và Danh lục đỏ IUCN (2012). Sự phong phú về thực vật và các hệ
sinh thái là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật. Việt Nam có đến 312 lồi và

phân lồi Thú, 840 lồi Chim, 317 lồi Bị sát, 167 lồi Lưỡng cư, 7700 lồi Cơn
trùng, 547 lồi Cá nước ngọt, 2038 lồi Cá biển và 9300 lồi Động vật khơng
xương sống [9], [57].
Tuy nhiên, Việt Nam cũng trong tình trạng chung của tồn cầu là ĐDSH đã
và đang bị đe dọa và có chiều hướng suy giảm mạnh. Nguyên nhân của sự mất
mát ĐDSH được xác định bao gồm hai yếu tố chính là do thiên tai và do tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp của con người [59], [80], [92]. Vì vậy, Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong cơng tác nghiên cứu và quản lý bảo tồn ĐDSH, trong đó phải
kể đến các vấn đề quan trọng sau đây:


17

a. Một vài nghiên cứu ĐDSH ở rừng đặc dụng Việt Nam
Các nghiên cứu ĐDSH thường được bắt đầu bằng những nghiên cứu cơ bản
để có tiền đề xây dựng luận chứng kinh tế- kỹ thuật (LCKT) cho các KBT. Phần
lớn LCKT được xây dựng bởi các cơ quan chuyên môn, các Viện nghiên cứu,
các trường đại học như Viện Điều tra Quy hoạch rừng, Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam, Trường đại học Lâm nghiệp…[6],[7]. Ngoài các nghiên cứu
liên quan đến LCKT còn phải kể đến các nghiên cứu chuyên sâu của các cơ quan
nghiên cứu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội,
các tổ chức trong và ngoài nước. Các số liệu trong nghiên cứu này rất quan trọng
và có giá trị, được các VQG và KBT sử dụng để biết được sự đa dạng sinh vật
mà mình đang quản lý.
Một thành tựu nổi bật về nghiên cứu ĐDSH là kết quả điều tra về tài nguyên
thực vật và động vật ở một số VQG và Khu BTTN và một số sinh cảnh khác
ngoài Khu BTTN nhờ sự phối hợp giữa các nhà khoa học của các cơ quan nghiên
cứu ở Trung ương, địa phương và ban quản lý các VQG, Khu BTTN [7], [58].
Trong những thập kỷ của những năm đầu cuối thế kỷ XX, các nghiên cứu về
ĐDSH phục vụ cho việc xây dựng các luận chứng KTKT để xây dựng hệ thống các

khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí nên số liệu chưa
được cập nhật, nhiều VQG và Khu BTTN chỉ có số liệu khi xây dựng LCKT.
Nhiều loài động vật, thực vật có trong thực tế nhưng chưa có tên trong danh lục
hoặc ngược lại có tên trong danh lục nhưng lại khơng thấy trong thiên nhiên.
b. Chiến lược, chính sách bảo tồn ĐDSH
Nhận thức được tầm quan trọng của sự suy thối tài ngun ĐDSH, Việt
Nam đã sớm có những hành động tích cực trong cơng tác bảo tồn ĐDSH. Theo


18

thống kê từ năm 1958 đến nay, có hàng trăm văn bản pháp luật do Nhà nước và
các ban ngành liên quan ban hành về vấn đề bảo tồn ĐDSH và các tài liệu hướng
dẫn thi hành lần lượt được ban hành [7],.
Năm 1962, Cục Kiểm lâm được thành lập cùng với sự ra đời rừng cấm đầu
tiên ở Việt Nam là “rừng cấm Cúc Phương” [3], [6], [17], [45]. Năm 1985,
Chiến lược Bảo tồn Quốc gia của Việt Nam (NCS) được ban hành. Đây là một
chiến lược đầu tiên được xây dựng ở một nước đang phát triển. Và từ đó, việc cải
cách thể chế và luật pháp đã phát triển nhanh chóng với sự ra đời của các văn
bản pháp luật do nhà nước ban hành liên quan đến bảo tồn và sử dụng bền vững
tài nguyên ĐDSH như: Luật bảo vệ và phát triển rừng 1991 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2004); Luật đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và
2003); Luật bảo vệ môi trường năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005);
Luật thủy sản năm 2003; và gần đây nhất, luật Đa dạng sinh học được Quốc hội
phê chuẩn tháng 11 năm 2008 [21]; Sách Đỏ Việt Nam lần đầu tiên được xuất
bản năm 1992 (tái bản có những điều chỉnh cập nhật vào năm 2000 và 2007)
[13].
Ngoài ra, trong phong trào chung và tính cấp bách của tồn cầu về bảo tồn
và phát triển bền vững, Việt Nam cũng đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc
tế về mơi trường có liên quan, đặc biệt là: Cơng ước Ramsar về đất ngập nước

(1975), công ước ĐDSH (1993) và Cơng ước CITES về bn bán quốc tế các
lồi động thực vật hoang dã nguy cấp (1994).
Trong giai đoạn 2005-2010, các quy hoạch, kế hoạch hành động Quốc gia
về bảo tồn ĐDSH đã được ban hành và tổ chức thực hiện như quy hoạch hệ thống
khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020, Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn


19

biển Việt Nam đến năm 2020 [20]. Đặc biệt là kế hoạch hành động Quốc gia về
ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2007 [13].
Bên cạnh đó, các ngành các cấp tiếp tục triển khai Chiến lược, Kế hoạch, chương
trình khác có liên quan đến bảo tồn ĐDSH được phê duyệt trước năm 2005 như
Chương trình nâng cao nhận thức bảo tồn ĐDSH đến năm 2010, Kế hoạch hành
động Quốc gia về tăng cường kiểm sốt bn bán động thực vật hoang dã đến
năm 2010, Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến
năm 2010 [10], Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 –
2020” [20], Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 – 2020” [21].
Hệ thống các văn bản quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo
vệ ĐDSH tuy đã được hình thành nhưng cịn có nhiều khiếm khuyết và bất cập.
Việt Nam là thành viên của Công ước ĐDSH nhưng cho đến nay, chưa có văn
bản quy phạm pháp luật nào hồn chỉnh để đảm bảo thực hiện Công ước này.
Các văn bản hiện hành mới chỉ tập trung vào việc bảo tồn ĐDSH, trong khi đó,
Cơng ước ĐDSH nêu ra ba mục tiêu: (1)- Bảo tồn ĐDSH; (2)- Sử dụng bền vững
tài nguyên; (3)- Chia sẻ trung thực và công bằng lợi ích có được từ việc sử dụng
tài nguyên gen [7].
c. Các biện pháp bảo tồn ĐDSH
 Thành lập hệ thống khu bảo tồn
Việc hình thành hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam là một trong những

biện pháp tích cực đã và đang góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn
ĐDSH [13]. Năm 2000, quy hoạch mới hệ thống rừng đặc dụng với nhiều thay
đổi lớn như: đề xuất phân hạng mới, loại bỏ, chuyển hạng, sát nhập, đổi tên và


20

thành lập mới cho một số khu rừng đặc dụng. Đến năm 2003, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Quyết định số 192/2003/QĐ - TTg ban hành chiến lược quản
lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam đến năm 2010 [17].

Số lượng

Năm

Hình 1.1. Quá trình phát triển hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam [7], [99]
Đến năm 2012, việc quy hoạch các khu BTTN ở Việt Nam được đẩy mạnh
(hình 1.1) đã thành lập được 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc
gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực
nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan
đặc trưng với giá trị ĐDSH tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và
trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền cả nước, các KBT
trên cạn chiếm diện tích gần 2.198.744 ha, chiếm 13,5% diện tích tự nhiên. Bên
cạnh đó, đã có một số hình thức bảo tồn khác được công nhận gồm: 4 khu đất
ngập nước Ramsar, 8 khu bảo tồn sinh quyển, 4 khu di sản thiên nhiên


21

ASEAN, 2 khu di sản thiên nhiên thế giới và đặc biệt Vịnh Hạ Long được công

nhận là 1 trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên mới của thế giới [6], [98], [99].
Có thể nhận định rằng, việc thành lập hệ thống các KBT và VQG đã làm
cho công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam phần nào đáp ứng được mục đích bảo
tồn, vấn đề cịn lại là thực hiện cho đúng tiến trình kèm theo đó là những thay
đổi, cải tiến về chính sách, thể chế trong quản lý và tất nhiên là để thực hiện tiến
trình này rất cần sự hỗ trợ và hợp tác của nhiều tổ chức, cơ quan trong và ngồi
nước có liên quan [5].
d. Xây dựng và quản lý vùng đệm
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam mỗi khi xây dựng một khu
bảo tồn, người dân sống ở quanh hoặc trong KBT buộc phải hy sinh quyền lợi
riêng của mình, họ khơng được khai thác tài ngun như trước vì lợi ích của quốc
gia và các thế hệ mai sau [24], [44], [59], [66]. Phần lớn các VQG và KBT đã và
đang được xây dựng thường nằm giữa khu vực có dân cư sinh sống nên chịu sức
ép hết sức nặng nề. Cộng đồng địa phương, những người sống trong, hay gần các
khu bảo tồn đã nhiều đời có mối liên quan trực tiếp với thiên nhiên các vùng đó,
cuộc sống của họ lệ thuộc phần lớn vào việc khai thác TNTN. Tuy nhiên, công
cuộc bảo tồn ngày nay thường bỏ qua những yêu cầu thiết yếu của họ và đồng
thời cũng ít lưu ý đến các giá trị văn hố, các phong tục tập quán, những hiểu biết
của họ về thiên nhiên, về các loài mà họ rất quen thuộc, cách thức tổ chức bảo tồn
thiên nhiên mà cộng đồng đã đúc rút từ nhiều đời nay.
Từ năm 1987, Chính phủ đã áp dụng biện pháp di chuyển một số dân ra
khỏi khu bảo tồn và đã thực hiện ở VQG Cúc Phương. Số dân chuyển ra được
định cư ngoài khu bảo tồn tạo thành vùng đệm và được cung cấp các điều kiện để


22

làm ăn ổn định. Chương trình này đã đạt được những kết quả tích cực trong việc
di chuyển dân ra ngoài, một số KBT và VQG cũng đã triển khai dự án tương tự và
đạt được những kết quả khả quan như: VQG Cát Tiên, VQG Ba Bể, VQG Bạch

Mã,… Tuy nhiên, đây là vấn đề rất phức tạp và gặp phải những khó khăn thách
thức lớn, cần phải suy nghĩ cân nhắc chu đáo để làm sao công tác bảo tồn ĐDSH
không đối lập với cộng đồng bản địa. Hiện nay, nhiều khu bảo tồn, VQG trong
luận chứng kinh tế kỹ thuật đã có đề xuất việc thành lập vùng đệm, diện tích, ranh
giới vùng đệm,… Tuy nhiên, cũng có khu vực khơng có vùng đệm trong luận
chứng kinh tế kỹ thuật như Khu BTTN Ngọc Sơn- Ngổ Luông [74].
Cùng với việc hình thành và phát triển hệ thống các khu bảo tồn tại chỗ (insitu conservation), công tác bảo tồn chuyển chỗ cũng đã được nhà nước quan tâm
trong bảo tồn ĐDSH ở nước ta. Một số loại hình bảo tồn chuyển chỗ (ex-situ
conservation) đã triển khai và đạt được những kết quả đáng kể như các vườn thực
vật, trại gây nuôi động vật, vườn thú, trạm cứu hộ động vật, ngân hàng giống. Công
tác bảo tồn nguồn gen động thực vật, bao gồm nguồn gen nông lâm nghiệp, nguồn
gen vật nuôi và động vật hoang dã cũng đã được các Viện khoa học Lâm nghiệp,
Viện khoa học Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi, các vườn thú, các tổ chức trong nước
và ngoài nước tiến hành nghiên cứu [7]. Trong các vườn thực vật phải kể đến Vườn
Bách thảo Hà Nội đã xây dựng hơn 100 năm nay, với hàng trăm loài cây, chủ yếu là
loài cây bản địa. Trung tâm cứu hộ động vật đầu tiên là Trung tâm cứu hộ linh
trưởng ở VQG Cúc Phương, hiện nay ở Cúc Phương cịn có Trung tâm cứu hộ và
nghiên cứu Rùa, Trung tâm cứu hộ Gấu tại VQG Tam Đảo, VQG Cát Tiên.... Việc
lưu giữ nguồn giống được thực hiện ở một số cơ sở như: Viện KHKT nông nghiệp
Việt Nam, Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam, trường Đại học Cần Thơ, Viện
cây Lương thực và Thực phẩm…


23

e. Vấn đề quản lý thảm thực vật trên đá vôi ở Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đã và đang cố gắng trong việc đưa ra các giải pháp bảo
tồn ĐDSH nhưng sự suy thoái ĐDSH đáng lo ngại đặc biệt ở các vùng núi đá vôi
vẫn đang diễn ra rất mạnh. Thách thức lớn nhất mà HST đá vôi phải đối mặt đó là
diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng, các lồi bị suy giảm mạnh, nhiều lồi có

nguy cơ diệt vong, diện tích rừng trên núi đá ngày càng giảm, nguồn sinh thủy bị
mất, nguồn nước bị cạn kiệt [31], [67]. Nhiều năm qua, Nhà nước đã hỗ trợ miền
núi bằng các chương trình 327, 135, chương trình nước sạch và vệ sinh mơi
trường, chương trình trồng mới 5 triệu hecta rừng. Các chương trình này đều
nhằm góp phần cải thiện, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc miền núi, qua
đó huy động được sự tham gia của cộng đồng địa phương vào công tác bảo vệ và
phát triển rừng.
Hoàng Kim Ngũ (1990-1998) [49] đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm sinh
vật học và khả năng gây trồng các loài cây như Nghiến, Mạy sao, Trai lý, Hoàng
đàn, Mắc rạc, Xoan nhừ, Mắc mật... trên núi đá vơi ở Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Cạn. Hồng Kim Ngũ đã xác định được một số đặc điểm sinh thái và đề xuất kỹ
thuật gây trồng các loài cây này ở các địa phương trên. Từ năm 1999 đã tiến hành
gây trồng thử nghiệm các loài cây này trên đất đá vôi ở một số nơi khác ở Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, do còn đang trong
thời gian thử nghiệm nên đây chỉ là những khẳng định ban đầu về khả năng thành
cơng của các mơ hình phục hồi rừng, đặc biệt là các mơ hình ở vùng Tây Bắc.
Khi nghiên cứu hệ sinh thái tại Vườn Quốc gia Pù Mát, Nguyễn Thanh
Nhàn [50] đã đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn hệ thực vật trên núi đá vôi:


24

Quản lý bảo vệ rừng, quản lý vùng đệm, nâng cao nhận thức, nâng cao hiệu lực
thi hành pháp luật.
Viện Điều tra Quy hoạch rừng (1965) cùng với Viện Sinh thái và tài
nguyên sinh vật, Viện Dược liệu [77] đã tiến hành nghiên cứu mức độ đa dạng
sinh vật, công tác quản lý bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng trên núi đá vôi ở
Cao Bằng và một số địa phương khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy HST núi đá
vơi có tính chống chịu cao, các sinh vật sống trên núi đá vơi có khả năng thích
nghi chống chịu với các điều kiện bất lợi.

Nguyễn Vạn Thường và đội Lâm học - Viện Điều tra Quy hoạch rừng (Bộ
môn Lâm nghiệp) (1967 – 1968) [68], thực hiện điều tra chuyên đề rừng núi đá
vôi tại một số khu vực thuộc tỉnh Hà Giang, Tun Quang, Hồ Bình, Cao Bằng,
Quảng Ninh. Kết quả điều tra đã đưa ra: sự biến đổi các đặc trưng lâm học của
các quần hệ rừng trên núi đá vơi miền Bắc Việt Nam có sự sai khác rõ rệt về cấu
trúc (ngay cả trong trạng thái rừng nguyên sinh) trên các dạng địa hình chủ yếu.
Hoàng Văn Thập cùng cộng sự [65] "Nghiên cứu các giải pháp phục hồi
rừng thứ sinh nghèo trên núi đá vôi tại vùng đệm Vườn Quốc gia Cát Bà” từ năm
2007 đến 2010 và đã đưa ra năm giải pháp phục hồi khoảng 7.000ha rừng tái
sinh nghèo trên núi đá vôi tại vùng đệm của Vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phịng
gồm: (1)- Khoanh ni bảo vệ, (2)- Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp với
trồng bổ sung, (3)- Làm giàu rừng, (4)- Nuôi dưỡng rừng, (5)- Cải tạo rừng.
Trần Hữu Viên (Đại học Lâm nghiệp, 2012), nghiên cứu về du sam đá vôi
tại khu bảo tồn Thiên nhiên Kim Hỷ (Na Rì). Kết quả điều tra cho thấy, hiện nay,
vùng phân bố tự nhiên đã bị thu hẹp nhanh chóng và số lượng cá thể lồi giảm


×