Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Phương pháp dạy học luyện từ và câu lớp 4 - SKKN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.48 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: Phương pháp dạy học luyện từ và câu lớp 4.
Tác giả sáng kiến: Đinh Thị Thu
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường TH Hoàng Hoa
Số điện thoại:.0978635038 E_mail:

.

Vĩnh Phúc, năm 2018
Vĩnh Phúc, năm 2018

1


TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên sáng kiến:Phương pháp dạy học luyện từ và câu lớp 4.

Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao kĩ năng phát triển các yếu tố hình


học cho học sinh lớp 4-5.
.
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Văn Đủ
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường TH Hoàng Hoa
Số điện thoại:.0987465248 E_mail:

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Vĩnh Phúc, năm 2018
Vĩnh Phúc, năm 2018

2


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Từ xa xưa, ông cha ta đã sử dụng tiếng Việt một cách tự giác nhằm để
giáo dục trẻ nhỏ. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của
mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng
sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành người có nhân
cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu
của xã hội trong thời kỳ phát triển mới.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một
điều tất yếu. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ
đẳng nhất qua một loại phương tiện đặc biết nhất, tiện lợi nhất đó là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan
trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người. Ngôn ngữ là thứ công
cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt
truyền thống văn hóa - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó có thể diễn tả

tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy, biết được những giá trị trừu tượng
mà các giác quan không thể vươn tới được. Quá trình giáo dục ngơn ngữ được
thể hiện ở mọi lúc mọi nơi, trong tất cả các môn học. Nhất là các môn học ở tiểu
học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục cho học sinh một cách tồn diện.
Đặc biệt, phân mơn Lụn từ và câu là một phân môn chiếm thời lượng
khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, đã góp phần rất quan trọng trong việc
hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động học tập và giao tiếp một
cách chính xác, phù hợp. Học tốt môn học này sẽ tạo tiền đề cho các em học tốt
các môn học khác.
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng: “Phong ba bão táp không bằng
ngữ pháp Việt Nam”
Nên việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 sao cho có
hiệu quả là một vấn đề không phải đơn giản đặt ra cho các giáo viên tiểu học.
Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Đối với chương trình
hiện nay, từ ngữ và ngữ pháp đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc
hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở
rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, đa số học sinh
làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không
có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy, việc tổ chức cho học sinh
trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các
giáo viên và ngay cả bản thân tơi.
Trong q trình dạy học, tơi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến
tiết Luyện từ và câu, đặc biệt là các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ
ghép… bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần này trong
3


sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy, học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học
trở nên nhàm chán không thu hút được học sinh. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần
có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài

tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học
tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu
hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh
lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tở chức thích hợp nhất, vận
dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên
cứu có hạn tơi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thơng qua
đề tài “Phương pháp dạy lụn từ và câu lớp 4”.
2. Tên sáng kiến: “Phương pháp dạy luyện từ và câu lớp 4”.
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Đinh Thị Thu
Địa chỉ: Trường tiểu học Hoàng Hoa – Tam Dương - Vĩnh phúc
Số điện thoại: 0978635038
Email:
4, Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nhà giáo Đinh Thị Thu – Giáo viên Trường
Tiểu học Hoàng Hoa – Tam Dương – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Tìm hiểu tình hình học Tiếng Việt phân môn Luyện từ và câu, thực hành
xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một
số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: ngày 20/10/2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Cùng với các môn học khác,
môn Tiếng Việt góp phần cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những
nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động
tư duy và bời dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Trong môn Tiếng Việt, Luyện từ và câu được tách thành một phân môn

độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn…song song
tồn tại với các môn học khác. Đó là một môn khoa học cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn kĩ năng
dùng từ đặt câu, kĩ năng diễn đạt cho học sinh. Điều đó thể hiện việc cung cấp
vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm
“đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngơn ngữ cho hoạt động giao tiếp
cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan
trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các
4


dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4, nhằm góp phần giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt.
Những thuận lợi và khó khăn:
* Về phía nhà trường.
Chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, thường xuyên
động viên, kiểm tra, nhắc nhở cũng như bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ từ
phía Ban giám hiệu như tổ chức tập huấn các chuyên đề trong dịp hè và trong
năm học, giúp giáo viên có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn
nhau. Đồng thời, nhà trường đã trang bị cơ sở vật chất, cung cấp đầy đủ phương
tiện và thiết bị phục vụ cho công tác dạy - học.
* Về phía chương trình sách giáo khoa.
Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỡi
tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố, kiểm tra. Mà việc xác
định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc
xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát
huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
*Về phía giáo viên.
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học
sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản

về tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó, nâng cao các
kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần
được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự
thành cơng của q trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình hướng dẫn học
sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực
trạng của giáo viên như sau:
Phần lớn giáo viên trẻ, nhiệt tình, chun mơn vững vàng. Song còn tồn
tại một số vấn đề sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” có kiến thức khó trong khi hướng dẫn học
sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý
giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng.
- Một số rất ít giáo viên không đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để
khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào
đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách
giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn
từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về tiếng Việt.
- Mặc dù chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho
nó có hiệu quả nhất ở môn học này nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc
lộ không ít những hạn chế.
5


* Về phía học sinh.
Phần lớn học sinh ngoan, có ý thức và khả năng học tập, rèn luyện tốt;
được sự quan tâm, đầu tư nhắc nhở của các bậc phụ huynh. Song bên cạnh đó
còn một bộ phận học sinh lười học, không có ý thức vươn lên, chưa có sự quan
tâm đứng mức từ phía gia đình.
Nhất là trong q trình học tập phân mơn “Lụn từ và câu”, hầu hết học

sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của nó nên chưa giành thời
gian thích đáng và không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là
phân môn vừa “khô” vừa “khó”.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu… Từ đó dẫn đến việc
nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm
lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trơi
chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không
đạt yêu cầu. Điều đó cho thấy học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ
động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
Do vậy, ngay khi dạy tới phần từ láy, từ ghép… Tôi đã tiến hành khảo sát
học sinh lớp 4C bằng bài tập sau:
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng
cáp. Dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”.
Qua khảo sát ở lớp tôi có 35 học sinh, kết quả khảo sát như sau:
Hồn thành

Chưa hồn thành

SL

%

SL

%


25

71,4

10

28,6

Qua giảng dạy tơi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai
phía: người dạy và người học. Do vậy, tôi cần phải trau dời kiến thức tìm ra
phương pháp đởi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên
để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động
học.
* Sơ lược một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ để.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
6


+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được.
+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu…
7.2 Khả năng áp dụng của sáng kiến:
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu.
Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu
cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo

viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức,
kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên
cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết
tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau.
1. Đọc kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho
và yếu tố phải tìm.
3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề
bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp
rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm
bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là
bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể đều có một hình thức tở chức riêng. Có thể
theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức
đó là phương pháp hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề cho học sinh.
Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội
dung các chủ điểm mà phân môn “Luyện từ và câu” cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ, học sinh được: cung cấp thêm các từ ngữ
mới theo chủ điểm hoặc nghĩa các yếu tố Hán Việt; rèn luyện khả năng huy
động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ.
- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ, học sinh được:
tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt vần trong thơ, tìm
hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm
hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
Cách 1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
Cách 2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và
vần) giống nhau đó là từ láy.

7


- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ
giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm… vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh.
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng
các kiểu câu tùy theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định.
3. Yêu cầu, mong muốn.
- Đặc biệt cần chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ gìn phép lịch sự
trong giao tiếp. Cụ thể:
Câu hỏi:
1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người
được hỏi.
2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự.
2. Muốn cho lời yêu cầu, lời đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù
hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: làm ơn, giùm, giúp…
3. Có thể dùng câu hỏi nếu yêu cầu đề nghị.
7.2.2. Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập “Luyện từ và
câu”.
Các kiểu hình thức và kỹ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu”
được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên.
* Đới với các dạng bài tập mở rợng vớn từ.

Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đờng loại.
- Trái nghĩa với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngồi ra, việc sử dụng hướng dẫn mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên
yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi
đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp.
Nhóm 1: lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ…
Nêu ý nghĩa của cá từ em tìm được. Các nhóm cùng bở sung, giáo viên
chốt lại ý kiến đúng.
8


Sau đấy giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu và nêu tình huống sử dụng cụ
thể để giúp học sinh dùng từ đúng ngữ cảnh.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình
học tập.
* Rèn luyện kỹ năng cấu tạo từ - dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
- Ngay
- Thẳng
- Thật
Đối với dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong
phiếu. giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ từ
q trình làm việc của học sinh, mỡi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ
(Ngay, thẳng, thật).
Từ
Từ láy
Từ ghép

Ngay
Ngay ngáy…
Ngay thẳng,...
Thẳng
Thẳng thắn…
Thẳng tắp ...
Thật
Thật thà…
Sự thật,...
Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo
viên cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ
âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau. Từ ghép là từ ghép những tiếng
có nghĩa lại với nhau. dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ nghép
và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa…
+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ…
Song có một số trường hợp học sinh lúng túng trong việc xác định đó là từ
ghép hay từ láy. Ví dụ như bài tập sau:
Các từ êm ái, ấm áp, ốm o, ầm ĩ, óc ách, inh ỏi, n ả... có phải là từ láy
khơng?
Thoạt nhìn và đối chứng với định nghĩa về từ láy trong sách giáo khoa
Tiếng Việt 4, ta có thể nghĩ rằng các từ trên không phải là từ láy. Nhưng nếu
quan sát kĩ, ta thấy các từ trên đều giống nhau về hình thức ngữ âm: các tiếng
trong từng từ đều khuyết phụ âm đầu. (Nên trước hết phải hướng dẫn học sinh
phân tích cấu tạo của các tiếng để thấy được các từ đó mang nét giống với từ

9


láy về mặt hình thức ngữ âm). Bên cạnh đó đặc trưng ngữ nghĩa của các từ này
cũng gần giống với đặc trưng ngữ nghĩa nói chung của từ láy (có tác dụng giảm
nhẹ hoặc nhấn mạnh về mặt ngữ nghĩa: Ví dụ: êm êm (giảm nhẹ), êm ái (nhấn
mạnh)). Nếu phải giải thích cho học sinh lớp 4, giáo viên có thể nói: đây là các
từ láy, nhưng là các từ láy đặc biệt (đặc biệt ở chỗ nó không giống từ láy bình
thường về hình thức ngữ âm)
Cũng có các trường hợp sau: Các từ: công kênh, cuống quýt... là từ láy
hay từ ghép?
Để hướng dẫn cho học sinh làm bài tập này, giáo viên phải gợi ý cho học
sinh: phụ âm đầu “cờ” trong tiếng Việt được ghi bằng ba chữ cái: “c”, “k”,
“q”. Như vậy có thể kết luận: đây là từ láy phụ âm đầu “cờ” (Bài tập mở rộng
cho học sinh khá giỏi)
*Luyện tập các bài tập về danh từ, động từ, tính từ.
Tôi thấy chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 4 cũng đã lựa chọn
những bài tập phù hợp với tình huống giao tiếp gần gũi, gắn bó với cuộc sống
của học sinh.
Ví dụ 1: Viết họ tên ba bạn nam, ba bạn nữ trong lớp em. Họ tên các bạn
ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? Vì sao?
Với bài này tôi yêu cầu học sinh nhắc lại danh từ riêng là gì? Danh từ
chung là gì? Rời gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết đúng quy
tắc chính tả. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân. Phần trả lời câu hỏi phía sau thì cho nêu
miệng.
Ví dụ 2: gạch dưới các động từ có trong đoạn văn sau:
Yết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông.
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí.
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt.

Nhà vua: Để làm gì?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ
dưới nước.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo ḷn
rời trình bày kết quả trước lớp.
Lưu ý có hai từ “dùi”, từ nào là động từ?
Lấy ví dụ trường hợp khác. Bác Tư dùng cái khoan để khoan tường
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất đươc
gạch chân trong đoạn văn sau:
Hoa cà phê thơm đậm và ngọt nên mùi hương thường theo gió bay đi rất
xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ một lần đến đây ngắm nhìn vẻ đẹp của cà phê đã
phải thốt lên.
10


Hoa cà phê thơm lắm em ơi
Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc xinh và sáng
Như miệng em cười đâu đây thôi.
Đây là bài tập liên quan đến tính từ và bài này hơi trừu tượng với học
sinh.
Giáo viên cho các em phân tích đề bài trước vì u cầu của bài khơng
quen thuộc với các em.
Tìm những từ miêu tả mức độ của đặc điểm, tính chất (được gạch chân)
trong đoạn văn trên. Cụ thể là: Hoa cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và
ngọt).... Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân).
Thơm - lắm
Trong - ngà
Trắng - ngọc
Dần dần các em sẽ thấy quen thuộc với cách làm của bài này.

Ví dụ 4: Xác định từ loại của các từ được gạch chân:
Lá lành đùm lá rách
Bước 1: Yêu cầu học sinh nhắc lại khái niệm về danh từ, động từ, tính từ.
Bước 2: Lần lượt xét xem các từ được gạch chân chỉ cái gì? (lá: chỉ sự vật;
đùm: chỉ hành động; rách: chỉ đặc điểm) từ đó xác định chính xác từ loại của các
từ trên.
* Đối với một số bài tập mở rộng, nâng cao về xác định từ loại của các từ,
có nhiều trường hợp khiến học sinh lúng túng. Bởi có những từ khi đứng một
mình, tách khỏi ngữ cảnh, học sinh vẫn dễ dàng nhận ra giá trị từ loại của chúng.
Ví dụ: xe đạp, đi, to, nhỏ....bởi các em dễ nắm được ý nghĩa khái quát của
chúng. Nhưng lại có những từ nếu đứng một mình, tách chúng ra khỏi ngữ cảnh
thì khó xác định từ loại của chúng, ví dụ từ: kỉ niệm, ảnh hưởng... Đối với những
bài thế này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đặt chúng vào một ngữ cảnh, vào
một trường hợp sử dụng cụ thể. Ví dụ:
- “Tôi vẫn nhớ như in những kỉ niệm của thuở học trò”: “kỉ niệm” là danh
từ.
- “Tớ kỉ niệm cậu tấm hình này”: “kỉ niệm” là động từ.
Bảng tóm tắt kiến thức sau được xem là “chìa khóa” để học sinh có thể
làm tốt các bài tập về xác định từ loại:

Danh từ

Từ đứng trước
- Số từ (một, hai,
ba…)

Từ đứng sau

Ví dụ
- Những nỗi buồn


11


Động từ
Tính từ

- Chiếc, cái, con,
DT
những, tất cả…
- Tôi đang buồn
Hãy, đừng, chớ, - Rồi, nữa, mãi…
ĐT
đã, sẽ, đang…
- Tôi b̀n lắm
- Rất, hơi…
- Lắm, q…
TT
- Cực kì, tuyệt
vời…

* Củng cố, khắc sâu, mở rộng các dạng bài tập về câu.
Với dạng này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động để học sinh biết
đặt câu phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo tính lịch sự.
a. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a. Kể việc làm hằng ngày sau khi đi học về.
b. Tả chiếc bút em đang dùng
c. Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d. Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.

- Trước hết phải giúp học sinh hiểu được: các yêu cầu trên là khác nhau:
Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui... Giáo viên có thể gợi ý như sau:
+ Khi tả phải sử dụng những từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật.
+ Bày tỏ ý kiến: yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui: Vui sướng như thế nào khi được điểm tốt?
- Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân, viết rồi đọc bài (Lưu ý khi viết
hết câu phải có đấu chấm (.)), các bạn khác nhận xét, bổ sung.
Ví dụ 2: Khi muốn mượn bút của bạn, em có thể chọn những cách nói
nào?
a. Cho mượn cái bút.
b. Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!
c. Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được ko?
Cho học sinh trả lời cá nhân: chọn cách c, vì nó thể hiện tính lịch sự trong
giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực
hành lời yêu cầu lịch sự.
b. Câu hỏi
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng
rất cụ thể.
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ
hỏi cụ già có thích hợp hơn nhưng câu hỏi khác khơng? Vì sao?
12


Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các
bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi,
cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp
lời sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?

- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ cụ, lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải
xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho
học sinh so sánh.
Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm.
- Hay cụ đánh mất cái gì?
Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già rất
phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu khơng biết ngun nhân của ông cụ như
thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì… sẽ tởn thương đến ơng cụ
(chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc
sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm
phiền lòng người khác.
Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã hướng dẫn
các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.
Hoạt động liên hệ: cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống
như trong bài tập trên ở ngoài thực tế.
c. Câu khiến
- Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:
+ Chuyển các câu thành câu cầu khiến.
+ Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.

+ Đặt câu khiến theo yêu cầu có

“hãy” trước động từ

“đi” hoặc “nào” sau động từ
“xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ
13


- Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.
Ví dụ 1: Chuyển câu thành câu cầu khiến:
- Thanh đi lao động.
Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu:
- Thanh đi lao động.
- Thanh phải đi lao động!
- Thanh hãy đi lao động!
Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: thêm các từ “đi”, “phải”,
“hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng - nhẹ tùy thuộc vào mỗi lời yêu cầu.
- Thanh đi lao động! (yêu cầu nhẹ nhàng)
- Thanh phải đi lao động! (yêu cầu bắt buộc)
- Thanh hãy đi lao động! (yêu cầu mang tính ra lệnh)
Sau khi tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm ứng với 4
tổ), mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét.
Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách
sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ… và cuối câu
dùng dấu chấm than (!).
Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2.
Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:
a. Câu khiến có hãy ở trước động từ
b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ
c. câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.
Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.
a. Bạn hãy làm bài tập đi!
b. Mong các bạn làm bài tập thật tốt!

d. Câu cảm: (câu cảm thán)
Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng,
thán phục, đau xót, ngạc nhiên... ) của người nói.
Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm,
thật ... Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!).
Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:
a. Cơ giáo ra một bài tốn khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu
cảm để bày tỏ sự thán phục.
b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu
bống nhiên đến chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui
mừng.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trị trong tình
huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.
14


a. Ôi, bạn giỏi quá!
b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
Tơi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu
cá nhân để các bạn nhận xét.
Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộc lộ cảm xúc gì?
a. Ơi, bạn Nam đến kìa!
b. Ồ, bạn Nam thơng minh q!
c. Trời, thật là kinh khủng!
Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:
- B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.
- B2: Tìm cảm xúc được thể hiện mỡi câu.
- B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
e. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.
Dạng bài tập:

- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:
a, ................... , em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình.
b, ................... , em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.
c, ................... , hoa đã nở.
Đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm
(4 nhóm tương ứng với 4 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu):
Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu?
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học
sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.
Trong q trình giảng dạy, tơi cũng đưa ra một số tình huống khó để học
sinh khá giỏi có thể phát huy năng lực và tích lũy kiến thức.
Ví dụ bài tập sau: Các từ ngữ được in đậm có phải là trạng ngữ không?
- Chim kêu ríu rít trên cành cây
- Anh ấy bị ho vì lạnh
- Chúng em được nghỉ học hôm nay
Trước hết, tôi sẽ cho học sinh thảo luận rồi phát biểu ý kiến. Sau đó, tôi sẽ
giúp học sinh nắm được: dấu hiệu hình thức giúp dễ nhận biết giúp ta xác định
15


được trạng ngữ đứng cuối câu, đó là: trạng ngữ được tách với khối chủ - vị bằng
một quãng nghỉ hơi ngắn hoặc được ngăn cách bằng dấu phẩy (,). Các cụm từ in
đậm ở ví dụ trên không có những đặc điểm này, nên nó không phải là trạng ngữ.
Thực ra các từ trên chỉ bổ sung ý nghĩa cho các động từ trung tâm đứng phía

trước. Cụ thể, “trên cánh cây” bổ sung ý nghĩa về địa điểm, nơi chốn cho động
từ “kêu”; “vì lạnh” bổ sung ý nghĩa nguyên nhân cho động từ chỉ sự tiếp thụ
“bị”; “hôm nay” bổ sung ý nghĩa về thời gian cho “được nghỉ học” . Nếu những
cụm từ này được tách với nòng cốt câu bởi dấu phẩy thì nó hiển nhiên nó là
trạng ngữ.
Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh cần lưu ý những điểm sau:
Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:
a, ........ , xã em vừa đào một con mương.
b, ........ , chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện tốt.
c, ........ , em phải năng tập thể dục.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đến việc hiểu:
+ Mục đích của đào mương để làm gì?
+ Quyết tâm học tập và rèn luyện tốt để làm gì?
+ Tập thể dục có lợi gì?
Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:
Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau
- Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài
đầy đủ.
- Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người họa sĩ dân gian đã
sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.
Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ
“bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?
Nên bài thơ này tơi chỉ cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá
nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ khơng khó khăn gì?
Như vậy, mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng
bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ điệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập
Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng
cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi
thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn
những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.

Ví dụ: Với dạng bài tập mở rộng vốn từ ý chí, nghị lực.
Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đã vượt
qua nhiều thử thách, đạt được thành công.
Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó
viết ngay vào nháp.
16


Với học sinh trung bình và yếu tơi gợi mở cho học sinh như sau:
- Hãy kể tên các bài tập đọc có trong chủ đề “Có chí thì nên”?
- Các bài tập đọc đó nói về tấm gương nào? Con học tập được gì ở những
tấm gương đó?
Sau khi học sinh xác định được nhân vật mình sẽ viết, tôi sẽ tiếp tục
hướng dẫn như sau:
- Hãy kể các từ nói về ý chí, nghị lực của con người?
- Trong những từ vừa tìm được, từ nào phù hợp với yêu cầu của đề bài:
“người có ý chí, nghị lực nên đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành
cơng.”?
Trong q trình học sinh viết tơi sẽ giúp đỡ để các em lựa chọn từ và cách
diễn đạt phù hợp nhất.
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc
nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà.
Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong q trình giảng dạy.
Một điều tơi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em
làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả
một vấn đề cần chấn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp
tở chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một học kì
ơn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát
để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đạt được hoạt động sôi nổi trong giờ

Luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4C do tôi chủ nhiệm.
Đề bài: đọc thầm bài “về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:
1, Trong bài “về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”
2, Câu “lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy yên và thong thả như thế”
có mấy động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ: ...
- Tính từ: ...
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ: ...
- Tính từ: ...
c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ: ...
- Tính từ: ...
3, Câu “Cháu đã về đấy ư?” được dùng để làm gì?
a. Dùng để hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, để nghị.
c. Dùng thay lời chào.

17


4, Trong câu “sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ
phận nào là chủ ngữ?
a. Thanh.
b. Sự yên lặng.
c. Sự yên lặng làm Thanh.
Kết quả thu được: tởng số lớp 4B có 30 em.
Chưa hồn thành

Hồn thành
Sl


%

sl

%

28

93,3

2

6,7

8. Những thơng tin cần được bảo mật :
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Vì thời gian có hạn và năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên tơi chỉ
mới nghiên cứu, tìm ra được một số phương pháp tổ chức dạy các bài tập
“Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Phần nghiên cứu có thể chưa sâu, chưa
sát, tôi thiết nghĩ nếu chỉ nghiên cứu trong phạm vi đề tài này thì chưa đủ, vì thế
trong tương lai nếu có điều kiện nghiên cứu, tơi hứa sẽ nghiên cứu hồn thiện
hơn.
- Đề tài này chỉ có thể vận dụng trong phạm vi tiết dạy “Luyện từ và câu”
lớp 4.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến:
10.1: Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả:
-Thực hiện đề tài này, học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và
rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4, tôi
thấy kết quả của việc làm đó cụ thể như sau:

- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức,
tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu
một cách có hiệu quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một
cách chủ động.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc,
có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của
bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.
- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đạt
câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của
mình.
18


- Qua việc giảng dạy, theo dõi kết quả của học sinh qua các bài kiểm tra,
bài kiểm tra định kì của học sinh tơi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn
“Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng là điều nói lên học sinh đã bắt đầu
yêu thích môn học.
- Tuy nhiên, kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở một quy mô nhỏ,
song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy, hỗ trợ tôi trong
việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tở chức dạy các dạng bài
tập “Luyện từ và câu” cho học sinh của mình
10.2 Đánh giá thu được theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sau một thời gian hướng dẫn lớp 4C, tôi ra cho lớp đề khảo sát sau:
Đề bài:
“Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao. Màu vàng trên lưng chú lấp
lánh, bốn cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như
thủy tinh.”
Hãy xác định: Từ đơn, từ ghép, từ láy

Trong các từ đó đâu là danh từ, động từ, tính từ
Đặt câu với một từ đơn, một từ láy, một từ ghép em vừa tìm được.
Kết quả đạt như sau:
Hồn
thành Tốt

Hồn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

23

65,7

12

34,3


0

0

Với kết quả thu được ở việc dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng tôi
càng tin tưởng vào việc vận dụng phương pháp tổ chức dạy các bài tập Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 4 có hiệu quả.
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu.
Số
TT
1

Tên tổ chức/cá
nhân
Đinh Thị Thu

Địa chỉ
Giáo viên dạy lớp 4C - Trường
Tiểu học Hồng Hoa

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Mơn Tiếng việt lớp
4

19


Hoàng Hoa, ngày 22 tháng 02 năm 2018 Hoàng Hoa, ngày 20 tháng 02 năm 2018

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Trần Trung Kiên

Đinh Thị Thu

20


ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG
Tởng điểm:.........................................
Xếp loại:.............................................

Hồng Hoa, ngày .... tháng .... năm 2018.
T.M HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH

21


ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH HUYỆN
Tổng điểm:.........................................
Xếp loại:.............................................

Tam Dương, ngày .... tháng .... năm 2018.
T.M HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH


22



×