Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thông tin đối ngoại trên truyền hình Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.75 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thông tin đối ngoại là một trong những nhiệm vụ thiết yếu, quan trọng
hàng đầu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong suốt
tiến trình đổi mới và phát triển tồn diện của đất nước, báo chí ln là mũi nhọn
xung kích, là lực lượng quan trọng trong việc thơng tin các đường lối, chủ
trương, chính sách và những thành tựu của Đảng và Nhà nước đến kiều bào Việt
Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Đồng thời, bác bỏ những thông tin sai trái,
thiếu khách quan của các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt về tình hình đất
nước. Có thể nói, thơng tin đối ngoại là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của báo chí nước ta. Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều đơn vị chuyên trách chỉ
làm công tác thông tin đối ngoại, song, báo chí vẫn ln đóng vai trị đặc biệt
quan trọng, là lực lượng thông tin nhanh, nhạy, thu hút đông đảo nhân dân quan
tâm. Thông tin tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng, với 4
loại hình báo chí tiêu biểu, bao gồm báo in, phát thanh, truyền hình và báo mạng
điện tử đã có nhiều bước khởi sắc. Mỗi loại hình có một ưu thế riêng trong việc
tuyên truyền đối ngoại, song, truyền hình vẫn có một sức hấp dẫn đặc biệt bởi
sự kết hợp sinh động của hình ảnh và âm thanh, đưa đến cho người xem cảm
giác tin tưởng, chân thực. Thực tế hiện nay, ở nước ta, về truyền hình có rất
nhiều đơn vị tham gia làm công tác thông tin đối ngoại, tiêu biểu phải kể đến
VTV4, VTC10, HTV7…Mặc dù, truyền hình Việt Nam tham gia thực hiện cơng
tác thơng tin đối ngoại trong suốt thời gian khá dài, song, trên thực tế, ở trong
và ngoài nước hiện vẫn chưa thực hiện việc đánh giá thực trạng một cách tổng
quát, có hệ thống, cũng chưa có những nghiên cứu chuyên sâu và chi tiết, chưa
phân tích được ưu điểm, hạn chế và chỉ ra được những căn nguyên của nó, để từ
đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thơng tin đối
ngoại trên truyền hình. Năm 2010, Ban Tuyên giáo Trung Ương phối hợp với
Bộ Thông tin và Truyền thông và một số đơn vị khác, tổ chức đi khảo sát một số


đơn vị làm nhiệm vụ thông tin đối ngoại như VTV4, VOV5, Vietnamnews...


những bước đầu mới chỉ đưa ra những nhận định sơ bộ, chung chung, chỉ dừng
lại ở mức thăm và làm việc, chưa có những đánh giá sát thực về thực trạng của
nó. Đây cũng chính là lý do thúc đẩy người viết chọn đề tài nghiên cứu “Thông
tin đối ngoại trên truyền hình Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về thông tin đối
ngoại và báo chí truyền thơng, đưa ra những đánh giá, nhận định bước đầu về
thực trạng thông tin đối ngoại ở một số Đài Truyền hình chủ lực, làm nhiệm vụ
thông tin đối ngoại tiêu biểu ở nước ta hiện nay, chỉ rõ các ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân của nó; và trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm làm truyền
hình ở các nước, luận văn sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với truyền
hình nước ta, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông
tin đối ngoại trên truyền hình, góp phần thúc đẩy hiệu quả thơng tin đối ngoại
của báo chí nói chung, truyền hình nói riêng trong bối cảnh tình hình mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các khái niệm: thơng tin đối ngoại; báo chí đối ngoại; đối tượng
thông tin đối ngoại. Làm rõ quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về
thơng tin đối ngoại. Phân tích và đánh giá thực trạng thơng tin đối ngoại trên
truyền hình Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả thơng tin đối ngoại trên truyền hình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực
trạng và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin
đối ngoại trên truyền hình, cụ thể là kênh truyền hình đối ngoại của Việt Nam

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu,


khảo sát và đánh giá thực trạng tình hình hoạt động thơng tin đối ngoại của
truyền hình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đọc, phân tích tài liệu về truyền thơng đại chúng, truyền
hình hiện đại, thơng tin đối ngoại. Phương pháp sưu tầm, thống kê, phân tích,
đánh giá, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, liệt kê...
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
3 chương, 13 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI QUA
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
1.1 Khái niệm thơng tin đối ngoại
Cho đến nay chưa có khái niệm chính xác về thơng tin đối ngoại. Có thể
tiếp cận thơng tin đối ngoại bằng ba cách
Thông tin đối ngoại là một dạng thông tin: “Thông tin đối ngoại được
hiểu là tin tức, là thông báo, là tri thức về một sự vật hay một hiện tượng được
chưa đựng trong các hình thức nhất định, được tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng
trong công tác đối ngoại. Thông tin đối ngoại bao gồm những thông tin trong
nước và quốc tế được dùng trong hoạt động đối ngoại”.
Có khái niệm cho rằng thơng tin đối ngoại là một lĩnh vực hoạt động
“Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta nhằm làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả
người nước ngồi đang sinh sống, cơng tác tại Việt Nam), người Việt Nam đang

sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam,
đường lối, chủ trương chính sách và 15 thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ”.
Quy chế Quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại, định nghĩa rằng
“Thông tin đối ngoại là thơng tin quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con
người, lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam; thông tin về chủ trương, đường lối
của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước Việt Nam ra thế giới và thông tin
về thế giới vào Việt Nam”.
Thông tin đối ngoại là một ngành đào tạo: Có nhiệm vụ “đào tạo đội ngũ
cán bộ có trình độ chun mơn ở bậc đại học, có khả năng thực hiện các chức
trách của các phóng viên, biên tập viên thơng tin đối ngoại tại các cơ quan thơng
tấn, báo chí; công tác tham mưu, tư vấn, tổ chức, quản lý hoạt động thông tin
đối ngoại tại các bộ phận, cơ quan, tổ chức đối ngoại và quan hệ quốc tế của


Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội; hoặc thực hiện các chức trách
đòi hỏi sự hiểu biết cơ bản, hệ thống kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ thơng tin
đối ngoại. Đồng thời có thể tự học, tự nâng cao trình độ hoặc tiếp tục học tập ở
những bậc học cao hơn”.
Như vậy có thể nói, “Thông tin đối ngoại là một bộ phận của thông tin,
thông qua những phương thức khác nhau để thông tin, giới thiệu và quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời phản bác các quan
điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần làm
cho nhân dân trong nước và quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu về Việt Nam
và ủng hộ Việt Nam trên con đường bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước”.
1.2. Nhóm đối tượng thơng tin đối ngoại
Trước hết, đối tượng ngồi nước, bao gồm: Các cơ quan chính phủ, các tổ
chức quốc tế, chính giới, học giả, các cơ quan thơng tấn báo chí, nhà kinh
doanh, nhân dân các nước và hơn 4 triệu kiều bào ta ở nước ngoài. Đối với các

cơ quan chính phủ, các tổ chức quốc tế, chính giới: Đây là nhóm đối tượng đặc
biệt có vai trị quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại
của các nước, đồng thời có thể là lực lượng hậu thuẫn cho chính sách của các
nước đối với Việt Nam. Thông tin mà ta cần cung cấp cho những đối tượng này
là các chủ trương, chính sách lớn của đất nước ta và những vấn đề có liên quan
trực tiếp tới quan hệ song phương, đa phương hoặc những thơng tin mà đối tác
cần có liên quan đến một hoặc nhiều lĩnh vực của Việt Nam. Với quần chúng
nhân dân các nước: đối với nhóm đối tượng này, hình thức thơng tin cần đa
dạng, phong phú, chủ yếu thông qua các sự kiện của Việt Nam được tổ chức ở
nước ngoài và đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài: Với khoảng 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống,
làm việc và định cư ở các quốc gia trên khắp thế giới, cộng đồng người Việt
đóng vai trị cầu nối văn hóa và cầu nối kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và
các nước sở tại. Do đó, người Việt Nam ở nước ngồi vừa là nhóm đối tượng
đặc biệt, vừa là lực lượng tham gia thực hiện công tác này một cách tự nhiên.


Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng tới việc đáp ứng các nhu cầu thơng tin và
tình cảm của người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng trong nước,bao gồm: Cộng đồng người nước ngoài ở
Việt Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của các nước, cơ
quan đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam; các nhà
đầu tư, kinh doanh, chuyên gia quốc tế tại Việt Nam; các đoàn khách quốc tế
thăm viếng, khách du lịch, đặc biệt là đội ngũ phóng viên báo chí nước ngồi
đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là nhóm đối tượng trực tiếp chứng kiến tình
hình chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa của đất nước ta. Ngồi việc hợp tác với
các cơ quan chính phủ và địa phương trong việc hỗ trợ phát triển, theo dõi tình
hình về nhân quyền, tơn giáo, tự do báo chí, nhóm đối tượng này còn thường
xuyên xây dựng các báo cáo hàng năm về tình hình trên mọi lĩnh vực của Việt
Nam, trực tiếp đưa ra kiến nghị và thực hiện các chính sách quan hệ của các

quốc gia với nước ta. Bên cạnh đó, họ cũng có thể tạo ra dư luận thuận lợi hoặc
bất lợi cho Việt Nam. Do vậy, mục đích của cơng tác thơng tin đối ngoại là đem
lại cho họ những ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam. Và nhóm
đối tượng người Việt Nam ở trong nước cũng là một bộ phận quan trọng cần
được thông tin đầy đủ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin đối ngoại, mỗi người
dân Việt Nam phải là một đại sứ để giới thiệu, quảng bá hình ảnh con người,
văn hóa đất nước mình, từ đó, tạo dựng mạng lưới bạn bè, gây dựng tình cảm
giữa người dân với người dân, làm nền tảng cho đối ngoại của Đảng và ngoại
giao của Nhà nước. Thông tin đối ngoại, trước hết, phải đối ngoại tại chỗ, phải
làm cho nhân dân nước mình hiểu được sứ mệnh, vai trị của cơng tác thơng tin
đối ngoại, để giúp người dân biết, dân hiểu, dân tự nguyện tham gia vào nhiệm
vụ thông tin đối ngoại. Đây sẽ là nguồn lực vô cùng quý báu đối với sự phát
triển của đất nước.
1.3. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về thông tin đối ngoại
Trong những năm qua, đặc biệt hơn 10 năm trở lại đây, công tác thông tin
đối ngoại đã được Đảng và Chính phủ quan tâm đặc biệt. Bộ Chính trị, Ban Bí


thư và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị, thông báo
và các văn bản pháp luật nhằm tăng cường và đẩy mạnh công tác thông tin đối
ngoại nói chung, báo chí truyền hình nói riêng.
Chỉ thị 11-CT/TW ngày 13 tháng 6 năm 1992 của Ban Bí thư TW Đảng
khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại được xem là
Chỉ thị quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến hết sức
phức tạp và nhanh chóng. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên
Xô sụp đổ, phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc lâm vào tình
trạng khủng hoảng. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động thơng tin
liên lạc nhằm kích động, xun tạc và chống lại Chủ nghĩa xã hội nói chung và
Việt Nam nói riêng. Do đó, Chỉ thị 11 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, xác định
nhiệm vụ thông tin đối ngoại phải lật sang một trang sử mới, nhằm làm cho

Chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới biết đến đất nước, con người của
ta, hiểu rõ chính sách đối ngoại của ta để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các
nước trên con đường xây dựng và phát triển. Chỉ thị 11 xác định tăng cường
thông tin về đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới tồn diện của ta, gồm
chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con
người lịch sử và văn hóa ta. Trong đó, khẳng định truyền hình là lực lượng chủ
lực làm thơng tin đối ngoại, với mục tiêu “mở rộng việc trao đổi chương trình
và hợp tác với đài truyền hình các nước”.
Tiếp đó là Thơng báo số 188/TB-TW ngày 29 tháng 12 năm 1993 của
Thường vụ Bộ Chính trị về cơng tác thơng tin đối ngoại trong tình hình mới,
trong đó quy định cụ thể chi tiết các nhiệm vụ và giao các đơn vị quản lý chủ trì
thực hiện. Nhiệm vụ của Thông báo số 188/TB-TW tiếp tục xác định đẩy mạnh
công tác thông tin thông qua lực lượng truyền thông đại chúng “tiếp tục đầu tư
và nâng cao chất lượng hệ thống thơng tấn báo chí, xuất bản quốc gia như
Thơng tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam,
một số báo và nhà xuất bản lớn để làm nịng cốt cho cơng tác thơng tin đối
ngoại”. Đến năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số


10/2000/CTTTg ngày 26 tháng 4 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường quản lý và đẩy mạnh cơng tác thông tin đối ngoại. Suốt 8 năm thực hiện
Chỉ thị 11- CT/TW của Ban Bí thư và Thơng báo số 188/TB-TW của Thường
vụ Bộ Chính trị đã bộc lộ nhiều “hạn chế và yếu kém” về công tác quản lý và
phối hợp giữa các Ban, ngành chỉ đạo, tổ chức thực hiện, thơng tin đối ngoại có
nhiều mặt chưa rõ, nên q trình triển khai cịn nhiều “lúng túng, thiếu đồng bộ
và kém hiệu quả”. Trong bối cảnh mới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ,
ngành và địa phương các cấp phải thấu suốt và thực hiện các nhiệm vụ trọng
tâm của thơng tin đối ngoại, trong đó xác định Bộ Văn hóa – Thơng tin 25 là
đơn vị chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về công tác thông tin đối ngoại. Như vậy, lần đầu tiên Nhà nước xác định

và phân cơng rõ nhiệm vụ Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ Thông tin và
Truyền thông chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại.
Sau đó, Nghị Quyết số 36/NQ-TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ
chính trị nhấn mạnh về cơng tác người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị Quyết số
110/2004/QĐ – TTg ngày 23 tháng 6 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36/ NQ TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ Chính trị là những Nghị Quyết quan
trọng, thể hiện quyết tâm của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong việc đưa thông
tin Việt Nam ra nước ngoài nhằm để bà con Việt kiều và bạn bè quốc tế biết và
hiểu hơn về đất nước ta.
Chỉ thị 26-CT/TW ngày 10 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư về tiếp tục
tăng cường cơng tác thơng tin đối ngoại trong tình hình mới là một Chỉ thị quan
trọng, có ý nghĩa thúc đẩy cơng tác đối ngoại sang một bước mới. Lần đầu tiên,
Đảng ta xác định cần phải đổi mới, tăng cường công tác thông tin đối ngoại, đổi
mới cả về nội dung và phương thức thực hiện, đổi mới cả số lượng và chất
lượng. Trong đó, xác định tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt
động thông tin đối ngoại, phát triển các phương tiện thông tin hiện đại, nhất là
Internet, truyền hình cáp; đầu tư có trọng điểm cho một số báo hình, báo viết,


báo mạng, bằng tiếng Việt Nam và tiếng nước ngoài, tạo ra những thương hiệu
báo chí Việt Nam có uy tín quốc tế.
Ngày 28 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định
thống nhất quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại. Quy chế Quản lý Nhà nước
về thơng tin đối ngoại có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, lần đầu tiên quy định
thống nhất hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung Ương đến 26 địa
phương; lần đầu tiên, định nghĩa và nội dung của thơng tin đối ngoại được
khẳng định chính thức, và quy định một cách cụ thể, rõ ràng và chi tiết trong
một văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết XI Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định triển khai công tác
thông tin đối ngoại, trong đó, phải “Tích cực triển khai Quy chế quản lý nhà

nước về thông tin đối ngoại đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
30/11/2010”. Trong những năm gần đây, chủ trương tăng cường thông tin đối
ngoại, đưa thông tin và quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra bên
ngoài được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhiều văn bản, chỉ thị yêu
cầu tăng cường cơng tác thơng tin đối ngoại trong tình hình mới được phổ biến
và quán triệt một cách sâu rộng. Và “trong bối cảnh quốc tế có những diễn biến
phức tạp, khó lường và kẻ địch ln tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách
mạng nước ta bằng diễn biến hịa bình với sự bùng nổ của thơng tin, thì vai trị
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác thông tin đối ngoại càng quan trọng hơn”.
Mới đây nhất, Bộ chính trị đã thơng qua Chiến lược phát triển thông tin đối
ngoại giai đoạn 2011-2012, nhằm tiếp tục thông tin về thành tựu đổi mới đất
nước, quảng bá hình ảnh Việt Nam, hạn chế các tác động tiêu cực của các thông
tin trái chiều, các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch.
Rõ ràng, đối với những người chuyên trách về thông tin đối ngoại nói 27
riêng và hệ thống chính trị ta nói chung, “Chiến lược phát triển thông tin đối
ngoại giai đoạn 2011-2020” là một minh chứng rõ ràng đối với yêu cầu cấp
bách đưa thông tin Việt Nam đến bà con Việt kiều và bạn bè quốc tế, để giúp
kiều bào ta ở nước ngoài, bạn bè quốc tế, nhân dân trong nước nắm được, nắm


đúng thơng tin về Việt Nam, đề từ đó, có những cách nhìn nhận, đánh giá về
tình hình Việt Nam một cách đúng đắn và chân thực nhất, góp phần thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam một cách sâu rộng và thành công,
nhằm đưa vị thế của Việt Nam tương xứng với các nước trong khu vực và thế
giới.
1.4. Vai trị thơng tin đối ngoại của truyền hình Việt Nam
Thứ nhất, quảng bá, thơng tin kịp thời mọi lĩnh vực đời sống xã hội của
Việt Nam tới bà con kiều bào và bạn bè quốc tế, trong đó, tập trung thơng tin,
tun truyền về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quan
điểm và lập trường của Việt Nam về các vấn đề trọng yếu của đất nước, khu vực

và quốc tế; thông tin, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn
hóa, lịch sử truyền thống tốt đẹp với những giá trị vật chất và tinh thần của dân
tộc; phản ánh những thành tựu của công cuộc đổi mới; giới thiệu về tiềm năng
và hiệu qủa trong đầu tư và hợp tác nước ngoài, trong xúc tiến thương mại, du
lịch và hội nhập quốc tế nhằm giúp bạn bè quốc tế, và cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài hiểu đúng, hiểu sâu hơn về đất nước ta, về các chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước 29 ta, từ đó tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước về sự nghiệp đổi mới của đất
nước ta; Đồng thời, báo chí đối ngoại phải thơng tin hai chiều, đưa thơng tin có
định hướng về tình hình khu vực và quốc tế cho nhân dân trong nước biết, tiếp
thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tốt đẹp của nước ngoài để nhân dân ta tham
khảo, học hỏi kinh nghiệm...
Thứ hai, truyền hình Việt Nam ln là lực lượng then chốt, góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phản bác mạnh mẽ các quan điểm sai trái, những
nhận định thiếu khách quan của các thế lực thù địch, của các phần tử chống đối
về tình hình Việt Nam, mà tập trung cốt lõi ở các vấn đề nóng như dân chủ,
nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngơn luận, vấn đề dân tộc thiểu số, vấn đề
tranh chấp biển đông... Những năm gần đây, các thế lực thù địch, cơ hội đang
lợi dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là các trang mạng xã hội


để đăng tải các bài viết phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bơi nhọ hình tượng
Hồ Chí Minh nhằm kích động, gây chia rẽ nội bộ, phá hoại sự đoàn kết toàn
dân; vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền; đàn áp tôn giáo, đàn áp người dân
tộc thiểu số; vi phạm tự do báo chí, tự do ngôn luận, và chúng tuyên truyền ca
ngợi các giá trị văn hóa phương Tây và cổ xúy tư tưởng đa nguyên, đa
đảng...Trong bối cảnh đó, yêu cầu nhiệm vụ của báo chí làm cơng tác thơng tin
đối ngoại ở mức độ sâu hơn, cao hơn, phải thông tin, tuyên truyền một cách chủ
động, kịp thời, có hiệu quả và mang tính thuyết phục cao.
Có thể nói, hiện nay, truyền hình đang là lực lượng rất quan trọng để thực

hiện việc thơng tin các vấn đề nóng, gây bức xúc dư luận trong và ngoài nước
đến với bà con kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Truyền hình với sự
kết hợp chân thực của hình ảnh và âm thanh đã mang đến cho người xem độ tin
cậy và sức thuyết phục cao.
Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều kênh truyền hình đang thực hiện nhiệm vụ
thơng tin đối ngoại như kênh VTV4, Đài Truyền hình Việt Nam; kênh HTV7
của Đài Truyền hình Tp Hồ Chí Minh; kênh VTC10, Đài Truyền hình Kỹ thuật
số VTC; Kênh truyền hình của Thông tấn xã Việt Nam; Đài Phát thanh và
Truyền hình Quảng Ninh... Với vai trị được coi là chủ lực, kênh VTV4 trong
những năm qua đã nỗ lực sản xuất các chương trình truyền hình hướng tới bà
con kiều bào và bạn bè quốc tế. Trước đây, nội dung chủ yếu của kênh VTV4
được biên tập, khai thác lại từ các chương trình truyền hình của kênh VTV1;
VTV2 và VTV3 thì đến nay, các chương trình được sản xuất nhiều hơn, thời
lượng phụ đề tiếng Anh trên kênh cũng tăng hơn, thậm chí, có một số chương
trình như Talk show được sản xuất bằng tiếng Anh, có phụ đề tiếng Việt. Kênh
VTC10 tuy được thành lập năm 2008, nhưng đã có nhiều nỗ lực trong việc sản
xuất và phát sóng các chương trình truyền hình tới nhiều nước trên thế giới.
Hiện, kênh VTV10 phát sóng trên kênh được Nhà nước đặt hàng để phục vụ
nhiệm vụ thông tin đối ngoại, do đó, các chương trình, các đề tài, nội dung các
chuyên mục được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, lấy văn hóa làm trụ cột để thơng tin,


quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam ra bên ngồi. Hay Đài Truyền hình Tp Hồ
Chí Minh đã chủ động đưa gói phim 31 truyện trên kênh HTV7 phát sóng ở địa
bàn Mỹ, phục vụ cho bà con Việt kiều ở Mỹ, một địa bàn được coi là trọng điểm
của thơng tin đối ngoại. Những năm qua, truyền hình luôn làm tốt là kênh thông
tin quan trọng, đưa thông tin của Việt Nam bằng hình ảnh tới bà con Việt kiều
và bạn bè quốc tế một cách chân thực nhất. Đồng thời, là lực lượng chủ lực
trong việc bác bỏ những nhận định thiếu khách quan, thiếu thiện chí, thậm chí
xun tạc, bịa đặt trắng trợn về tình hình Việt Nam của các thế lực thù địch,

phản động trong và ngoài nước.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THƠNG TIN ĐỐI NGOẠI TRÊN
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Hoạt động thông tin đối ngoại trên một số kênh truyền hình
2.1.1. Hoạt động thơng tin đối ngoại trên VTV4, Đài truyền hình Việt Nam
Chương trình của VTV4 so với những năm trước đây đã có nhiều bước
cải tiến rất quan trọng, số lượng chương trình phát trên kênh VTV4 tự sản xuất
nhiều hơn trước. Trước đây, nội dung chương trình của VTV4 đa phần được
biên tập lại từ các kênh VTV1, VTV2, VTV3 của Đài THVN, nên dường như
nội dung của VTV4 khá nhạt, không có bản sắc riêng, gần như được “xào xáo”
và biên tập lại, khiến nội dung chương trình chưa thật sự hấp dẫn và thu hút
người xem.
Gần đây, VTV4 đã có nhiều cải tiến trong việc nâng cao chất lượng nội
dung. Các chương trình sản xuất theo hướng chuyên sâu vào từng nhóm đối
tượng, đề cập trực tiếp các vấn đề nóng được khán giả quan tâm, nhiều chương
trình do các MC là Việt kiều dẫn nên về hình thức, cũng tạo sự cách tân so với
trước đây, làm cho khán giả là Việt kiều cảm thấy gần gũi hơn với các chương
trình.
Hiện, VTV4 đang tập trung sản xuất các bản tin bằng tiếng Anh, tiếng 37
Pháp, với thời lượng 30 phút/ngày; trong đó, bản tin tiếng Anh có sản xuất thêm
15 phút nhằm đưa những tin tức, cập nhật trong ngày đến với cơng chúng.
Ngồi ra, chương trình tiếng Nga “Vietnam Segodnya – Việt Nam hơm nay” đã
được phát sóng trên kênh VTV4 từ tháng 10/2010, là chương trình tin tức tổng
hợp về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa của hai nước Việt – Nga, đặc biệt là
những tin tức về các hoạt động cộng đồng người Việt Nam tại Liên Bang Nga
và các nước SNG.
Các chương trình làm trực tiếp bằng tiếng Anh nhằm hướng tới đối tượng
cơng chúng là người nước ngồi ở trong và ngồi nước, cũng như Việt kiều sử

dụng tiếng anh. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, người viết xin được tập


trung nhấn mạnh về một số chương trình trọng tâm của VTV4 trong thời gian
gần đây.
Chương trình Talk Vietnam, thời lượng 45 phút/ngày, 1 tuần/2 số.
Chương trình như cẩm nang cung cấp thơng tin cho người nước ngồi nhiều
thơng tin bổ ích, bao gồm thơng tin về kinh tế, chính trị, xã hội, du lịch, ẩm
thực...thông qua con mắt của người nước ngồi. Đây là một chương trình khá
cơng phu, hấp dẫn được thực hiện từ những năm 2007.
Chương trình Daily Biz, thời lượng 15 phút, 1 ngày/ số, được thực hiện
dưới dạng phóng sự, hoặc phóng sự tin tức nhằm cung cấp thơng tin nóng về
tình hình thị trường tài chính, đầu tư, kinh doanh và xuất nhập khẩu của ta.
Ẩm thực Việt Nam cũng là một trong những nội dung quan trọng ln
được báo chí nói chung, truyền hình nói riêng khai thác, nhằm quảng bá, giới
thiệu các món ăn ngon gắn với văn hóa các vùng, miền của dân tộc Việt Nam.
Fine Cuisine là chương trình giới thiệu nghệ thuật ẩm thực Việt Nam, với
nhiều món ăn đã trở nên quen thuộc và nổi tiếng của ba miền Bắc, Trung, Nam.
Chương trình 1 tuần/số, thực hiện bằng ngơn ngữ tiếng anh khá hấp 38 dẫn.
Chương trình Culture Mosaic, với thời lượng 30 phút, 1 tuần/số, là
chuyên mục văn hóa. Chương trình nhằm giới thiệu cho khán giả nước ngoài và
các thế hệ kiều bào ta ở trên thế giới những đặc trưng về văn hóa, phong tục tập
quán, truyền thống đặc sắc của văn hóa Việt Nam từ xa xưa cho đến nay, trong
đó cũng nhấn mạnh sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước đang là cầu
nối quan trọng nhằm siết chặt tình cảm hữu nghị và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Ngoài ra, nhiều chương trình với các thể loại khác nhau như phóng sự,
phim tài liệu, hộp thư khán giả, gala...nhằm cung cấp thông tin, tiếp nhận thông
tin một cách hai chiều nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin của công chúng.
Chương trình “Hộp thư với khán giả VTV4” nhằm giải đáp những thắc mắc,
những câu hỏi về mọi lĩnh vực liên quan đến kiều bào. Trong những năm gần

đây, VTV4 đã xây dựng chuyên mục “Núi sông bờ cõi”, đây là chun mục
chính luận nhằm cung cấp các thơng tin, tư liệu, các nguồn thơng tin chính


thống về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, góp phần khẳng định chủ quyền
lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam.
Hiện nay, Đài truyền hình Việt Nam đang tổ chức sản xuất và phát sóng
duy nhất 01 kênh truyền hình đối ngoại VTV4, phát sóng thơng qua các hệ
thống vệ tinh, truyền hình số mặt đất, Internet và phát sóng trong nước trên
truyền hình trả tiền. Tuy nhiên, chất lượng hình ảnh của VTV4 tại các nước,
nhất là Châu Âu tương đối thấp do hiện nay VTV4 chưa vào được hạ tầng
truyền hình của nhiều nước. Qua phản ánh của các đồn đi cơng tác ở nước
ngồi, người xem có thể xem các chương trình của VTV4, tuy nhiên, chất lượng
hình ảnh trên kênh VTV4 ở các nước chưa đáp ứng được u cầu, hiện tượng
nhiễu hình, khơng nét vẫn cịn khá phổ biến.
2.1.2. Thơng tin đối ngoại tại kênh VTC10, Đài Truyền hình kỹ thuật số
VTC
Kênh VTC10 được thành lập từ ngày 15/3/2008, là kênh chuyên biệt về
văn hóa của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC. Đến cuối năm 2008, đầu năm
2009, kênh VTC10 được xây dựng và chuyển sang kênh truyền hình chun sâu
về 42 thơng tin đối ngoại, lấy văn hóa làm trụ cột để đưa thông tin đến với bà
con Việt kiều và bạn bè quốc tế. Kênh VTC10 là một kênh truyền hình đối
ngoại khá đặc biệt. Đây là kênh truyền hình đối ngoại đầu tiên được thực hiện
bằng phương thức liên kết sản xuất chương trình, và cũng là kênh truyền hình
đối ngoại do Nhà nước đặt hàng với thời lượng ban đầu là 3h/ngày; và đến
1/8/2011, thời lượng Nhà nước đặt hàng trên kênh tăng lên 4h/ngày. Hiện nay,
theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, kênh VTC10 là kênh truyền hình đối
ngoại phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài, lấy văn hóa làm trụ cột để quảng
bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra nước ngồi.
Có thể nói, nội dung trên kênh truyền hình t VTC10 có nhiều nét đặc thù.

Hơn một nửa thời lượng phát sóng trên kênh VTC10 hiện nay do Nhà nước đặt
hàng, với các nội dung tương đối phong phú, trọng tâm lấy văn hóa làm trụ cột
để xây dựng chương trình. Với mục tiêu của kênh là nhằm hình thành trong tâm


thức người xem một ấn tượng tốt đẹp về Việt Nam, do đó, nội dung tổng thể của
kênh được xây dựng mang ý nghĩa, với những thông điệp lớn như: Việt Nam là
một đất nước tươi đẹp; Người dân Việt Nam thân thiện, chăm chỉ, u hịa bình;
Việt Nam là đất nước có bề dày văn hóa; Việt Nam là đất nước năng động có
nền kinh tế đang phát triển, nhiều tiềm năng.
Chủ đề về thiên nhiên: giới thiệu, quảng bá về hình ảnh đất nước Việt
Nam vơ cùng tươi đẹp, nhiều cảnh quan hùng vĩ với những nét đặc trưng của
từng vùng, miền…
Chủ đề về con người Việt Nam: giới thiệu về hình ảnh con người Việt 46
Nam ln năng động, sáng tạo, chăm chỉ trong lao động và giàu tính nhân văn,
nhân đạo.
Chủ đề về văn hóa Việt Nam: giới thiệu về đặc trưng văn hóa Việt Nam,
gồm cả văn hóa đương đại, hiện đại và văn hóa cổ truyền, đặc biệt, thơng qua
những tín ngưỡng thờ cúng, tín ngưỡng thờ đạo của các tơn giáo trên lãnh thổ
Việt Nam, khẳng định với thế giới rằng Việt Nam ln tơn trọng tâm linh, tín
ngưỡng, bất cứ tơn giáo nào cũng đều được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng…
Chủ đề về kinh tế: nhằm giới thiệu cho thế giới những nỗ lực cố gắng của
nhân dân Việt Nam trong việc phát triển và đổi mới nền kinh tế. Qua đó, khẳng
định với thế giới Việt Nam có một môi trường đầu tư tốt, tốc độ phát triển
nhanh; tiếp cận khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý hiện đại; định hướng phát
triển bền vững, thân thiện với mơi trường…
Hiện nay, các chương trình truyền hình đối ngoại trên kênh văn hóa Việt
VTC10 đã đến 14 nước và vùng lãnh thổ, được nhiều người Việt Nam ở nước
ngoài ghi nhận...Hiện, dịch vụ đã phủ sóng tại Lào, Campuchia, Thái Lan, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc; Anh, Đức, Nga, Pháp, Úc, New Zealand, Mỹ và

Canada thông qua nhiều phương thức khác nhau: phát sóng qua vệ tinh, phát
qua cáp, phát qua truyền hình số mặt đất, truyền hình IPTV, truyền hình internet
và trao đổi chương trình với các nước bạn.
2.2. Ưu điểm và hạn chế của truyền hình Việt Nam hiện nay


2.2.1. Ưu điểm
Những năm gần đây, nội dung thông tin đối ngoại trên truyền hình đã
phong phú hơn, kịp thời hơn. Chất lượng nội dung cũng có nhiều cải tiến, theo
hướng chuyên biệt, hướng tới phục vụ từng nhóm đối tượng cụ thể của thông tin
đối ngoại. Nội dung thông tin đang dần theo hướng phục vụ nhu cầu, thị hiếu
của người xem. Và truyền hình đối ngoại đang từng bước xác định xây dựng nội
dung cho từng nhóm đối tượng ở các khu vực riêng biệt bởi ở mỗi nước, mỗi
khu vực có điều kiện kinh tế khác nhau, nền văn hóa, 55 phong tục tập quán
khác nhau do đó, thị hiếu người xem của mỗi nước, mỗi khu vực cũng có phần
khác nhau.
Hình thức thể hiện các chương trình truyền hình cũng hấp dẫn hơn,
chuyên nghiệp hơn. Qua khảo sát thực trạng của hai kênh truyền hình đối ngoại
tiêu biểu, dễ dàng thấy rằng, hình thức thể hiện các chương trình truyền hình
ngày càng được chú trọng hơn, theo hướng hiện đại, sinh động, các lơ gơ, hình
hiệu, demo chương trình, trailer…được thiết kế đẹp hơn, phong phú hơn, màu
sắc sinh động hơn. Tiết tấu nhạc hiệu, hình hiệu cũng nhanh hơn, sôi động hơn
nhằm gây sự chú ý của người xem.
Điều đáng ghi nhận là truyền hình đối ngoại bước đầu đã có bước đột phá
về hiệu quả truyền dẫn phát sóng. Lần đầu tiên, truyền hình nước ta đã phát
sóng các chương trình truyền hình ra nước ngồi thơng qua nhiều phương thức
khác nhau, bao gồm phát qua vệ tinh, qua cáp, qua hình thức IPTV (truyền hình
phát qua giao thức Internet), qua Internet..., đến được với nhiều bà con Việt kiều
và bạn bè nước ngoài ở các nước. Nhờ sự hợp tác với đối tác nước ngồi, sử
dụng phương tiện phát sóng chất lượng cao của các nước, các chương trình

truyền hình của ta dễ dàng tiếp cận với hàng trăm nghìn người Việt Nam ở Mỹ
và Canada thơng qua hệ thống truyền hình cáp.
Thêm vào đó, lực lượng, đội ngũ tham gia thực hiện nhiệm vụ thông tin
đối ngoại ngày càng tăng về số lượng và trưởng thành về mặt chất lượng. Một
số phóng viên, biên tập viên khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,


nghiệp vụ, năng lực ngoại ngữ, phẩm chất và bản lĩnh chính trị nhằm đáp ứng
tốt cơng việc trong tình hình mới. Các Đài truyền hình hiện nay cũng chú trọng
hơn, đầu tư hơn về nguồn lực và kinh phí, cơ sở hạ tầng để phục vụ công tác
thông tin đối ngoại. Do đó, cơng tác thơng tin đối ngoại trên truyền hình cũng
đạt được nhiều thuận lợi và bước đầu đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Những kết quả nói trên đã góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng của đất nước, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trên thế giới; từng bước làm thất bại những âm mưu phá hoại của các thế
lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới
lãnh thổ; tăng cường thu hút đầu tư nước ngồi, khuyến 57 khích kiều bào ta ở
nước ngồi gắn bó với q hương, đóng góp tích cực vào những thành tựu
chung của cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, các phương tiện truyền thông đối
ngoại của ta nói chung, truyền hình nói riêng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất
cập, do đó, tính hiệu quả của truyền hình đối ngoại cịn chưa cao, chưa đáp ứng
được nhu cầu đa dạng của các đối tượng:
Thứ nhất, so với truyền hình đối ngoại trong khu vực và trên thế giới,
truyền hình đối ngoại của ta cịn chưa được chú trọng. Thực tế, cả nước ta hiện
nay chưa hình thành kênh truyền hình đối ngoại đúng nghĩa để phục vụ bạn bè
quốc tế và bà con kiều bào. Các kênh truyền hình đối ngoại hiện nay gần như
chỉ tập trung vào đối tượng khán giả là người Việt Nam ở nước ngồi, do đó,
chưa tạo được hình ảnh Việt Nam riêng biệt, đặc thù trong mắt bạn bè quốc tế

thơng qua kênh truyền hình đối ngoại quốc gia.
Nhược điểm lớn nhất của các kênh truyền hình đối ngoại hiện nay là chưa
có cách tiếp cận phù hợp, phương thức và hình thức thơng tin cịn đơn điệu, sơ
lược, cứng nhắc, công thức, lượng thông tin tăng nhiều nhưng cịn dàn trải,
trùng lặp, thơng tin chưa phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của đối tượng tiếp nhận.
Nội dung thơng tin đối ngoại trên truyền hình chưa thật sự thuyết phục, thông


tin vẫn nghèo nàn, chưa kịp thời, sắc bén.
Nội dung thơng tin trên báo chí nói chung, truyền hình nói riêng cịn khá
cứng nhắc, nặng tính áp đặt, tun truyền. Một điều dễ nhận thấy là ta đang
tuyên truyền những thứ ta có, khơng thơng tin những nội dung cơng chúng đối
ngoại cần. Nhiều thông tin trùng lặp, thông tin khơng cập nhật. Thời lượng các
chương trình cịn khá dài, được phát đi nhiều lần trong ngày, do đó, tạo sự nhàm
chán đối với người xem.
Hơn nữa, ngôn ngữ thể hiện chưa đáp ứng được nhu cầu của người xem.
Hiện, chương trình truyền hình đối ngoại của ta chỉ mới phát bằng tiếng Việt,
phụ đề tiếng Anh hoặc một số chương trình tin tức, talk show phát trực tiếp
bằng tiếng Anh và phụ đề tiếng Việt. Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới, đặc
biệt một số địa bàn trọng điểm của thông tin đối ngoại không sử dụng thông
dụng tiếng Anh như Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc, Nhật bản…do đó, hiệu quả
tun truyền chưa cao.
Đối tượng thơng tin đối ngoại chưa được nghiên cứu, khảo sát, phân tích
một cách khách quan, khoa học làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung chương
trình nhằm tăng cường hiệu quả thơng tin. Vì vậy, các chương trình đối ngoại
hiện chủ yếu đang cung cấp cho đối tượng những gì ta có, chưa cung cấp những
nội dung mà công chúng đối ngoại cần.
Lực lượng cán bộ làm thơng tin đối ngoại cịn khá mỏng, dàn trải. Năng
lực chuyên môn, năng lực ngoại ngữ chưa đồng đều. Bản lĩnh chính trị của
phóng viên, biên tập viên chưa đáp ứng tiêu chuẩn của cán bộ làm cơng tác

thơng tin đối ngoại. Do đó, dẫn đến chất lượng chương trình truyền hình chưa
thật sự hấp dẫn, sắc bén, tính thuyết phục chưa cao. Hiện nay, nhiều phóng viên,
biên tập viên làm truyền hình đối ngoại chưa kinh qua lớp đào tạo, tập huấn cơ
bản về kiến thức thông tin đối ngoại, các lớp về kỹ năng biên tập, biên dịch viên
tiếng Anh cho truyền hình.
Ngân sách Nhà nước cho truyền hình đối ngoại đang được sử dụng dàn
trải và không hiệu quả. Một hạn chế là hiện nay, kinh phí đầu tư cho truyền hình


chưa tương xứng với nhiệm vụ thông tin đối ngoại. Trong khi, chế độ nhuận bút,
đơn giá định mức của Nhà nước quá thấp, ban hành từ lâu, không phù hợp với
thực tiễn. Mức thù lao chi trả cho biên dịch, biên tập ngoại ngữ không phù hợp,
nên dẫn đến tình trạng nhiều phóng viên, biên tập viên giỏi 60 ngoại ngữ sẵn
sàng lựa chọn một công việc khác, nghề nghiệp với mức lương cao hơn. Thực tế
này, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chương trình, và cuối cùng ảnh hưởng
đến hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN ƯU ĐIỂM VÀ
GIẢM THIỂU HẠN CHẾ CỦA TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
3.1. Nâng cao chất lượng nội dung, chất lượng nghệ thuật và tăng cường
phủ sóng ra nước ngồi
Hiện, kênh VTV4, nội dung chỉ tập trung ở một số mảng tin tức, văn hóa,
kinh tế, thương mại, du lịch, chưa tạo được điểm nhấn, bản sắc của kênh. Do đó,
trong thời gian tới, kênh VTV4 cần điều chỉnh lại khung chương trình, trong đó
lấy tin tức và chính luận làm trụ cột, chiếm 2/3 tổng thời lượng tự sản xuất của
kênh. Đến năm 2015, giảm thời lượng khai thác, biên tập lại từ các kênh truyền
hình của Đài THVN xuống cịn 1h – 2h/ngày, tăng thời lượng tự sản xuất lên 67h/ngày để tạo ra bản sắc cho kênh. Kênh VTC10 hiện thời lượng bản tin chiếm
½ thời lượng chương trình đặt hàng của Nhà nước, chiếm ¼ thời lượng phát
sóng trên kênh. Các chun mục về văn hóa vẫn cịn dàn trải, chưa thật sự có

điểm nhấn. Do đó, để nâng cao chất lượng nội dung chương trình, kênh VTC10
cũng cần phải bố cục lại khung kênh chương trình theo hướng 1/2 thời lượng là
tin tức, sự kiện trong ngày; 1/2 thời lượng là các chun đề, tạp chí, phóng sự
phản ánh đậm nét về văn hóa nước ta.
Nội dung tổng thể của kênh nên chỉ tạo ra một thông điệp lớn, không nên
mang ý nghĩa, thể hiện cả bốn thông điệp như mục tiêu của kênh hiện nay, cần
phải khu biệt lại một thông điệp lớn như: “Việt Nam là đất nước thân thiện, có
bề dày văn hóa”.
Việc đẩy mạnh các thơng tin trên truyền hình bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau sẽ đạt được hiệu quả cao trong công tác thông tin đối ngoại, trước hết, cần
phải thực hiện một kênh truyền hình đối ngoại bằng tiếng Anh thơng dụng, có
phụ đề thêm các thứ tiếng khác nhằm đưa thông tin của ta đến với nhiều đối
tượng của thông tin đối ngoại trên thế giới. Các chương trình truyền hình khi
phát lại theo các chương trình cũng cần có thêm phụ đề các thứ tiếng khác,
trước mắt là tiếng Lào và Hàn Quốc để phục vụ bà con Việt kiều và bạn bè quốc
tế ở nước sở tại.
Việc đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung trên truyền hình đối ngoại
là yêu cầu cấp thiết đối với kênh truyền hình đối ngoại quốc gia và các kênh
truyền hình đối ngoại chủ lực khác nhằm tạo ra bản sắc, vị thế của kênh truyền
hình đối ngoại nước ta. Để làm được điều đó, thiết nghĩ, cần phải có sự chuyển
mình, quyết tâm của đội ngũ làm truyền hình và đổi mới đồng bộ cả cơ chế,
chính sách đối với định mức làm truyền hình đối ngoại.
Tiền đề để thực hiện đổi mới nội dung, phục vụ trúng nhu cầu, thị hiếu


của công chúng đối ngoại là tiến hành nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu và tìm
hiểu nhu cầu xem truyền hình của cơng chúng đối ngoại. Từ đó, có những đề
xuất đổi mới về nội dung, nên rút ngắn các chương trình phóng sự dài, với thời
lượng 30 phút vì những chương trình đài thơng tin thường lặp lại, kém hấp dẫn,
khán giả nước ngoài và kiều bào ta cũng khơng có nhiều thời gian để tập trung

theo dõi hết chương trình.
Với việc thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với các đài truyền
hình đối ngoại quốc gia trong khu vực và trên thế giới sẽ giúp cho các đài
truyền hình đối ngoại của ta có thêm kỹ năng, kinh nghiệm trong việc sản xuất
các chương trình truyền hình chuyên nghiệp, hiện đại và triển khai việc đưa các
kênh truyền hình đối ngoại của ta phát sóng ở các nước. Quảng bá và giới thiệu
các kênh truyền hình đối ngoại của ta, đặc biệt là những kênh truyền hình đã có
mặt ở các nước trên thế giới như kênh VTV4, VTC10 nhằm giới thiệu kênh
truyền hình đối ngoại của Việt Nam, làm cho bà con Việt kiều và bạn bè quốc tế
biết đến và xem các kênh truyền hình của ta nhiều hơn, góp phần thúc đẩy hiệu
quả thơng tin đối ngoại.
Đổi mới nội dung là một yêu cầu cốt lõi của truyền hình đối ngoại nước
ta hiện nay để đáp ứng được nhu cầu của khán giả. Bên cạnh đó, việc tăng
cường phủ sóng ra nước ngồi, đặc biệt ưu tiên đưa các kênh truyền hình đối
ngoại của ta vào được hạ tầng truyền hình của các nước, nhất là vào được hạ
tầng truyền hình của các nước trọng điểm của thơng tin đối ngoại, những địa
bàn “nóng và nhạy cảm”, thông qua nhiều phương thức khác nhau, nhất là
truyền hình đa phương tiện – hiện đang là một xu thế phát triển ở các nước.
3.2. Tăng cường công tác tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ
cho các phóng viên, biên tập viên làm truyền hình đối ngoại
Ở các nước hiện nay, cơng tác tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho các
phóng viên, biên tập viên những kỹ năng nghiệp vụ báo chí hiện đại và kiến
thức về đối ngoại rất được chú trọng. Những năm qua, Bộ Thông tin và Truyền
thông; Hội nhà báo Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Thơng tấn xã Việt
Nam; Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho báo chí,
trong đó, Bộ Thơng tin và Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thụy điển tại
Việt Nam tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng làm báo hiện đại cho
cả bốn loại hình báo chí cũng đã đạt được một số hiệu quả nhất định. Điều này,
chúng ta có thể thấy rõ nét nhất ở trên báo in, một sự đổi mới, thay da đổi thịt từ
khổ báo, thiết kế, đến bố cục tin bài... đều rất mạch lạc, phù hợp với cách tiếp

cận và cách đọc báo của công chúng hiện đại.
Hầu hết đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm truyền hình đối ngoại hiện


nay vẫn chủ yếu làm công tác thông tin đối ngoại dựa trên hiểu biết và kinh
nghiệm của bản thân, đa phần chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng về báo
chí hiện đại và thơng tin đối ngoại. Do đó, việc thường xuyên mở các khóa đào
tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm truyền
hình đối ngoại, đặc biệt là trang bị thêm kiến thức về thơng tin đối ngoại, báo
chí hiện đại, ngoại ngữ là rất cần thiết. Việc bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn cho
đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm truyền hình đối ngoại cần phải được tiến
hành định kỳ, một năm ít nhất hai lần nhằm tăng cường kỹ năng và cung cấp
thông tin kịp thời, giúp các phóng viên, biên tập viên có thêm kỹ năng và kinh
nghiệm trong tác nghiệp, nhất là đối với những vấn đề nóng.
Chú trọng hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng con người làm truyền hình đối
ngoại với những phẩm chất nhạy bén về chính trị, bản lĩnh vững vàng, có trình
độ tác nghiệp chun nghiệp, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật ở các nước sở
tại nhằm nâng cao năng lực, nhận thức của đội ngũ phóng viên, biên tập viên
truyền hình đối ngoại, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới,
góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại
3.3. Giải pháp về tăng cường đầu tư vật chất, cơ sở hạ tầng cho các đài
truyền hình đối ngoại
Thực tế hiện nay, các kênh truyền hình thực hiện nhiệm vụ thông tin đối
ngoại doanh thu quảng cáo rất thấp, thậm chí hầu như khơng có. Để các kênh
truyền hình đối ngoại phát triển, đáp ứng được chất lượng về nội dung và truyền
dẫn phát sóng ở các nước, thì các kênh truyền hình đối ngoại của ta phải đảm
bảo về chất lượng nội dung, chất lượng kỹ thuật và tiêu chuẩn phát sóng ở các
nước, cần phải có sự đầu tư của Nhà nước về cơ sở hạ tầng, sản xuất nội dung
và truyền dẫn phát sóng. Vì kinh phí máy móc, trang thiết bị, trường quay,
truyền dẫn phát sóng ra nước ngồi vơ cùng tốn kém, thiết nghĩ kinh phí tự chủ

của các Đài Truyền hình khó có thể thực hiện tốt được nhiệm vụ.
Tuy nhiên, Nhà nước nên thực hiện theo cơ chế đặt hàng, có sự theo dõi,
kiểm tra, giám sát và nghiệm thu các chương trình truyền hình do Nhà 90 nước
đặt hàng nhằm thúc đẩy chất lượng các chương trình truyền hình và đảm bảo
tiết kiệm về mặt kinh phí.


KẾT LUẬN
Nhìn chung, những chương trình, chuyên mục do các cơ quan truyền hình
đã được đơng đảo cơng chúng đón nhận với thái độ tích cực. Hình ảnh Việt
Nam ổn định chính trị, tươi đẹp, thân thiện, mến khách đã được lưu giữ trong
tâm trí của người nước ngồi và người Việt Nam ở nước ngồi, thơng qua nhiều
kênh, trong đó có phần đóng góp của báo chí. Tuy nhiên bên cạnh đó, các kênh
truyền hình vẫn cịn những hạn chế, như nội dung còn đơn điệu, phương thức
chưa đa dạng, hấp dẫn; kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị tác nghiệp cịn
thiếu thốn, lạc hậu; có lúc chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
Trong thời gian tới, tồn cầu hóa với sự phát triển của cơng nghệ thơng
tin địi hỏi truyền hình phải tìm ra con đường phát triển phù hợp với thời đại
công nghệ số để duy trì và tăng cường hiệu quả hoạt động. Truyền hình đang
đứng trước thách thức, bởi số lượng cơng chúng ngày càng giảm, giới trẻ càng
ngày càng ít xem tivi, đọc báo, nghe đài, mà chủ yếu tiếp cận thông tin trên
mạng xã hội bằng điện thoại di động thơng minh. Vì vậy, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý và biên tập viên, phóng viên phải nâng cao nhận thức về sự cần
thiết, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới,
từ đó mới có quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền. Trước hết
phải đổi mới nội dung và cung cấp nội dung theo ngày càng thêm hấp dẫn, có
tính thời sự. Cảnh quan thiên nhiên đa dạng và phong phú, lịch sử dân tộc vẻ
vang mấy nghìn năm, văn hóa của dân tộc Việt Nam và cộng đồng 54 dân tộc
anh em có nhiều bản sắc độc đáo, con người Việt Nam thơng minh, cần cù, sáng
tạo, thích ứng nhanh chóng với điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế là nguồn tư liệu vô tận để các nhà báo đối ngoại khai thác làm chất
liệu cho nội dung tuyên truyền. Để đáp ứng nhu cầu của công chúng thời đại
công nghệ mới, các cơ quan báo chí phải đổi mới phương thức tuyên truyền, kết
hợp sử dụng tối đa lợi thế cho truyền hình.


×