Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

QUAN HỆ NGA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỶ XXI TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.84 KB, 37 trang )

MỤC LỤC


QUAN HỆ NGA - TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỶ XXI TIẾP CẬN DƯỚI
GĨC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả và các nhà chính trị
đã khẳng định rằng trung tâm quyền lực thế giới sẽ dịch chuyển về phía Đơng,
tức là lục địa Á – Âu và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tình hình thế giới
trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến quan trọng, cục diện chính trị thế giới
có những thay đổi to lớn, xu thế đa cực hóa trong quan hệ quốc tế đang dần
được hình thành. Đặc biệt quan hệ giữa các nước lớn lúc này có vai trò quyết
định trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Nga và Trung Quốc là hai nước
lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hai quốc
gia là láng giềng của nhau lại đều là những cường quốc trên thế giới có các tiềm
năng để bổ sung cho nhau, tạo cơ hội cho sự hợp tác. Nga là quốc gia rộng lớn,
có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng với trữ lượng khí đốt hàng đầu thế
giới. Trong khi đó, Trung Quốc được mệnh danh là “công xưởng” của thế giới
đang phát triển nhanh chóng và đã vươn lên vị trí thứ hai thế giới về quy mô
nền kinh tế. Để tiếp tục tăng trưởng, Trung Quốc rất cần nguồn cung cấp
nguyên, nhiên liệu từ bên ngoài, đặc biệt là từ Nga. Ngoài ra, Nga là quốc gia sở
hữu cơng nghệ quốc phịng hiện đại, là quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế
giới. Trung Quốc là quốc gia đang vươn lên mạnh mẽ, nhu cầu mua sắm vũ khí
nhằm tăng cường sức mạnh quân sự tương xứng với sức mạnh kinh tế là rất lớn.
Trung Quốc còn là bạn hàng truyền thống lâu đời của Nga. Đây chính là những
yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa hai bên, trên cơ sở đó thúc
đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ giữa hai nước đặc biệt nổi bật hơn khi tiếp cận
dưới góc độ lợi ích quốc gia.
Bước vào thế kỷ XXI, cả Nga và Trung Quốc đều đạt được những bước



tiến mạnh mẽ, vượt bậc về mọi mặt, quan hệ giữa hai quốc gia trong đó đặc biệt
là quan hệ về chính trị phát triển tương đối tốt đẹp, hai nước đã nâng mối tầm
quan hệ thành đối tác, hợp tác chiến lược. Việc hai nước tăng cường hợp tác sẽ
giúp đảm bảo hịa bình ổn định khu vực, phù hợp với mục tiêu phát triển, chính
sách ngoại giao, nguyện vọng và tiềm lực phát triển của mỗi nước đồng thời đáp
ứng được xu thế hợp tác cùng ứng phó với thách thức tồn cầu, phù hợp với lợi
ích phát triển của hai nước trong thời đại mới. Bên cạnh đó, trên cơ sở vị thế của
cả hai ngày càng được nâng cao Nga và Trung Quốc sẽ không ngừng củng cố và
tăng cường hơn nữa sự hợp tác lẫn nhau nhằm tăng cường ảnh hưởng của hai
nước trên trường quốc tế. Qua việc phân tích thực trạng quan hệ Nga – Trung,
giúp chúng ta thấy được tình hình, diễn biến, sự điều chỉnh và thay đổi trong
chính sách của hai nước đối với nhau. Cùng với đó đưa ra những dự đoán, nhận
định về triển vọng phát triển quan hệ chính trị Nga – Trung trong những năm
tiếp theo của thế kỷ XXI. Xuất phát từ những luận chứng trên em đã quyết định
chọn “QUAN HỆ NGA - TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỶ XXI TIẾP CẬN
DƯỚI GÓC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA” làm đề tài tiểu luận môn Quan hệ quốc
tế.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ thực trạng quan hệ Nga – Trung tiếp cận dưới góc độ lợi
ích quốc gia trong những năm đầu thế kỷ XXI, đưa ra dự báo về triển vọng phát
triển quan hệ Nga – Trung trong những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận cần phải triển khai và
thực hiện các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ
Nga - Trung Quốc. Làm rõ thực trạng quan hệ Nga – Trung Quốc trong những
năm đầu thế kỷ XXI. Triển vọng phát triển của quan hệ Nga – Trung Quốc
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



3.1. Đối tượng tượng nghiên cứu
Quan hệ Nga - Trung Quốc đầu thế kỷ XXI tiếp cận dưới góc độ lợi ích
quốc gia.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận chỉ tập trung làm rõ quan hệ Nga – Trung thời gian nghiên cứu:
phần thực trạng từ năm 2000 đến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng các phương pháp nghiên cứu
quan hệ quốc tế cơ bản để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu. Đồng thời, luận
văn cũng sử dụng phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phỏng vấn chuyên gia, phương pháp
thống kê… để giải quyết những vấn đề khoa học đặt ra.
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
3 chương, 17 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGA – TRUNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm và những tác động ảnh hưởng tới quan hệ Nga Trung Quốc
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Quan hệ quốc tế
Quan hệ quốc tế là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người. Trong xã
hội nguyên thủy chưa có nhà nước do đó cũng khơng tồn tại quan hệ quốc tế.
Khi có nhà nước, giai cấp thống trị thông qua chức năng đối nội và đối ngoại
của nhà nước để củng cố, mở rộng sự thống trị của mình, chức năng đối ngoại
của nhà nước là tiền đề hình thành quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế là một bộ

phận tạo thành của tiến trình lịch sử nhân loại, chịu sự chi phối của những biến
đổi của lịch sử. Từ khi xã hội loài người xuất hiện nhà nước đã có quan hệ quốc
tế: quan hệ quốc tế của xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản và quan hệ
quốc tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do sự phát triển khơng đều của
xã hội lồi người mà trong cùng một thời đại thường tồn tại nhiều loại chế độ
chính trị và quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế phát triển trong hồn cảnh nhất
định, có nhiều tầng nấc đan xen nhau.
Trên cơ sở đó chúng ta có thể rút ra được khái niệm quan hệ quốc tế như
sau: “Quan hệ quốc tế là tổng thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư
tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân sự giữa những quốc gia và hệ thống quốc gia
với nhau, giữa các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính
trị chủ yếu hoạt động trên trường quốc tế”.
Lợi ích quốc gia
Lợi ích quốc gia hay cịn gọi là lợi ích dân tộc cũng là một đặc tính của
quốc gia giống như chủ quyền quốc gia. Lợi ích quốc gia là một khái niệm gắn


liền với quốc gia có chủ quyền. Trên phương diện Quan hệ quốc tế, đó là những
lợi ích chủ yếu của quốc gia có quan hệ chủ quyền với bên ngồi. Theo khái
niệm này lợi ích quốc gia bao gồm những lợi ích chung chủ yếu của quốc gia.
Tuy nhiên chỉ những lợi ích trong quan hệ đối ngoại mới được gọi là lợi ích
quốc gia, khác với lợi ích đối nội chung thường được gọi là lợi ích cơng. Lợi ích
quốc gia thường được phản ánh trong mục đích và mục tiêu của chính sách đối
ngoại quốc gia.
Lợi ích quốc gia là khái niệm thuộc phạm trù quan hệ quốc tế. Thứ nhất
cũng giống như chủ quyền quốc gia lợi ích quốc gia chỉ nảy sinh trong tương
tác của các quốc gia khác, tức là trong điều kiện quan hệ quốc tế. Thứ hai lợi ích
quốc gia cịn nằm trong mọi công đoạn của quan hệ quốc tế. Lợi ích quốc gia
chính là sự cụ thể hóa động cơ tham gia quan hệ quốc tế của quốc gia, là sự
hướng dẫn hành vi của quốc gia trong quan hệ quốc tế và kết quả mong đợi của

sự tương tác giữa các quốc gia. Lợi ích quốc gia được thực thi sẽ tác động
ngược lại vào các yếu tố bên trong quốc gia trong khi lợi ích quốc gia khác lại
chính là yếu tố bên ngồi đối với quan hệ đối ngoại của quốc gia.
1.1.2. Tình hình trong nước của Nga - Trung Quốc trong những năm đầu
thế kỷ XXI
1.1.2.1. Tình hình nội bộ Nga
Sau khi Liên Xơ tan rã, hệ thống CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
sự giải thể của khối quân sự Vacsava và “Hội đồng tương trợ kinh tế” (SEV) đã
ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị, quân sự, đặc biệt ảnh hưởng nặng nề
đến công cuộc khôi phục nền kinh tế của Liên bang Nga (Nga). Sau năm 1991,
nền kinh tế Nga lâm khủng hoảng trầm trọng: sản xuất đình trệ, thiếu hụt
nghiêm trọng tư liệu sản xuất và các mặt hàng nhu yếu phẩm như lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng…nợ nước ngồi.
Bước sang thế kỷ XXI, mục tiêu khơi phục lại vị thế trên trường quốc tế
ngày càng được chú trọng. Ngay sau khi trở thành Tổng thống Nga, ngày
8/7/2000, V.Putin đã khẳng định trong Thông điệp liên bang rằng: “Nga cần một


hệ thống kinh tế có khả năng cạnh tranh, có hiệu quả, công bằng về xã hội.”
Nền kinh tế ổn định là sự đảm bảo chủ yếu cho xã hội dân chủ và là cơ sở
của mọi nền tảng cho nhà nước hưng thịnh và được kính trọng trên thế giới".
Trong suốt 8 năm liên tục (2000 - 2008), tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Nga
đạt mức trung bình là 6,4%. Cuối năm 2008 và đầu năm 2009, nền kinh tế bắt
đầu suy thoái sau 10 năm phát triển, cho đến khi nền kinh tế ổn định 8 trở lại
vào cuối 2009 - đầu 2010. Mặc dù bị suy thối nhưng nền kinh tế vẫn khơng bị
ảnh hưởng nặng bởi Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu so với các nước láng
giềng, một phần là do chính sách kinh tế thích hợp đã giúp nền kinh tế khơng bị
suy thối nặng. Thêm vào đó, trong q trình lãnh đạo, Tổng thống V.Putin đã
thi hành một loạt biện pháp nhằm ổn định tình hình Nga, cải cách hệ thống
chính trị ở Nga, bước đầu lập lại trật tự, kỷ cương, hạn chế bớt ảnh hưởng của

kinh tế ngầm, tội phạm, ly khai, củng cố quyền lực của chính quyền trung ương.
Về mặt đối ngoại, Nga thực hiện chiến lược với 2 mục tiêu cơ bản: Thứ
nhất, tạo các điều kiện bên ngồi thuận lợi để có hỗ trợ về mặt chính trị và vật
chất cho cuộc cải cách trong nước; Thứ hai, bảo đảm cho nước Nga giữ được vị
trí nhất định trên trường quốc tế, trước hết là ở các khu vực, lĩnh vực chiến lược
quan trọng nhất. Đương nhiên, chiến lược đối ngoại của Nga ln có những
điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của tình hình trong nước và cục diện
quốc tế, mối quan hệ của các nước lớn cũng như vị thế của Nga trên thế giới,
nhưng các phương hướng chung của chiến lược này khơng thay đổi. Đáng chú ý
là sau khi chính sách đối ngoại "định hướng Đại Tây Dương" với trọng tâm là
xây dựng quan hệ với các nước phương Tây của Nga không đạt được như mong
muốn. Từ năm 1994 Nga điều chỉnh chính sách đối ngoại từ "định hướng Đại
Tây Dương" sang "Định hướng Âu - Á", cân bằng các mối quan hệ với cả
phương Tây và phương Đông, nhằm tăng cường quan hệ với châu Á nhằm phát
huy được thế mạnh về hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hoá về sự tương đồng trong
phát triển, để giúp Nga khắc phục những khó khăn hiện tại, cân bằng quan hệ
Đông Tây, giúp Nga tạo lập được vị thế của mình, tạo mơi trường quốc tế ổn


định, phục vụ cho sự phát triển của Nga cả trước mắt cũng như lâu dài. Nội
dung chính sách "Định hướng Âu - Á" của Nga chú trọng xây dựng "vành đai
láng giềng thân thiện" dọc theo biên giới của nước Nga, trong đó Trung Quốc có
vị trí quan trọng nhất trong định hướng đối ngoại của Nga. Nga coi trọng quan
hệ với Trung Quốc do: Trung Quốc là nước láng giềng lớn nhất của Nga; Những
kinh nghiệm trong quá trình cải cách kinh tế của Trung Quốc rất quý giá đối với
Nga; Quan hệ với Trung Quốc để cân bằng quan hệ Trung - Mỹ, Nga – EU; Đẩy
mạnh quan hệ với Trung Quốc có thể kiềm chế được Mỹ - Nhật trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương và tham gia vào khu vực này...Để nâng cao địa vị
của mình, Nga đặc biệt chú ý tới việc nâng cao tiềm lực quân sự. Sức mạnh
quân sự của Nga được thể hiện qua quân số, vũ khí trang bị, ngân sách cũng như

các kế hoạch hiện đại hoá quân đội. Về sức mạnh hạt nhân, mặc dù Nga đã cắt
giảm thực lực hạt nhân chiến lược theo Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược
(START) giữa Nga và Mỹ, song với sức mạnh hạt nhân hiện có, Nga vẫn có thể
duy trì được sức mạnh "răn đe" cần thiết tới năm 2015 - 2020 trong trần cho
phép của START.
Từ sự phát triển kinh tế, ổn định về chính trị, đổi mới đường lối đối
ngoại, Nga đang trở lại vai trò của một cường quốc, một trung tâm quyền lực
quan trọng. Đồng thời, với vai trò là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc, Nga đã cùng các nước hướng tới một thế giới đa cực. Định
hướng về một thế giới đa cực được xác định rất rõ trong các văn bản chính sách
đối ngoại của nhà nước Nga cũng như trong các hoạt động cụ thể của Nga đã đi
ngược lại với định hướng đơn cực hoá thế giới của Mỹ.
1.1.2.2. Từ nội bộ Trung Quốc
Bước vào thế kỷ XXI, Trung Quốc đã đi qua một chặng đường cải cách
hơn 20 năm và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sự vươn lên nhanh chóng
của Trung Quốc đã khiến cho sức mạnh cứng cũng như sức mạnh mềm của
Trung 10 Quốc được tăng lên, đưa Trung Quốc trở thành một nước lớn trong số
"đa cường" của thế giới.


Trong hơn 20 năm, kinh tế Trung Quốc đã luôn duy trì tốc độ tăng trưởng
bình quân GDP ở mức cao, trung bình 9,8%/ năm (gấp 3 lần so với mức tăng
trưởng trung bình khoảng 3% của thế giới). Thực lực kinh tế của Trung Quốc
không ngừng được nâng cao, nếu năm 2001 tổng GDP của Trung Quốc đứng
thứ 6 thế giới thì đến năm 2007 Trung Quốc đã đứng thứ 3 thế giới và đến giữa
năm 2010 nền kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật Bản chiếm vị trí thứ 2 thế giới
(sau Mỹ).
Thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã thực hiện điều chỉnh chính
sách đối ngoại của mình, chuyển từ chính sách ngoại giao "độc lập hồ bình"
sang chính sách "ngoại giao nước lớn". Đại hội XV (1997), khi Trung Quốc

công khai tuyên bố là một "nước lớn có trách nhiệm trong xã hội quốc tế", thì
chính sách ngoại giao nước lớn đã được biến thành phương châm chính sách chỉ
đạo trong nghị quyết Đại hội về phần đối ngoại, để giúp Trung Quốc xác lập
chiến lược nước lớn có vai trị quốc tế. Từ 1997 đến nay, chiến lược ngoại giao
nước lớn ngày càng được Trung Quốc tiến hành toàn diện và triệt để nhằm tạo
mơi trường hồ bình cho phát triển kinh tế, xây dựng một Trung Quốc hùng
mạnh, thúc đẩy xu thế đa cực hóa thế giới. Cốt lõi của chính sách ngoại giao
nước lớn của Trung Quốc là lấy quan hệ với nước lớn chủ yếu làm chủ thể,
đồng thời kết hợp nhịp nhàng với việc phát triển quan hệ với các nước láng
giềng và các nước phát triển nhằm: phục vụ cho sự phát triển của Trung Quốc;
Phá bỏ chiến lược "ngăn chặn mang tính phịng ngừa" của các nước phương Tây
với Trung Quốc; Ngăn chặn các nước lớn ủng hộ chủ nghĩa ly khai ở Trung
Quốc, tạo điều kiện có lợi cho việc hồ bình, thống nhất của Trung Quốc; Nâng
cao địa vị và phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế, thúc đẩy
xu hướng đa cực hóa. Năm 1994, Trung Quốc cùng Nga thiết lập "quan hệ đối
tác xây dựng" và năm 1996 mối quan hệ này được nâng lên thành "quan hệ đối
tác chiến lược", 11 đến năm 2001, sau khi hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị, mối
quan hệ chiến lược mới đi vào thực chất.
1.1.3. Tình hình quan hệ Nga - Trung Quốc cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI


Về ngoại giao: Chuyến thăm Trung Quốc của B.Yeltsin vào tháng 4/1996
đã tạo bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của quan hệ Nga Trung. Tại cuộc gặp gỡ này, B. Yeltsin và Giang Trạch Dân đã ký một tuyên bố
chung, cam kết sẽ phát triển quan hệ hai nước lên một tầm cao mới: "Quan hệ
đối tác chiến lược" trên cơ sở bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau và hợp tác song
phương hướng tới thế kỷ XXI. Nội dung của tuyên bố chung năm 1996 tiếp tục
đưa ra những nguyên tắc cho "quan hệ đối tác chiến lược" hai nước như: duy trì
các cuộc đàm phán cấp cao thường xuyên hàng năm; thiết lập đường dây nóng
giữa Chính phủ Trung Quốc với Chính phủ Nga để đảm bảo đối thoại thường
xuyên giữa hai nước; hai bên sẽ tiếp tục đàm phán về các vấn đề biên giới; Nga

tái khẳng định Chính phủ Trung Quốc là Chính phủ hợp pháp duy nhất của
Trung Quốc, còn Đài Loan và Tây Tạng là một phần không thể xâm phạm của
Trung Quốc; đẩy mạnh và mở rộng các lĩnh vực hợp tác...
Tháng 11/1998, Nga trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đã tạo những điều kiện thuận lợi mới thúc
đẩy quan hệ Nga - Trung phát triển hơn nữa. Bên cạnh đó, những tác động từ
cuộc chiến tranh Kosovo; sự kiện không quân Mỹ ném bom trúng Đại sứ quán
Trung Quốc tại Nam Tư ngày 7/5/1999 cũng đã trở thành động lực thúc đẩy
Nga và Trung Quốc đẩy mạnh hơn nữa tiến trình xây dựng "quan hệ đối tác
chiến lược". Tháng 12/1999, các nghị định thư về vấn đề biên giới đã được hai
nước ký kết thực sự cải thiện quan hệ Nga – Trung do sức mạnh quân sự dọc
biên giới khơng cịn là mối quan tâm chính trị nữa.
Sự thay đổi Tổng thống của nước Nga từ B. Yeltsin sang Vladimir Putin
vào cuối tháng 12/1999 đã không hề ảnh hưởng tới mối quan hệ Nga - Trung và
những thành tựu trước đó. V.Putin đã tiếp tục vai trị Tổng thống với một cam
kết sẽ tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại của B. Yeltsin và tất nhiên sẽ tiếp
tục duy trì, 19 tăng cường các xu hướng ngoại giao đã được xây dựng trong suốt
những năm đầu đầy sóng gió của Nga.
Tuyên bố Bắc Kinh được ký kết ngày 18/7/2000 đã nhấn mạnh sự phát


triển của "quan hệ đối tác chiến lược" giữa Nga và Trung Quốc là rất cần thiết
và khẳng định sẽ tăng cường hợp tác toàn diện để thúc đẩy một thế giới đa cực.
Hai nước tuyên bố sẽ tăng cường hợp tác hơn nữa trên các lĩnh vực kinh tế thương mại, khoa học - công nghệ, kỹ thuật quân sự và dầu khí. Điểm đáng chú
ý hơn cả của Tuyên bố Bắc Kinh là Nga và Trung Quốc đã khẳng định về việc
chuẩn bị cho Hiệp ước Nga - Trung về quan hệ láng giềng thân thiện, hữu nghị
và hợp tác toàn diện sẽ được ký vào năm sau. Nội dung đàm phán và các văn
bản ký kết giữa Nga và Trung Quốc trong năm 2000 không chỉ chú trọng đến
việc thúc đẩy sự phát triển của quan hệ hai nước mà còn thể hiện phản ứng và
lập trường rõ ràng của mối quan hệ này trước những động thái của Mỹ đơn

phương rút khỏi "Hiệp ước về phòng thủ chống tên lửa". Qua đó, sức mạnh và
vai trị của mối quan hệ Nga - Trung trên trường quốc tế bắt đầu được khẳng
định.
Về hợp tác quốc phòng: Sau khi Liên Xô tan rã, Nga được kế thừa sức
mạnh về qn sự của Liên Xơ nên mặc dù có những khó khăn về kinh tế, chính
trị, nhưng Nga vẫn là một nước lớn về quân sự, nhất là vũ khí và trang thiết bị
quân sự hiện đại. Bên cạnh đó, khi Trung Quốc ngày càng phát triển thì nhu cầu
hiện đại hố quốc phịng lại càng cao, Trung Quốc rất cần nhập khẩu vũ khí và
kỹ thuật, thiết bị tiên tiến từ nước ngồi. Trong khi đó Mỹ và Tây Âu thực hiện
cấm vận vũ khí với Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Mơn. Vì thế hơn bao giờ
hết, Trung Quốc cần Nga và tất nhiên, việc đẩy mạnh hợp tác với Nga trên lĩnh
vực quân sự đã được phía Trung Quốc lựa chọn.
Ngay từ năm 1992, cùng với quá trình thiết lập quan hệ, các cuộc gặp cấp
cao hai nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng đã được diễn ra song song với
các cuộc gặp cấp cao hợp tác về chính trị. Tháng 2/1992, ngay sau khi Liên
bang Nga được thành lập, Thượng tướng Viktor Samsonov - Tham mưu trưởng
Lực 20 lượng liên quân khối các quốc gia độc lập đã thăm Trung Quốc. Đến
tháng 11/1992 Nga và Trung Quốc đã thoả thuận được hợp đồng quân sự trị giá
1,2 tỷ USD, trong đó có việc Nga chuyển giao cho Trung Quốc 26 máy bay


chiến đấu loại Su-27.
Phát triển quan hệ Nga - Trung trên lĩnh vực quân sự là nội dung chính
của chương trình nghị sự trong suốt chuyến viếng thăm của Tổng thống
B.Yeltsin vào tháng 12/1992. Hai nước đã ký vào bản ghi nhớ về các nguyên tắc
hợp tác về kỹ thuật quân sự, Nga sẽ tiếp tục giao cho Trung Quốc những vũ khí
để thay thế cho các vũ khí mà trước đây Liên Xơ đã cung cấp. Bên cạnh đó, hai
nước đã ký một loạt các thỏa thuận liên quan đến các chương trình đào tạo,
cung ứng các kỹ thuật viên, hướng dẫn viên quân sự của Nga tới Trung Quốc và
Trung Quốc gửi các binh sĩ quân đội Trung Quốc sang học tập tại các học viện

quân sự Nga. Nga cam kết sẽ tiếp tục cung cấp cho Trung Quốc các loại máy
bay chiến đấu loại Su-27 và hệ thống tên lửa phịng khơng S-300. Chất lượng
của hợp tác quân sự Nga - Trung trong giai đoạn này được hai nước coi là "một
công cụ" để đánh đổ lệnh cấm vận về quân sự do các nước phương Tây áp đặt
với Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn (6/1989), nên mọi hoạt động của
mối quan hệ này đều được giữ bí mật hồn tồn.
Năm 1995 đã diễn ra nhiều cuộc gặp lãnh đạo quân sự cấp cao hai nước,
qua đó hai bên đã ký một số Hiệp định quan trọng liên quan đến vấn đề hợp tác
quân sự và hợp đồng mua bán vũ khí, chuyển giao cơng nghệ quốc phòng cho
nhau. Cả hai bên khẳng định "Sự hợp tác kỹ thuật quân sự hai nước là việc đặt
lợi ích nhiều mặt lên trên lợi ích kinh tế trước mắt". Nội dung của các bản thoả
thuận trên tuy không được công bố, nhưng vào tháng 2/1996, Tổng Tư lệnh Lực
lượng không quân Nga (Petr Deinekin) tiết lộ Nga đã bán giấy phép sản xuất
loại máy bay Su-27 cho Trung Quốc. Trung Quốc đã được phép sản xuất 200
chiếc Su-27 trong thời gian 15 năm và không được xuất sang nước thứ ba.
Trong năm 1996, Trung Quốc đã thực hiện hợp đồng mua của Nga 50 máy bay
chiến đấu Su- 27SK và Su-27BK - là loại máy bay hiện đại nhất mà Nga 21 bán
cho Trung Quốc thời điểm này. Tiếp đó, tháng 12/1996, trong cuộc đàm phán
quân sự hai nước tại Bắc Kinh, Nga tiếp tục cam kết sẽ giúp đỡ Trung Quốc
trong việc hiện đại hoá lực lượng hải quân, đồng thời Nga ký hợp đồng bán cho


Trung Quốc 2 chiếc tàu chiến loại Sovremenny. Đặc biệt, Nga tuyên bố khả
năng sẽ bán cho Trung Quốc loại máy bay chiến đấu loại Su-30MKK. Trên cơ
sở đó, đến những năm 1998 - 1999 phạm vi chuyển giao công nghệ sản xuất vũ
khí cho Trung Quốc ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh việc Nga chính
thức bán cho Trung Quốc loại máy bay chiến đấu Su-30MKK (tháng 10/1998),
hai nước còn gia tăng hợp tác trong lĩnh vực tàu ngầm điện diesel và hạt nhân.
Năm 1999, Trung Quốc có thêm một hợp đồng mua của Nga 38 chiếc máy bay
Su-30MKK và 28 chiếc máy bay chiến đấu/huấn luyện Su-27UBK. Nếu từ năm

1991 đến năm 1996, mỗi năm Nga bán vũ khí cho Trung Quốc với giá trị là 1 tỷ
USD thì từ 1996 đến 2001 con số này tăng lên gấp đôi mỗi năm, và từ năm
1999 hai nước đã ký một hợp đồng vũ khí quân sự từ năm 2000 đến 2004 với
giá trị lên tới 20 tỷ USD.
Về hợp tác năng lượng: Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, năng lượng
có vị trí ngày càng quan trọng trong các buổi thảo luận song phương giữa lãnh
đạo hai nước Nga và Trung Quốc. Tháng 4/1996, Nga và Trung Quốc ký một
thỏa thuận liên chính phủ về hợp tác năng lượng. Việc thành lập Ủy ban song
phương về hợp tác năng lượng diễn ra sau đó vào tháng 12/1996. Tháng 6/1997,
Nga và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận về thăm dị khí đốt ở mỏ
Kovytkinskoe, Irkutsk, và xây dựng đường ống dẫn khí tới Trung Quốc. Tuy
nhiên, sau đó, hai nước khơng đạt được những bước tiến quan trọng trong việc
triển khai những sáng kiến năng lượng này và mãi đến tận tháng 11/1999, Ủy
ban năng lượng song phương cũng mới tổ chức được buổi họp đầu tiên và như
vậy, các cuộc đàm phán Nga - Trung về vấn đề năng lượng trong suốt thập kỷ
90 không đạt được nhiều kết quả.
Như vậy, từ năm 1996 đến 2000 đã đánh dấu bước chuyển biến tích cực
trong tiến trình phát triển của quan hệ hai nước. Sự phát triển từ quan hệ đối tác
mang tính xây dựng lên quan hệ đối tác chiến lược đã mở ra một trang mới, đưa
quan hệ Nga - Trung lên một tầm cao mới.



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ NGA – TRUNG QUỐC NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX DƯỚI GĨC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA
2.1. Mục tiêu, lợi ích của Nga, Trung Quốc trong quan hệ Nga – Trung
2.1.1. Mục tiêu, lợi ích của Nga trong quan hệ với Trung Quốc
Trong định hướng chính sách đối ngoại của Nga được Tổng thống V.Putin
thơng qua ngày 28/6/2000 đã nhấn mạnh điểm quan trọng của chính sách đối
ngoại Nga là tính cân bằng, nên địi hỏi Nga phải có sự kết hợp tối ưu các nỗ lực

trên tất cả các hướng, phải cân bằng quan hệ với cả châu Á và châu Âu, trong
đó, một trong những hướng đối ngoại quan trọng nhất của Nga ở châu Á là phát
triển quan hệ hữu nghị với các quốc gia hàng đầu châu Á, trước hết là Trung
Quốc.
Trong định hướng chính sách đối ngoại năm 2008, Nga tiếp tục khẳng
định "Nga sẽ gia tăng quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung trong tất cả các
lĩnh vực trên cơ sở trùng hợp những quan điểm mang tính nguyên tắc về các vấn
đề chính trị thế giới then chốt là một trong những bộ phận cấu thành cơ bản của
ổn định khu vực và toàn cầu".
Đến năm 2012, Nga vẫn khẳng định ưu tiên hàng đầu của Nga để phát
triển trong tương lai sẽ vẫn là ở phía Đơng thơng qua tun bố của Tổng thống
V.Putin rằng “trong thế kỷ 21, hướng phát triển của Nga là phía Đơng. Siberia
và vùng Viễn Đơng là tiềm năng to lớn của Nga, đây là cơ hội để có được một
vị trí thích đáng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”. Ở châu Á - Thái Bình
Dương, Nga luôn đặt phát triển quan hệ với Trung Quốc ở vị trí "ưu tiên tuyệt
đối", bởi quan hệ đối tác chặt chẽ với Trung Quốc sẽ giúp Nga có thể đạt được
các mục tiêu đối ngoại như: Tạo dựng một mơi trường hịa bình, ổn định, an
ninh, thuận lợi cho phát triển kinh tế; làm tăng sự hiện diện và ảnh hưởng của
Nga ở khu vực, nâng cao vị thế có lợi cho Nga trong quan hệ với các nước lớn;
tạo sức mạnh đối trọng với Mỹ, thúc đẩy xu hướng đa cực hóa thế giới.
Những cơ sở mà Nga nhận thấy cần phát triển quan hệ đối tác chiến lược


với Trung Quốc là: Thứ nhất, Nga nhìn nhận và đánh giá Trung Quốc hiện nay
là nền kinh tế đang lên, có uy tín chính trị và tiếng nói trong đời sống quan hệ
quốc tế. Thứ hai, Trung Quốc nằm ở phía Đơng của Nga và là nước láng giềng
lớn nhất của Nga, Nga muốn có mơi trường an ninh ổn định và phát triển thì
nhất thiết phải có quan hệ tốt với Trung Quốc. Thứ ba, Nga và Trung Quốc đều
là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, Nga có lợi ích và lập
trường gần gũi, tương đồng với Trung Quốc về các vấn đề quốc tế. Trên hết là

vấn đề chống bá quyền và chủ nghĩa đơn cực của Mỹ.
2.1.2. Mục tiêu và lợi ích chiến lược của Trung Quốc trong quan hệ với Nga
Trong số các nước lớn, có thể nói quan hệ với Nga ln được Trung Quốc
đặt ở một vị trí đặc biệt, bởi Nga vừa là một nước lớn, vừa là láng giềng của
Trung Quốc, Nga và Trung Quốc có nền tảng quan hệ từ trong lịch sử. Đầu thập
niên 90, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Nga có chủ trương: “Dù
Liên Xơ thay đổi thế nào, chúng ta vẫn dựa trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống
hịa bình, bình tĩnh phát triển quan hệ với Liên Xơ, kể cả quan hệ chính trị,
khơng tranh luận về hình thái ý thức”. Chủ trương này dựa trên nguyên tắc mà
Trung Quốc đưa ra làm cơ sở là: “nước lớn là then chốt, các nước xung quanh là
hành đầu, các nước đang phát triển là cơ sở, đa phương là vũ đài”. Hướng tới
thế kỷ XXI, đối với Nga, Trung Quốc áp dụng chính sách “đối tác hợp tác chiến
lược bình đẳng, tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ XXI”, phương châm “không
liên minh, không đối kháng, không chĩa mũi nhọn vào nước thứ 3”, thực hiện
chính sách “láng giềng hữu nghị” và chính sách “cân bằng nước lớn”.
Có thể nói ngắn gọn lợi ích của Trung Quốc đối với Nga như sau: Thứ
nhất, Trung Quốc thi hành chính sách láng giềng hịa bình và ổn định với Nga
nhằm củng cố thực lực trong nước cũng như nâng cao vị thế của Trung Quốc
trên trường quốc tế. Trung Quốc có lợi ích trong việc đảm bảo an ninh ở khu
vực biên giới phía Bắc, tạo mơi trường hịa bình, ổn định cho cơng cuộc cải
cách 29 mở cửa. Thứ hai: Trung Quốc sẽ có được nguồn cung cấp nguyên,
nhiên liệu phong phú từ các vùng Viễn Đông và Siberia của Nga, cũng như


nguồn năng lượng dồi dào từ Nga; đồng thời Trung Quốc cũng có thể bán cho
Nga một lượng khá lớn hàng hóa chất lượng khơng cao nhưng đa dạng và giá rẻ.
Thứ ba, tăng cường quan hệ với Nga để cân bằng nước lớn tại khu vực, thúc đẩy
hợp tác với Nga trong các cơ chế đa phương. Thứ tư, thúc đẩy hợp tác với Nga
để chống bá quyền của Mỹ, đấu tranh cho một trật tự đa cực, trong đó Trung
Quốc là một cực. Chưa kể tới việc Trung Quốc sẽ gia tăng mua vũ khí của Nga,

trang thiết bị quân sự và công nghệ, đặc biệt trong ngành vũ trụ và sản xuất vũ
khí từ Nga nhằm đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc.
Như vậy, Nga đánh giá cao vai trò của Trung Quốc trong sự ổn định và
phát triển của mình, ngược lại, Trung Quốc cũng rất cần đến sự hợp tác của
Nga, đặc biệt trong các lĩnh vực năng lượng và quân sự. Nhu cầu hợp tác Nga Trung đã thực sự có từ hai phía, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cả
Nga và Trung Quốc. Nhất là từ khi bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với những
biến đổi mạnh mẽ của bối cảnh quốc tế, sự lớn mạnh khơng ngừng của Nga và
Trung Quốc, cịn Mỹ tăng cường kiềm chế các "mối đe dọa đến vị trí siêu
cường", thì nhu cầu hợp tác giữa Nga và Trung Quốc ngày càng được tăng
cường hơn.
2.2. Quan hệ Nga - Trung Quốc đầu thế kỷ XXI được tiếp cận dưới góc độ
lợi ích của quốc gia
2.2.1. Lợi ích chính trị, ngoại giao
Nấc thang ghi dấu ấn trong tiến trình phát triển của quan hệ Nga - Trung
là “Hiệp ước láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác” giữa Nga và Trung
Quốc được nguyên thủ hai quốc gia V. Putin và Giang Trạch Dân ký kết ngày
16/7/2001. Hiệp ước mang tính lịch sử này đã tập trung vào 4 lĩnh vực chính về
phương diện chiến lược: thứ nhất, xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan
hệ, bao gồm sự bình đẳng chính trị, lợi ích kinh tế chung, trách nhiệm an ninh
và các vấn đề thế giới. Trong số những nguyên tắc chung này, có hai tuyên bố
then chốt: khơng bên nào hướng các loại vũ khí hạt nhân chống lại bên kia và
tơn trọng chính sách một nước Trung Quốc. Thứ hai, về vấn đề biên giới, hai


nước xác định ổn định 4.300 km đường biên giới trên cơ sở tôn trọng theo luật
pháp quốc tế, qua đó, nhấn mạnh việc xây dựng sự tin cậy hơn nữa để tiếp tục
đàm phán phân định biên giới. Thứ ba, hai nước vạch ra những giới hạn cho
quan hệ hai nước trong tương lai, nhất trí việc khơng phát triển và chỉ đạo chính
sách ngoại giao và phịng thủ có thể gây nguy hiểm cho quyền lợi của bên thứ 3,
thống nhất sẽ không gia nhập liên minh hay có hành động có thể làm suy yếu

chủ quyền, an ninh hay toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác. Thứ tư, hai nước
nhấn mạnh rằng nếu một trong hai nước phải đối mặt với mối đe dọa xâm lược
thì hai nước này sẽ "ngay lập tức hội đàm với nhau để nhằm loại bỏ sự đe doạ".
Bản Hiệp ước đã nêu rõ các lĩnh vực hợp tác, nổi bật nhất là: củng cố đối
thoại ở tất cả các cấp; tôn trọng luật pháp quốc tế về sự ổn định, hồ bình; cùng
nhau bảo vệ sự cân bằng và ổn định tồn cầu; thúc đẩy ổn định khu vực; khuyến
khích hợp tác và trao đổi trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật quân sự, kinh tế,
chống khủng bố, chủ nghĩa cực đoan, ly khai và tội phạm xuyên quốc gia. Hiệp
ước láng giềng thân thiện và hợp tác Nga - Trung là bản hiệp ước đầu tiên giữa
hai cường quốc này kể từ sau Hiệp ước đồng minh Xô - Trung vào năm 1950.
Bản Hiệp ước này được xuất phát từ những động cơ của các vấn đề hệ trọng về
địa - chính trị, quân sự và kinh tế. Như vậy, năm 2001 được coi là một mốc son
quan trọng trong tiến trình phát triển của quan hệ Nga - Trung, nó khẳng định
quan hệ hai nước từ đây đã 32 mang một hình thức cũng như tính chất mới, chứ
không phải chỉ là mối quan hệ thông thường.
Việc kí Hiệp ước láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước ngay sau
khi Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) được thành lập đã báo hiệu sự thiết lập
một mối quan hệ chiến lược có thể ảnh hưởng tới tương lai của Âu - Á. Sau năm
2001, lãnh đạo nhà nước của Nga và Trung Quốc hàng năm đều thực hiện các
cuộc thăm viếng lẫn nhau nhằm tăng cường hợp tác song phương cũng như trao
đổi các vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Năm 2002, Tổng
thống Nga V.Putin sang thăm Trung Quốc để tăng cường hợp tác năng lượng thì
năm 2003, sau Đại hội Đảng thứ XVI, thế hệ lãnh đạo thứ 4 - Hồ Cẩm Đào - đã


chọn Nga làm điểm đến thăm nước ngoài đầu tiên trên cương vị Chủ tịch nước
của mình. Năm 2004 là năm Nga và Trung Quốc kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 1/2004, Bộ trưởng Ngoại giao hai
nước đã quyết định tuyên bố năm 2004 là năm "thanh niên hữu nghị" của Nga
và Trung Quốc. Để thúc đẩy "quan hệ đối tác chiến lược", trong Tuyên bố

chung năm 2004, Nga và Trung Quốc đã khẳng định "không phụ thuộc vào bất
cứ sự thay đổi khác nhau nào của tình hình thế giới, con đường củng cố quan hệ
đối tác và hợp tác chiến lược là hướng ưu tiên trước hết trong chính sách đối
ngoại của hai nước". Trên cơ sở đó, nguyên thủ quốc gia hai nước đã thông qua
"kế hoạch hành động về thực hiện hoá những nội dung về Hiệp định 2001 trong
giai đoạn từ 2005 đến 2008", thống nhất thực hiện các "năm quốc gia" trong
năm 2006 và 2007. Bên cạnh những cam kết tiếp tục đẩy mạnh các lĩnh vực hợp
tác, tuyên bố chung hai nước còn nhấn mạnh cam kết nâng cao hiệu quả của
việc chống khủng bố trong quan hệ song phương và trong SCO; cam kết đẩy
mạnh hơn nữa sự phối hợp giữa hai nước trong Liên Hợp Quốc và trong SCO
cũng như trong các tổ chức quốc tế khác, trong đó "sự phát triển của SCO là
hướng ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Nga và Trung Quốc, tổ
chức này là công cụ quan trọng được thiết lập ở đại lục Âu - Á vì hịa bình, an
ninh và hợp tác, là nhân tố cơ bản xây dựng trong tương 33 lai một trật tự thế
giới đa cực".
Đặc biệt, trong tuyên bố chung này, Nga và Trung Quốc nhấn mạnh quyết
tâm cùng nhau nỗ lực ngăn ngừa việc bố trí triển khai hệ thống vũ khí giết
người hàng loạt, ngăn chặn tồn diện thử nghiệm vũ khí hạt nhân và xố bỏ mối
đe dọa khủng bố hạt nhân, phối hợp có hiệu quả nhằm tìm kiếm giải pháp hồ
bình về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Song song với việc nâng cao
hợp tác song phương, hợp tác Nga - Trung trong các tổ chức đa phương cũng
ngày càng được đẩy mạnh. Vai trò của Nga và Trung Quốc trong SCO ngày
càng được nâng cao. Cũng trong tuyên bố chung 2004, hai nước nhấn mạnh
sáng kiến của SCO về việc từng bước hình thành ở khu vực châu Á - Thái Bình


Dương mạng lưới đối tác của những tổ chức nhiều bên và hướng tới thành lập
một hệ thống an ninh tập thể đầy đủ ở châu Á - Thái Bình Dương nhằm đảm
bảo an ninh và hợp tác khu vực nói riêng và tồn cầu nói chung. Trong cuộc
đàm phán cấp cao hai nước diễn ra vào tháng 7/2005, nguyên thủ quốc gia hai

nước đã khẳng định sự phát triển của mối quan hệ đối tác chiến lược Nga Trung khơng chỉ đáp ứng lợi ích căn bản của hai quốc gia mà cịn đảm bảo hồ
bình, ổn định và phát triển ở khu vực cũng như trên toàn cầu. Trên cơ sở đó,
Nga và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung về "Trật tự thế giới trong thế kỷ
XXI". Tuyên bố này một lần nữa nhấn mạnh quyết tâm của hai nước "nhanh
chóng thực hiện có hiệu lực Hiệp định cấm triệt để các vụ thử nghiệm hạt nhân,
tăng cường nỗ lực trong hợp tác toàn diện để nâng cao tính hiệu quả của những
thoả thuận về kiểm sốt vũ khí...". Từ đó, Nga và Trung Quốc khẳng định "sự
hình thành mối quan hệ kiểu mới giữa Trung Quốc và Nga là một đóng góp lớn
vào sự tạo lập một trật tự thế giới mới".
Đến năm 2007, quan hệ đối tác chiến lược Nga – Trung đã đạt được
những kết quả rất to lớn. Tính chất "đối tác bình đẳng, tin cậy và hợp tác chiến
lược" của mối quan hệ hai nước được xác định trong Hiệp ước năm 2001 đã trở
thành định hướng hành động và phát triển quan hệ hai nước. Điều đó được thể
hiện ở các mặt: vấn đề phân định đường biên giới về căn bản đã được hoàn tất;
lập trường của Nga và Trung Quốc trong nhận thức và giải quyết các vấn đề
quốc tế đã có những điểm chung căn bản, rõ nét nhất là trong việc định hướng
rõ về một thế giới đa cực. Ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc tới tổng thể quan
hệ quốc tế ngày càng rõ nét. Sự vận động có hiệu quả của quan hệ hợp tác Nga Trung trong giai đoạn này đã góp phần nâng cao vị thế của hai nước trên trường
quốc tế. Như vậy, thành công nhất trong hoạt động ngoại giao Nga – Trung giai
đoạn này là việc hai nước đã ký “Hiệp ước láng giềng thân thiện, hữu nghị và
hợp tác”, đây là nền tảng quan trọng trong tiến trình phát triển mối quan hệ Nga
– Trung, đưa mối quan hệ chiến lược này đi vào thực chất.
Năm 2008, sự thay đổi vị trí Tổng thống của nước Nga một lần nữa


không ảnh hưởng đến mối quan hệ Nga - Trung vốn đã được các nhà tiền nhiệm
vun đắp. Ngay sau khi nhậm chức ngày 7/5/2008, Tổng thống Nga Dmitry
Medvedev đã tuyên bố sẽ tiếp tục duy trì đường lối đối ngoại của Tổng thống V.
Putin, tiếp tục chính sách "hướng Đơng", thúc đẩy quan hệ với châu Á, trong đó
đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung vẫn là một trong những trọng

điểm trong định hướng đối ngoại của nước Nga. Chuyến thăm đối ngoại đầu
tiên của D.Medvedev sau khi nhậm chức Tổng thống là tới Trung Quốc (ngày
24/5/2008). Trong Tuyên bố chung năm 2008, Nga và Trung Quốc quan tâm và
tập trung định hướng nhiều hơn cho các vấn đề chiến lược như đẩy mạnh quan
hệ để thúc đẩy hợp tác toàn cầu về kinh tế, về bảo vệ mơi trường và xu thế đa
cực hóa thế giới, cũng như biện pháp đối mặt với những đe dọa, thách thức mới
như chống khủng bố, giám sát vũ khí hạt nhân, chống sử dụng vấn đề nhân
quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác ... Qua đó, có thể thấy
Nga và Trung Quốc đang đẩy mạnh q trình hiện thực hóa quan hệ đối tác
chiến lược của họ trên cấp độ toàn cầu. Tổng thống D. Medvedev khẳng định:
"Trung Quốc là một trong những đối tác chiến 35 lược quan trọng nhất của Nga
và quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung đã trở thành nhân tố chủ chốt trong
các vấn đề an ninh quốc tế".
Tháng 8/2008, khi Mỹ đã chính thức ký hiệp định sơ bộ về việc triển khai
trạm ra-đa, một phần trong Hệ thống Phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) trên
lãnh thổ Balan và Cộng hoà Séc; khi vấn đề khủng hoảng ở Gruzia đang ngày
càng trầm trọng, thì Nga và Trung Quốc càng cần thiết tăng cường quan hệ đa
chiều để khẳng định vai trị của mình trong khu vực và trên thế giới. Ngày
28/8/2008, tại Hội nghị Thượng đỉnh SCO, Tổng thống Nga Đ. Medvedev đề
nghị Tổ chức này ký tuyên bố chung, ủng hộ việc Nga công nhận nền độc lập
của hai quốc gia Nam Ossetia và Abkhazia. Hội nghị đã diễn ra vào đúng thời
điểm căng thẳng và giải quyết vấn đề đang vô cùng nhạy cảm khiến cho SCO
càng được khẳng định là một đối trọng của NATO.
Trong năm 2011 là năm kỷ niệm 10 năm hai nước ký Hiệp ước hữu nghị


2001, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc vẫn giữ được ổn định và có bước phát
triển mới. Đặc biệt chuyến thăm cấp nhà nước tới Nga trong tháng 6/2011, Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào tin tưởng rằng thập niên tới sẽ là “thời điểm quan trọng để hai
nước thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác song phương và làm sâu sắc thêm quan

hệ đối tác chiến lược giữa hai nước và tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng phát triển
quan hệ đối tác chiến lược tổng thể với Nga trong thập niên tới” .
Sau khi tái đắc cử chức vị Tổng thống, tháng 06/2012, Tổng thống Nga
V.Putin đã đến thăm Trung Quốc. Hai nước đã tuyên bố kết thúc kế hoạch hành
động Hiệp định hữu nghị giai đoạn 2009-2012. Trong tuyên bố 2012, hai nước
đã xác định cơ chế trao đổi thanh niên trong 5 năm kế tiếp, thực hiện kế hoạch
đưa 300 sinh viên Nga đang thực tập sinh tại Trung Quốc trong năm 2012. Tăng
cường hợp tác biên giới, khẳng định cần xây dựng lòng tin quân sự, giảm lực
lượng quân sự ở khu vực biên giới giữa hai nước, xây dựng các cơ sở hạ tầng
hợp tác trên khu vực biên giới, nhất là các cửa khẩu, phối hợp giải quyết vấn đề
di cư. Tăng cường hợp tác an ninh chống lại tội phạm xuyên biên giới, chủ
nghĩa khủng bố và buôn bán ma túy. Nga và Trung Quốc khẳng định hợp tác và
nâng 36 cao vai trò của SCO, tăng cường hợp tác trong các vấn đề quốc tế như
vấn đề Triều Tiên, sử dụng các biện pháp hịa bình trong vấn đề Syria, ngăn
chặn các lệnh trừng phạt và đối với Iran. Hai nước cũng đưa ra những mục tiêu
trao đổi thương mại cụ thể, như tăng trao đổi thương mại lên 150 tỷ USD vào
năm 2015 và 200 tỷ USD vào năm 2020, ngoài ra Nga khẳng định hai nước cần
đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc chuyển sang thanh toán thương mại song
phương bằng đồng tiền của hai nước.
Đặc biệt, Nga sẽ tăng cường "đối thoại" về năng lượng với Trung Quốc,
trước hết là hợp tác cung cấp khí đốt và sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục
đích hịa bình. Đáp lại chuyến đi của Tổng thống Nga, tháng 3/2013, Chủ tịch
Tập Cận Bình cũng thực hiện chuyến cơng nước ngồi đầu tiên của mình đến
Nga. Trong Tuyên bố chung Trung-Nga, nêu bật sự hợp tác chiến lược giữa hai
nước cũng như lập trường và chủ trương trong các vấn đề quốc tế quan trọng.


Hai bên còn phê duyệt đề cương thực thi “Hiệp ước Láng giềng hữu nghị và
hợp tác Trung Nga giai đoạn 2013-2016”. Tuyên bố chung khẳng định hai nước
Trung-Nga cần phải thực hiện sự phát triển cân bằng cả về lượng lẫn chất trong

hợp tác kinh tế giữa hai nước. Hai nước vẫn khẳng định hợp tác năng lượng
được đặt lên hàng đầu, chú ý đến bảo vệ môi trường, hợp tác an ninh phi truyền
thống. Hợp tác công nghệ cao, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực công nghệ vũ
trụ theo kế hoạch từ 2013-2017. Tăng cường hợp tác giữa các tỉnh biên giới hai
nước, đó là giữa vùng Viễn Đông và Siberia của Nga và Đông – Bắc Trung
Quốc. Tăng cường hợp tác trong các vấn đề quốc tế. Ngoài ra, hai nước khẳng
định hợp tác trong lĩnh vực ngoại giao nhân dân luôn được thúc đẩy, để khẳng
định điều này, trong các năm 2014, 2015, hai nước sẽ tổ chức "Năm Giao lưu
Thanh niên Trung-Nga" tại mỗi nước nhằm khuyến khích giao lưu giữa các
trường đại học hai nước, tăng thêm số lưu học sinh.. Đặc biệt, nhân sự kiện khai
mạc Thế vận hội Sochi 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Trung
Quốc dự lễ khai mạc ngày 07/02/2014, và theo như phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Tần Cương: “Đây là lần 37 đầu tiên một chủ tịch Trung Quốc
tham dự sự kiện thể thao quốc tế lớn như thế được tổ chức ở một nước khác".
Chuyến đi này thể hiện sự ủng hộ của Trung Quốc với việc Nga đăng cai Thế
vận hội và khẳng định sự phát triển của quan hệ ngoại giao Nga – Trung Quốc.
Như vậy, quan hệ Nga – Trung giai đoạn 2008-2013 đã có những bước
tiến bộ vượt bậc, đúng như Giáo sư Yakov Berger/Viện Viễn Đông của Nga đã
phát biểu trước chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Nga
tháng 3/2013 rằng: “Quan hệ Nga - Trung Quốc là mối quan hệ độc nhất và khó
có thể lặp lại trong các mối quan hệ của họ với những nước khác. Tôi không thể
tưởng tượng được rằng các mối quan hệ khác cũng đạt được mức độ tin tưởng
cao lẫn nhau như vậy”.
2.2.2. Lĩnh vực thương mại
Ngay trong cuộc gặp gỡ cấp cao hai nước tháng 7/2001, ngoài việc ký
kết các văn kiện quan trọng về việc thiết lập và phát triển mối quan hệ "Láng


giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác hướng tới thế kỷ XXI", hai nước còn nhấn
mạnh về mục tiêu hợp tác kinh tế. Tháng 9/2001, trong cuộc gặp gỡ định kỳ

giữa Thủ tướng Trung Quốc và Thủ tướng Nga, hai bên đã nhấn mạnh hợp tác
giữa các xí nghiệp vừa và lớn của hai nước và sự hợp tác trên lĩnh vực khoa học
kỹ thuật. Còn trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 8/2002 của Thủ tướng Nga
Caxianop, hai bên đã thoả thuận xây dựng nền tảng ổn định lâu dài, phát triển
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, đẩy mạnh trao đổi sản phẩm công
nghệ cao, máy móc điện tử; đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường ống dẫn dầu
Siberia - Đại Khánh; cho các ngân hàng thương mại 38 thanh toán các vụ giao
dịch bằng phương thức chuyển đổi trực tiếp đồng rúp và đồng nhân dân tệ…
Trong chuyến thăm Nga lần đầu tiên của Chủ Tịch Trung Quốc Hồ Cẩm
Đào (tháng 6/2003), vấn đề kinh tế - thương mại tiếp tục được coi là nội dung
chính trong hội đàm hai nước. Hai bên khẳng định cần đẩy mạnh hơn nữa việc
tăng cường hợp tác về khoa học công nghệ kỹ thuật cao, năng lượng, vận tải,
năng lượng hạt nhân, vũ trụ, hàng không vũ trụ, đầu tư, hợp tác biên giới…. Sau
cuộc đàm phán, Nga và Trung Quốc lập thêm 3 tiểu ban là hợp tác hàng không
vũ trụ, thông tin và công nghệ tin học. Hai bên xác định khai thác điểm tăng
trưởng mới, tiến hành hợp tác theo chiều sâu trong điều kiện nền kinh tế thị
trường là phương hướng cơ bản trong phát triển quan hệ kinh tế mậu dịch hai
nước.
Trong Tuyên bố chung tháng 10/2004, Nga và Trung Quốc tiếp tục nhấn
mạnh việc tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại bởi đây là yếu tố quan trọng
để củng cố và phát triển mối quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung. Cùng với
việc triển khai các kế hoạch hợp tác nhiều mặt trung và dài hạn, Nga và Trung
Quốc còn thống nhất thành lập Hiệp hội doanh nhân Trung Quốc và Nga để hiện
thực hóa các kế hoạch và thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại hai nước.
Trong Hội thảo đầu tư Nga - Trung lần thứ nhất năm 2004, Nga và Trung Quốc
đã ký 12 dự án với tổng trị giá 700 triệu USD. Đến Hội thảo đầu tư Nga - Trung
lần thứ hai năm 2005, hai nước tiếp tục đạt được những thỏa thuận về 7 dự án


đầu tư lớn và trung bình như hố chất, các ngành công nghiệp, lâm nghiệp, điện

tử, an ninh điện tử với tổng số vốn là 1,5 tỷ USD. Hội thảo đầu tư Nga - Trung
lần thứ 3 (năm 2006), hai nước đã ký 8 dự án hợp tác với số tiền đầu tư là 800
triệu USD.
Trên cơ sở hợp tác kinh tế hai nước khơng ngừng được đẩy mạnh, tính
đến cuối năm 2002 có 474 doanh nghiệp Trung Quốc được Bộ Ngoại thương
Nga phê chuẩn đầu tư tại Nga với số vốn đầu tư là 303 triệu USD. Nga có tổng
cộng 1.383 dự án đầu tư tại Trung Quốc với số vốn là 706 triệu USD. Lượng
đầu tư trực tiếp của Nga vào Trung Quốc và ngược lại từ năm 2005 đến năm
2008 cũng tăng trưởng đáng kể, nếu năm 2005 lượng đầu tư của Trung Quốc
vào Nga là 465 triệu USD thì đến năm 2008 con số này lên tới hơn 1,6 tỷ USD.
Trọng điểm ưu tiên trong đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Nga là
hợp tác năng lượng, chế biến gỗ, điện tử tiêu dùng, truyền thơng 40 và xây
dựng. Về phía Nga, nếu năm 2005 tổng lượng đầu tư trực tiếp của Nga vào
Trung Quốc là 541 triệu USD thì đến cuối năm 2007, con số này đạt 720 triệu
USD, hầu hết các dự án đầu tư của Nga vào Trung Quốc tập trung vào sản xuất,
luyện kim và giao thông.
Năm 2010, trong Tuyên bố chung hai bên khẳng định nền kinh tế hai
nước đang đứng trước những cơ hội phát triển mới, nên sự hợp tác song phương
sẽ góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của nền
kinh tế. Nhân dịp này, hai bên đã ký kết 19 hiệp định hợp tác và văn kiện nhằm
41 mở rộng cơ sở pháp lý của quan hệ đối tác chiến lược tồn diện, góp phần
phát triển hạ tầng cơ sở cho các mối quan hệ thiết thực. Các thỏa thuận hợp tác
mới về các lĩnh vực: công nghệ cao, khí đốt, thương mại, nơng nghiệp, tài
chính, văn hóa...; xúc tiến thành lập các Khu kinh tế tại vùng biên giới chung.
Ðáng chú ý là một hợp đồng về năng lượng, theo đó cơng ty Atomstroyexport
của Nga sẽ xây dựng thêm hai lò phản ứng hạt nhân tại Nhà máy điện hạt nhân
Ðiền Loan hiện đại nhất của Trung Quốc. Hai bên quyết định sẽ trao đổi thanh
toán thương mại bằng đồng rúp và nhân dân tệ, thay vì đồng USD như trước



×