Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

giao duc hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Trường Đại Học Hồng Đức Bộ Môn Tâm Lý Giáo Dục Thanh Hoá, Ngày 16 tháng 10 năm 2011 BÀI THẢO LUẬN NHÓM THÁNG LẦN 2 Tổ 1 - Lớp K32 CĐSP Toán – Tin DANH SÁCH NHÓM VÀ NHIỆM VỤ ĐƯỢC PHÂN CÔNG. stt 1 2 3 4 5 6. Họ và Tên LÊ THỊ HÀ A (106C650018) HOÀNG THỊ PHƯƠNG HẰNG PHẠM THU ĐÀN TRẦN THỊ HÀ NGÂN THỊ HUỆ PHẠM THỊ HƯƠNG. Nhiệm vụ được phân công XL Ghi chú Tại sao nói bản chất của quáA Nhóm trưởng trình giáo dục là tổ chức hợpAlí Thư kí cuộc sống, hoạt động và giaoA lưu cho thế hệ trẻ A A B. Tuy nhóm ít người nhưng đã khắc phục được khó khăn để hoần thành tốt bài thảo luận.. Nhóm Trưởng Lê Thị Hà A.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> ĐẶT VẤN ĐỀ : Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với cuộc cách mạng và khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, khoa học và công nghệ đã trở thành ”lực lượng sản xuất trực tiếp” trong đó tri thức và thông tin trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt có giá trị cao. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất. Thành quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của nước ta đã tạo nên một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức cơ bản vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiễn. Họ đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Theo nghị quyết đại hội Đảng lần X thì phương hướng phấn đấu của nền giáo dục nứơc ta trong giai đoạn mới là: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Theo phương hướng trên thì giáo dục và đào tạo ở các trường được coi là giai đoạn mở đầu của quá trình học tập liên tục. Giáo dục phải trở thành một hệ thống đa dạng, mềm dẻo. A. HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : I. Khái niệm quá trình giáo dục 1. Quá trình giáo dục là gì? 2. Cấu trúc của quá trình giáo dục. II. Đặc điểm của quá trình giáo dục. 1. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát từ yêu cầu của xã hội và diễn ra lâu dài. 2. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố. 3. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể. 4. Quá trình giáo dục thống nhất với quá rình dạy học. III. Bản chất của quá trình giáo dục: 1. Cơ sở hình thành bản chất của quá trình giáo dục. 2. Bản chất của quá trình giáo dục. 3. Phân tích bản chất của quá trình giáo dục.. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : I. Khái niệm quá trình giáo dục : 1. Quá trình giáo dục là gì? Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học đều hướng vào hình thành nhân cách và toàn diện theo mục tiêu giáo dục đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục là quá trình dưới tác dụng chủ đạo ( tính chất lãnh đạo, điều khiển của quá trình giáo duc tự giác, tích cực, tự lực nhằm hình thành thế giới quan khoa học cùng những phẩm chất quan trọng của nghiên cứu con người công dân , người lao động ). Quá trình giáo dục là quá trình có tính chất hai mặt, một mặt là sự tác động của nhà giáo dục tới người được giáo dục và mặt khác là sự.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> hưởng ứng của người được giáo dục với những tác động đó và sự tự giác hoàn thiện nghiên cứu của bản thân. Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học tức là dạy học nhất thiết phải mang tính giáo dục và giáo dục nhất thiết phải được tiến hành và phần lớn thông qua các môn học nhà truờng. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội là làm cho học sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi, thói quen hành động tương ứng, nó là một trong những kết quả, mục đích quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học có nhiệm vụ là truyền thụ cho học sinh tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, phát triển trí tuệ trên cơ sở đó hình thành cho họ những giá trị đạo đức phù hợp với đạo đức của xã hội. Như vậy quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ, giá trị, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mĩ… làm phát triển nhân cách của học sinh theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội. 2. Cấu trúc của quá trình giáo dục : Quá trình giáo dục là một hệ thống bao gồm trong nó các tành tố cấu trúc như : mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp giáo duc; nhà giáo dục; ngưới được giáo dục; kết quả giáo dục. Mỗi thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện chứng với nhau. a. Mục đích giáo dục: Là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp ứng được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đát nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động – kĩ thuật nghề…góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. b. Nhà giáo dục: Là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học sinh. Đồng thời nhà giáo dục lựa chọn nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức quá trình giáo dục học sinh. Ở các trường THCS là các thầy giáo, cô giáo, tập thể sư phạm, ở gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác. Trong đó vai trò của người giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở các mặt sau:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Định hướng sự phát triển nhân cách của học sinh theo mục đích giáo dục của Đảng, nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường. - Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học; hệ thống các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường. Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục đồng bộ, thống nhất của hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực lượng, tổ chức giáo dục khác. c. Học sinh: Với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác động có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động qua lại, thống nhất giữa chủ thể giáo dục và khách thể giáo dục. Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. d. Nội dung giáo dục: Là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi – thói quen trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. e. Phương pháp giáo dục: Là những cách thức, biện pháp hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dụcvà người được giáo dục để giúp cho người được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành thói quen, hành vi, thái độ nói riêng của học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của nhà trường. II. Đặc điểm của quá trình giáo dục: 1. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát từ yêu cầu của xã hội và diễn ra lâu dài. Quá trình giáo dục nhàm hình thành những phẩm chất, những nét tính cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài được xem xét ở các góc độ sau: - Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa. - Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm một mà có ngay được. Kết quả tác động giáo dục nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức mới, niềm tin… thường khó nhận thấy ngay và co khi kết quả đó bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó công tác giáo dục cần được tiến hành.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định lâu dài. Đồng thời cũng phát huy được tính tự giác, nỗ lực, tự giáo dục kéo dài. Việc sữa chữa, thay đổi những nếp nghĩ, thói quen cũ, lạc hậu thường diễn ra dai dẳng, trở đi trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc; khắc phục chúng rất khó khăn nhưng lâu dài. 2. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố: Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững cho người được giáo dục. Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên các yếu tố này có nhiều mức độ khác nhau, chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí là vô hiệu hoá kết quả của quá trình giáo dục. Do đó các nhà giáo dục cần phải phối hợp với nhau thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo dục. 3. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể: Quá trình giáo dục được thục hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp tục các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời phải chú ý đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới có hiệu quả. Tính cụ thể của quá trình giáo dục thể hiện ở những diểm sau: Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giả quyết các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục vói phẩm chất, năng lực của nguời được giáo dục. Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy hoặc dự đoán được những nguyên nhân của các biểu hiện của thái độ, hành vi, thói quen… từ đó mới có biện pháp tác động phù hợp. Quá trình giáo dục được diến ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. 4. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học: Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển người học để chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn. Giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, hành vi, đạo.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> đức, thói quen. Hai hoạt động này không tách biệt mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. III. Bản chất của quá trình giáo dục: 1. Cơ sở hình thành bản chất của quá trình giáo dục: Dựa vào quan điểm của học thuyết Mac về bản chất của con người “ bản chất con người không phải là cái gì chung chung trừu tượng của mỗi cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội “. Quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của chương trình. Quá trình xã hội hoá cá nhân là quá trình biến cá nhân thành một thành viên của xã hội. Do đó muốn xác định dược bản chất của quá trình giáo dục phải xuất phát từ cơ chế có tính xã hội của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội có kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, đó là quan hệ sư phạm - một thể loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ này luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng văn hoá….đây là cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó là sự thống nhất giữa sự tác động giáo dục của nhà giáo dục với sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của người được giáo dục trong quá trình giáo dục. 2. Bản chất của quá trình giáo dục: Quá trình giáo dục là một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển cá nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó thoã mãn được hai mặt vừa phù hợp với các yêu cầu của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm cho nó tồn tại và phát triển. Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng. 3. Phân tích bản chất của quá trình giáo dục và liên hệ thực tiễn: Quá trình giáo dục là quá trình làm cho người được giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó để rồi biết vận dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá – xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình… Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh tích luỹ được các kinh nghiệm xã hội tốt và có nhu cầu hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính trong quá trình.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp học sinh khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay. Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người – xã hội trong mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các lực lượng bản chất của xã hội của con người, được biểu hiện ở các quan hệ xã hội của họ. Triết học Macxit đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá. Do đó việc tiếp cận bản chất của quá trình giáo dục buộc chúng ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động và giao lưu của đối tượng giáo dục. Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử xã hội cụ thể. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc nhóm, tấng lớp xã hội theo các chuẩn mực, các yêu cầu của sự phát triển xã hội, làm cho cá nhân biết sống với các quan hệ xã hội. Bản chất của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp là qua trình mà dưới sự tổ chức lãnh đạo có mục đích các loại hình hoạt động phong phú, các mối quan hệ nhiều mặt của người được giáo ducj đối với người khác, với thế giớ xung quanh, các dạng giao lưu đa dạng giữa họ với nhau và giữa họ với người lớn tưổi khác, nhằm hình thành cho ngưòi được giáo dục quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen đối xử trong các quan hệ chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, lao động vệ sinh và các hành vi ứng xử khác thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội.Xã hội hoá là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học nđược định nghĩa là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con người và học hỏi các mẫu văn hoá của mình. Nói cách khác đó chính là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hoá vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên. Nó không phải là khái niệm xã hội hoá ma những năm gần đây ở Việt Nam thường được dùng để chỉ sự quan tâm cũng như đóng góp của toàn xã hội như xã hội hoá giáo duc, xã hội hoá y tế… Xã hội hoá là nền tảng quan trọng của loài người, không như các sinh vật khác, con người cần phải có hiểu biết xã hội để sống. Ngoài sự tồn tại có tính chất sinh học đơn thuần, kinh nghiệm xã hội tạo ra nhân cách của mổi con người. Hiểu theo nghĩa đơn giản, nhân cách chính là hệ thống tư duy, cảm xúc và hành vi có tổ chức trong đó con người suy nghĩ, nhận thức về thế giới, về bant thân mình cũng như phản ứng, hành động trong tương tác xã hội. Chỉ có thông qua sự hình thành và phát triển.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> của nhân cách loài người mới trở nên khác biệt với tất cả các loài động vật khác, chỉ có loài ngưòi mới tạo ra được văn hoá và mỗi con người, với tư cách là một thành viên của xã hội tiếp thu văn hoá và nhân cách của mình. Những trường hợp bị cách li hoàn toàn với đời sống xã hội cho thấy cá thể rơi vào hoàn cảnh đó hầu như chỉ tồn tại sinh học, hoàn toàn vô cảm và không có biểu hiện phẩm chất xã hội nào thường gặp ở con người. Đã từng có những tranh biện và bất đồng về tầm quan trọng tương đối của yếu tố sinh học, yếu tố xã hội trong sự phát triển của con người hay nói ngắn gọn là cái hình thành nên nhân cách, bản chất hay dưỡng dục. Xã hội hoá không chỉ quan trọng đối với đời sống cá nhân, nó giúp cho xã hội phát triển đựơc liên tục, có lịch sử, có hiện tại và có tương lai. Kinh nghiệm xã hội luôn tồn tại trong xã hội, mọi xã hội đều dạy cho các thành viên mới về nó và quá trình diễn ra liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác vượt qua đời sống của một cá nhân. Nhà trường là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã hội, tương tác với những thành viên không phải trong tập thể cơ bản là gia đình mình, được dạy dỗ nhiều điều khác với nền tảng trong gia đình. Nhà trường cung cấp cho thế hệ trẻ những kiến thức và kĩ năng từ thấp đến cao, từ đơn giản đén phức tạp mà có những thứ không phải các thành viên lớn lớn tuổi trong gia đình của chúng đã được hấp thụ. Tính đa dạng xã hội ở nhà trường thường tạo ra nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã hội đã hình thành trong quá trình xã hội hoá ở gia đình. Vì vậy quá trình giáo dục là quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển cá nhân trở thành các thành viên trong xã hội. Quá trình giáo dục có tác dụng tổ chức cho giới trẻ những hoạt động mang ý nghĩa giáo dục lành mạnh, tổ chức cho giới trẻ thấy được những giá trị của cuộc sống, giúp họ nhận thức cuộc sống ở những giá trị tốt đẹp mang tính nhân văn và loại bỏ những quan điểm, nhận thức chưa đúng, giải thích rõ cho họ những quan điểm đó. Từ đó dần hoàn thiện nhân cách cho họ, hướng giới trẻ vào cuọc sống lành mạnh, hợp lí, phù hợp với thời đại nhưng không đi quá giới hạn của các qui luật chung, các chuẩn mực xã hội nhằm tổ chức hợp lí cuộc sống cho thế hệ trẻ hiện nay. Quá trình giáo dục tác động đến việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích của xã hội. Vì vậy toàn bộ cuộc sống của con người là là một hệ thống liên tục các hoạt động và con nguời lớn lên cùng các hoạt động đó vì thế đưa con người vào các hoạt động thực tế phong phú và đa dạng là con đường giáo dục tốt. Con người có nhiều hoạt động như vui chơi, giao tiếp, lao động sản xuất, hoạt động xã hội… mỗi dạng hoạt động có những nét đặc thù và đều có tác dụng giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Vui chơi là hình thức hoạt động giải trí nhưng có ý nghĩa giáo dục to lớn. Vui chơi được thực hiện thông qua các trò chơi phù hợp với mọi lứ tuổi như thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ và trò trơi trí tuệ sáng tạo… Qua đó tính tích cực, sáng tạo, tinh thần đoàn kết tập thể, tính tổ chức kĩ luật được hình thành và sức khoẻ được tăng cường. Vì vậy trong nhà trường và cả ngoài xã hội cũng vậy cần tổ chức nhiều trò chơi và lôi cuốn nhiều học sinh, thanh thiếu niên tham gia đẻ giáo dục và phát triển. Lao động là hình thức đặc biệt của con người, lao động tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống. Có hai loại lao động là lao động trí óc và lao động chân tay, cả hai loại lao động trên đều rèn trí thông minh, làm bộc lộ và phát triển tiềm nang trí tuệ, hình thành các kĩ năng hoạt động sáng tạo. Hoạt động xã hội là hoạt động của cá nhân trong các mối quan hệ đa dạng của cộng đồng xã hội. Trong hoạt động xã hội sự giao tiếp của các cá nhân càng đa dạng, càng làm phát triển phong phú phẩm chất nhân cách hình thành kĩ năng giao tiếp ứng xử có văn hoa, cá tính được bộc lộ, văn hoá ứng xử được hình thành như vậy, tham gia các hoạt động xã hội sự hiểu biết về thế giới và cuộc sống được mở mang kinh nghiệm được tích luỹ, tính tích cực xã hội được hình thành thu hút được thế hệ trẻ vào các hoạt động phong phú và đa dạng đó chính là con đường tổ chức có hiệu quả. Tổ chức cho thế hệ trẻ sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan trọng, hình thức sinh hoạt tập thể hợp lí, có kế hoạch, có tổ chức và nề nếp tạo nên thói quen sống có văn hoá, hình thành ý chí và nghị lực của cá nhân đối với cuộc sống. Ở cấp độ xã hội thì mục đích giáo dục là cái đích chung của toàn bộ sự nghiệp giáo dục, xuất phát từ chiến lược phát triển xã hội và để phục vụ cho sự phát triển ấy mục đích giáo dục hướng tới phát triển tối đa năng lực của toàn cá nhân, giúp họ hoà nhập vào cuộc sống xã hội để đóng góp nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Mục đích giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhân lực của nền sản xuất hiện đại phải là người có tri thức, kĩ năng, lao động sáng tạo, giáo dục phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước biến giáo dục thầnh động lực thuc đẩy xã hội tiến bộ. Đối với thế hệ trẻ mục đích giáo dục làm hình thành cho họ những nhân cách toàn diện, là những người có văn hoá, tích cực, năng động, sáng tạo, có khả năng lao động và lao động có năng suất cao trong một nền công nghiệp tiên tiến, có ý chí vươn đến sự thành công, tiến bộ của bản thân và sự phồn vinh của đất nước. Mục đích giáo dục Việt Nam tạo nên nhân.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và thời đại tiến kịp với trào lưu chung của thế giới. Trong thời kì hội nhập quốc tế - toàn cầu hoá, quá trình văn hoá diễn ra với tốc độ rất nhanh. Giới tre vốn nhạy bén với cái mới, dễ dàng tiếp thu với những giá tri văn hoá, cách ứng xử mới. Tuy nhiên, sự tiếp thiếu chọn lọc nên không tránh khỏi những cách ứng xử cực đoan, tiêu cực. Vậy, người lớn, nhà trường cần phải làm gì để giúp trẻ tránh được những tác động tiêu cực trong giao lưu văn hoá? Việc tiếp nhận những trào lưu, cách ứng xử mới có ý nghĩa làm phong phú thêm đời sống của con ngưòi trong xã hội, nhất là giới trẻ, đồng thời kích thích sự năng động, thông minh sáng tạo của con người. bên cạnh những yếu tố tích cực, quá trình giao lưu văn hoá diễn ra với tốc độ nhanh và thiếu chọn lọc đem đến không ít hệ lụy. Thời kì hội nhập – toàn cầu hoá làm nảy sinh ở một bộ phận dân cư, nhất là giới trẻ tâm lí vọng ngoại dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Hiện nay trong giới trẻ đã có không ít những biểu hiện ứng xử cực đoan, phản cảm. Hiện nay ngành giáo dục đang thực hiện chủ trương giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên các nhà trường vẫn chưa quan tâm và có giải pháp giúp đỡ học sinh trong quá trình giao lưu văn hoá tổ chức đội thiếu niên, đoàn thanh niên trong nhà tường chưa trở thành nhà tư vấn tin cậy cho học sinh về các lĩnh vực trong cuộc sống trong khi đó nếu nhà trường, phụ huynh có những giải pháp cung cấp thông tin, hướng dẫn phù hợp thì sẽ giáo dục học sinh một cách hoàn thiện hơn. Để giáo dục học sinh trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá, nhà trường cần nhạy bén với thực tiễn, nắm bắt được những diễn biến mới nhất trong đời sống tinh thần, tâm lí, cách ứng xử của học sinh, từ đó có những biện pháp giáo dục phù hợp, mềm dẻo. Mỗi giáo viên cần thực hiên nguyên tắc đồng hành với học sinh, trở thành người bạn tin cậy để học sinh chia sẻ nhờ tư vấn. Giáo viên chủ động gợi mở, tư vấn trao đổi với học sinh những vấn đề của cuộc sống mà các em quan tâm.. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể.. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm:.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm:.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình GD có tính biện chứng cao vì: - Quá trình GD là quá trình biến đổi và phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tính cách... sao cho phù hợp với đối tượng GD là những.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> con người đang trưởng thành, đang phát triển trong những điều kiện xã hội cũng luôn luôn biến đổi. - Quá trình GD là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của người được GD. Trong quá trình này nhà GD cần phải nhận thấy bản chất tốt đẹp xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của người được GD mặc dù bản chất ấy, xu hướng ấy còn ở trạng thái mầm mống nhỏ bị che lấp bởi những hoạt động bên ngoài có vẻ trái ngược. - Kết luận sư phạm: + Trong quá trình GD nhà GD phải nhận thấy bản chất tốt đẹp và và xu hướng lạc quan trong sự phát triển nhân cách của con người được GD tranh định kiến bi quan, khắt khe, bảo thủ trong nhìn nhận và đánh giá họ. + Trong quá trình GD cần không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tính chất GD... sao cho phù hợp với sự phát triển của đối tượng GD trong từng giai đoạn cụ thể..

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×