Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tầm quan trọng của liên kết ngành, vùng trong ngành kinh tế du lịch, lữ hành .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.04 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, du lịch ngày càng trở thành một hiện
tượng kinh tế - xã hội phổ biến, khi đời sống người dân dần được cải thiện,
nhu cầu đi du lịch cũng tăng lên, nó trở thành tiêu chuẩn để đánh giá mức
sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Việt
Nam là một nước có điều kiện địa lý tự nhiên và tiềm năng du lịch đa dạng
và phong phú, hấp dẫn về vẻ đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hoá đa dạng và
truyền thống lịch sử lâu đời. Phong phú về di sản văn hoá, các làng nghề và
các lễ hội truyền thống gắn với các nhóm dân tộc của cả nước. Tất cả đều là
các yếu tố thuận lợi cho Việt Nam để phát triền ngành kinh tế du lịch. Hiện
nay, nền kinh tế nước ta đang có nhiều biến chuyển, tuy nhiên ngành nông
nghiệp vẫn được coi là ngành kinh tế chính, mặc dù ngành nông nghiệp có
kinh ngạch xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới song vẫn chưa mang lại thu
nhập cao cho người dân, bên cạnh đó là ngành công nghiệp lại cần đến
lượng vốn đầu tư khoa học kỹ thuật lớn, thời gian hòan vốn lâu thì ngành du
lịch - một ngành kinh doanh dịch vụ, được coi như là một ngành công
nghiệp không khói do lượng vốn cần đầu tư không quá nhiều và thời gian
thu lợi nhuận nhanh, đang dần trở thành một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của nước ta.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn
định với tốc độ trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thị phần du
lịch của Việt Nam trong khu vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm
2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công
lớn góp phần giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn
vào GDP.
Du lịch chính là chiếc cầu nối góp phần thúc đẩy nền kinh tế, là bộ
mặt của một đất nước, kinh tế muốn phát triển thì phải đẩy mạnh du lịch
phát triển và du lịch muốn phát triển mạnh thì các cấp lãnh đạo phải biết
quan tâm và cân nhắc các chính sách phải triển sao cho phù hợp với tình
hình kinh tế. Để có một sản phẩm du lịch hoàn hảo, hấp dẫn và thu hút được
khách du lịch là điều không hề đơn giản, bởi du lịch có mối quan hệ sâu sắc


với các ngành kinh tế phụ trợ khác như: Y tế, thương mại, tài chính, an ninh,
hải quan, giao thông vận tải, khách sạn… Muốn phát triển du lịch một cách
bền vững ta phải xem xét mối quan hệ giữa ngành du lịch với các ngành
kinh tế phụ trợ và phối hợp nhịp nhàng các ngành đó để đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do vậy, có thể nói rằng du lịch là một ngành kinh tế tổng
hợp, nó mang tính liên ngành, liên vùng và phức tạp.
1
PHẦN I: DU LỊCH LÀ NGÀNH KINH TẾ TỔNG HỢP,
CÓ TÍNH LIÊN NGÀNH, LIÊN VÙNG
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH
TẾ PHỤ TRỢ:
Thực tiễn phát triển du lịch của đất nước ta trong mấy năm gần đây
đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của du lịch trong
tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thu hút đông đảo các
thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động du lịch, đóng góp tích cực vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
Việt Nam luôn được quốc tế đánh giá là him du lịch hấp dẫn, thân
thiện và an tòan đối với du khách với những lợi thế cơ bản về ổn định chính
trị, con người thân thiện, mến khách và nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn đa
dạng từ biển đảo đến núi, hang động. Bằng chứng là Việt Nam đang xuất
hiện nhiều hơn trong các cuộc bình chọn về các danh lam thắng cảnh, các kỳ
quan trên thế giới như : Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng, đỉnh Phanxipăng…
Các điểm du lịch Việt Nam đang ngày càng tới gần hơn với khách du
lịch quốc tế thông qua các kênh thông tin, báo chí, do vậy việc chào đón
lượng khách du lịch ngày một lớn đến Việt Nam là một vấn đề khiến cho các
công ty du lịch, lữ hành, kinh doanh khách sạn lưu tâm. Làm sao để tăng
được lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày một đông? Làm thế nào để lôi
cuốn khách quay trở lại Việt Nam du lịch, giải trí và nghỉ dưỡng?
Để làm được điều đó, ta cần phải có các sản phẩm du lịch chất lượng
tốt, nội dung hấp dẫn, giá cả phù hợp với nhiều đối tượng khách du lịch. Một

sản phẩm du lịch được cấu thành bởi nhiều thành phần kinh tế, khi một tour
du lịch hòan chỉnh và đến tay khách hàng tức là nó đã có sự tham gia của các
ngành vận tải chuyên chở hành khách, ngành khách sạn, ngành kinh doanh
ẩm thực, bán đồ lưu niệm, an ninh...
Tuy nhiên nhắc tới du lịch, ta không phải chỉ nhắc tới những chuyến
đi du lịch hấp dẫn mà còn nhắc tới những địa danh du lịch, các tài nguyên du
lịch, nơi vui chơi giải trí… hay nói cách khác chính là nhắc tới vấn đề tu bổ,
xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các khu du lịch, do vậy ngành du lịch
cũng cần có sự tham gia, liên kết, đóng góp vốn đầu tư của các ngân hàng tín
dụng, các cơ quan đòan thể, công ty, doanh nghiệp. Bộ kế hoạch đầu tư cũng
cần phải đưa ra các phương hướng, kế hoạch, chính sách vào các công trình
tôn tạo, bảo tồn, xây dựng các khu du lịch và các khu vực có tiềm năng du
lịch.
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển, có các cửa khẩu quốc tế và nhiều
điểm tham quan du lịch nổi tiếng, đây cũng là vùng có địa hình độc đáo, kỳ
vĩ với hơn 2.000 đảo nằm trải dài trên phạm vi 250km bờ biển, chiếm 2/3 số
2
đảo của cả nước, đặc biệt là vùng vịnh Hạ Long và Bái Tử Long đã được
UNESCO hai lần công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Với mục tiêu đưa
Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch lớn, hiện đại trong nước và khu vực,
những năm gần đây, cùng với các nguồn vốn của Tỉnh và nguồn vốn tự có
của các doanh nghiệp, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng đầu tư vốn,
từng bước làm thay đổi diện mạo cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ
tạo điều kiện thuận lợi mở ra triển vọng phát triển to lớn cho ngành công
nghiệp “không khói” của Quảng Ninh.
Vốn tín dụng đã tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng như khu Biệt thự
Tuần Châu; khu du lịch Bãi Dài và các khu trung tâm thương mại tại khu
vực Bãi Cháy, cửa khẩu Móng Cái; xây mới, nâng cấp lắp đặt các thiết bị
cho các khách sạn, nhà nghỉ và đóng mới tàu du lịch... đồng thời đầu tư hỗ
trợ cho các dự án lớn, đối tượng chủ yếu các chủ đầu tư tại địa phương hoặc

các cá nhân vay vốn để nâng cấp khách sạn nhà nghỉ, hoặc đóng tàu chở
khách du lịch. Các dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia như cáp treo Yên Tử;
khu du lịch Tuần Châu; Hoàng Gia và các khách sạn đầu tư xây dựng mới
mang tầm cỡ quốc tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy, tỷ trọng vốn tín dụng đầu
tư cho ngành du lịch còn rất thấp, tăng trưởng không đều mấy năm gần đây
chiếm bình quân trên dưới 16 %/tổng dư nợ.
Nhắc tới kinh doanh du lịch, ta không thể không nhắc tới việc kinh
doanh khách sạn, nhà hàng. Đây là nơi đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn
uống, vui chơi, giải trí, bán hàng cho khách du lịch. Chất lượng tour tốt hay
không tốt là do các dịch vụ trong kinh doanh khách sạn, nhà hàng quyết
định. Các nhà hàng cần phải đảm bảo vệ sinh thực phẩm và nâng cao chất
lượng món ăn thêm ngon, hấp dẫn, đặc biệt là các món đặc sản của các địa
phương, các vùng miền, nhằm quảng bá ẩm thực Việt Nam tới du khách.
Trong vài năm trở lại đây, kinh doanh khách sạn ở Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh đã gặt hái được những “ quả ngọt” với công suất cao do lượng
khách quốc tế và lượng khách nội địa ngày càng tăng. Theo ông Thân Hải
3
Thanh, về lâu dài, cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đều cần phải xây thêm
khách sạn thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của khách du
lịch. Việc Việt Nam gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến kinh doanh
khách sạn ở hai thành phố lớn trên hai mặt: Thứ nhất, đối tượng khách đến
tìm hiểu cơ hỏi kinh doanh và đầu tư sẽ tăng lên; thứ hai, các hãng lữ hành
quốc tế hoạt động chuyên nghiệp sẽ vào theo lộ trình mở cửa, từ đó, họ sẽ
mang thêm nhiều khách du lịch vào Việt Nam.
Cơ hội vẫn còn mở rộng đối với việc đầu tư xây mới khách sạn cao
cấp ở TP. Hồ Chí Minh vì đa số các khách sạn trên địa bàn hiện nay rất nhỏ,
không đáp ứng được nhu cầu của khách đoàn. Trong khi đó, khách du lịch
quốc tế đều muốn đặt phòng đạt tiêu chuẩn từ 4-5 sao. Tuy nhiên, không
phải khách du lịch nào cũng đủ tiền ở khách sạn 5 sao, vì thế cần xây dựng
thêm nhiều khách sạn 4 sao.


Dự kiến tới năm 2010, Hà Nội sẽ đón khoảng 2triệu lượt khách du
lịch quốc tế và khi đó cần khoảng 7.000 phòng tiêu chuẩn 4-5 sao. Thế
nhưng các dự án mới được cấp phéo và chấp thuận đầu tư gần đây, đến năm
2010, Hà Nội mới có khoảng 2.000 phòng khách sạn cao cấp. Hiện nay, với
nhiều chính sách ưu đãi đầu tư, Hà Nội đang đón nhận nhiều dự án xây dựng
khách sạn cao cấp với quy mô khá lớn. Chẳng hạn như Tập đoàn Accor
(Pháp) vừa chính thức khởi công khách sạn thứ 5 của mình tại Hà Nội là
Novotel Hanoi on the Park, nơi được xem là “ khu resort trong lòng thành
phố” và là điểm tổ chức hội nghị hàng đầu tại Hà Nội. Hay hàng loạt dự án
4
lớn tập trung chủ yếu quanh khu Trung tâm Hội nghị Quốc gia, trên đường
Phạm Hùng, Mỹ Đình của các nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản. Do vậy, việc
này được dự đoán rằng sẽ thu hút khách du lịch tới Hà Nội trong các năm
tới.
Hiện nay, trong tìn hình nền kinh tế đang gặp khủng hoảng, lạm phát
cao, nhiều người dân quyết định cắt bỏ chi tiêu cho đi du lịch. Do vậy, thực
hiện chương trình hành động của ngành du lịch nhằm tăng cường thu hút
khách quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa, sáng ngày 7/2/2009, tại TP.HCM
đã diễn ra hội nghị “ Thực trạng kinh doanh khách sạn và các giải pháp cấp
bách nhằm tăng cường thu hút khách”. Giải pháp cấp bách mà Vụ Khách sạn
đưa ra là: giảm giá phòng để thu hút khách, vấn đề này các cơ sở lưu trú du
lịch cần tham khảo kinh nghiệm và mặt bằng giá phòng của các nước lân cận
để xây dựng giá phòng, giá dịch vụ hợp lý so với các nước trong khu vực và
đảm bảo giữ được chất lượng tương xứng với thứ hạng được công nhận.
Việc giảm giá một cách linh hoạt trong tình hình hiện nay nhằm kích cầu du
lịch cũng là biện pháp cần thiết để thúc đẩy ngành Du lịch thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng. Bên cạnh đó, tiếp tục các chiến dịch khuyến mãi nhằm
thu hút khách đến lưu trú tại cở sở, trong đó có ưu đãi đối với khách đi theo
tour. Đặc biệt cần đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá trong và ngòai nước, cần chú

trọng tới thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng của bản thân cơ sở
lưu trú.
Ngành giao thông vận tải, lưu chuyển khách cũng đóng vai trò quan
trọng trong phát triển ngành kinh tế du lịch, bởi nếu các công ty lữ hành
càng đảm bảo an toàn cho du khách, rút ngắn thời gian đi lại, tăng các điểm
đến du lịch bấy nhiêu thì càng có khả năng hấp dẫn người dân đi du lịch bấy
nhiêu. Để kích cầu du lịch, các hãng du lịch cũng đã “ gõ cửa” ngành đường
sắt hình thành nên các tuyến du lịch bằng các toa tàu chất lượng cao trên
tuyến Hà Nội – Sa Pa và TP. HCM – Nha Trang, Bình Thuận. Bên cạnh đó
là các hãng hàng không bắt tay với du lịch để tạo ra những sản phẩm du lịch
mới, giá tour giảm, chất lượng dịch vụ tăng hơn. Ví dụ như cả hai hãng
hàng không Vietnam Airlines và Pacific Airline đều kết hợp với các công ty
du lịch mở thêm những tour du lịch mới độc đáo, giá lại giảm so với trước.
Vấn đề an toàn cho khách tham quan không chỉ do các công ty vận tải
khách mà còn do cả các công ty bảo hiểm, y tế, an ninh chịu trách nhiệm.
Một địa điểm du lịch tốt quan trọng nhất phải đảm bảo tình hình chính trị ổn
định, an ninh tốt, không có các dịch bệnh hay đại dịch nguy hiểm. Do vậy
các cơ quan y tế cần phải đảm bảo vệ sinh môi trường, đặc biệt là vệ sinh
thực phẩm, nếu có dịch bệnh cần khoanh vùng, không để lây lan bệnh sang
các vùng khác nhằm ảnh hưởng tới du lịch của địa phương đó. Ngòai ra, các
cơ quan y tế cũng cần phải kiểm tra kỹ lưỡng nhằm đảm bảo an toàn cho
khách du lịch, tránh việc mang các bệnh, dịch bệnh dễ lây lan, truyền nhiễm
5
của hành khách vào khu du lịch. Các cơ quan an ninh, chính quyền địa
phương cũng cần giữ an ninh trật tự, ngăn chặn các cuộc bạo loạn, khủng bố
ở các khu du lịch, hay những hiện tượng quậy phá cho khách khi đi trên
đường và vui chơi trong các khu du lịch, đồng thời cũng phải có các biện
pháp để tránh việc các thành phần khủng bố trà trộn vào khách du lịch gây
mất ổn định, an ninh trật tự. Các cơ quan an ninh chức trách cũng là người
tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, trước mỗi mùa du lịch, các

cơ quan an ninh cũng cần phải rà soát để nắm các đối tượng cần phải quản
lý, nhắc nhở. Các công ty lữ hành cũng cần phải mua bảo hiểm cho khách,
đặc biệt là khách quốc tế để đề phòng các trường hợp xấu có thể xảy ra như:
tử vong, tai nạn, phát sinh các chi phí y tế liên quan đến việc điều trị cho
khách du lịch trong thời gian khách đi du lịch. Bảo hiểm y tế du lịch cho
người nước ngoài vào Việt Nam của Bảo Việt đã làm du khách nước ngòai
cảm thấy yên tâm hơn khi du lịch ở Việt Nam. Những người nước ngòai có
độ tuổi đến 75 vào Việt Nam với mục đích du lịch, thăm thân, kinh doanh,
học tập, tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế… trong thời gian tối đa 180ngày/
chuyến tại Việt Nam, người nước ngòai đang công tác tại Việt Nam đi du
lịch, công tác trong lãnh thổ Việt Nam được xách định là những khách hàng
tiềm năng tham gia bảo hiểm này.
Nhiều công ty du lịch và lữ hành trong nước còn ít biết về hoạt động
bảo hiểm. Các quy tắc và điều khỏan bảo hiểm cho người nước ngòai vào
Việt Nam còn hạn chế về quyền lợi bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm và mức số
tiền bảo hiểm. Các công ty lữ hành trong nước chỉ đơn thuần là đơn vị lấy
khách từ các tour do các công ty lữ hành ở nước ngòai tổ chức mà không
phải là đơn vị độc lập tổ chức du lịch vì vậy trách nhiệm, quyền hạn về
quyết định mua bảo hiểm cho đoàn tour của các công ty lữ hành trong nước
bị hạn chế và phụ thuộc và công ty lữ hành, du lịch nước ngòai.
2. TÍNH LIÊN VÙNG TRONG KINH TẾ DU LỊCH:
Sự phụ thuộc, lan toả về du lịch giữa các nước trong cùng khu vực,
giữa các địa phương trong vùng là một tất yếu.Trong những năm qua, dưới
sự chỉ đạo của Tổng cục Du lịch Việt Nam, công tác liên kết, hợp tác giữa
các địa phương trong xây dựng sản phẩm liên vùng và xúc tiến quảng bá đã
được các ngành, các cấp, địa phương quan tâm thúc đẩy, đặc biệt là ở Đà
Nẵng , Thừa Thiên Huế và Quảng Nam.
Để tăng cường công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh, tiềm năng thế
mạnh của du lịch miền Trung nói chung, tại thành phố Đà Nẵng, ba sở Du
lịch Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng đã ký biên bản hợp tác liên

kết phát triển du lịch. Mở đầu là việc ba địa phương đã có những hành động
hưởng ứng chuỗi sự kiện: “Đà Nẵng biển gọi”, “Hành trình Di sản”- Quảng
6

×