Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Khái quát về kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.92 KB, 20 trang )

Phần I - Đặt vấn đề
Trên con đờng lịch sử phát triển nền kinh tế của các nớc xã hội chủ nghĩa
trớc đây đã xuất hiện mô hình kinh tế chỉ huy. Thực chất đây là nền kinh tế chỉ
thuần khiết với hai thành phần kinh tế đó là thành phần kinh tế quốc doanh và
thành phần kinh tế tập thể, mô hình kinh tế này đã kìm hãm sự phát triển của sản
xuất, làm mai một các nghành nghề truyền thống, không gắn kết đợc ngời sản
xuất với công việc của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp .v.v
Từ việc nhận thức đúng đắn trong thực tiễn cũng nh lý luận, ngay từ Đại
Hội Đảng VI, Đảng ta đã xác định: chuyển đổi mô hình kinh tế chỉ huy mang
nặng tính bảo thủ và trì trệ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế,
trong đó thành phần kinh tế Nhà nớc (KTNN) luôn giữ vai trò chủ đạo, cùng với
thành phần kinh tế tập thể dần sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Sau 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt đợc những thành tựu quan trọng, nền
kinh tế hàng hoá đang hoạt động rất sôi động và hiệu quả, mở ra cho nớc ta
nhiều cơ hội và vận hội mới, đồng thời cũng phát sinh không ít những khó khăn
và thách thức mới. Mặt khác sinh viên lập nghiệp đang là một xu hớng tích cực
trong những năm gần đây, việc thành đạt ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
những ông chủ, bà chủ, đang là sinh viên và còn ngồi trên giảng đờng đại học,
điều này đã phản ánh đợc tính năng động, sáng tạo của sinh viên trong nền kinh
tế thị trờng. Là một sinh viên kinh tế, em thiết nghĩ cần phải tìm hiểu tốt các
kiến thức về kinh tế thị trờng mà trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo, đây là việc
làm rất thiết thực. Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc giúp cho quá trình lập nghiệp
sau này của bản thân em.
Phần II: Giải quyết vấn đề.
1
I. Khái quát về thành phần KTNN.
1. Thành phần KTNN.
Có nhiều quan điểm nói về KTNN, nhng chúng ta không thể đồng nhất
giản đơn KTNN với các doanh nghiệp nhà nớc(DNNN). Mà ta thấy KTNN bao


gồm các DNNN ( kinh tế quốc doanh ) và các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nớc
nh: Đất đai, tài nguyên, ngân hàng .v.v
Khái niệm thành phần KTNN: Là những đơn vị, tổ chức trực tiếp
sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh. Mà toàn bộ
nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nớc, hoặc phần của Nhà nớc chiếm một
tỷ lệ khống chế.
Con đờng hình thành: KTNN trớc hết là các doanh nghiệp cổ phần
đợc hình thành trên cơ sở :
- Nhà nớc đầu t xây dựng.
- Quốc hữu hoá những doanh nghiệp t bản t nhân.
- Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp t nhân.
Ngoài ra với tính chất xã hội chủ nghĩa, Nhà nớc ta xác định: Đất đai,
tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng .v.v Do Nhà n ớc nắm giữ nhằm
chi phối và điều tiết định hớng sự phát triển kinh tế xã hội.
Các đặc trng của thành phần KTNN:
- Đặc trng của thành phần KTNN là thuộc sở hữu của Nhà nớc, ở đây
ta cần phân biệt sở hữu Nhà nớc với quyền sử dụng của thành phần KTNN. Ta
thấy:
+ Phạm trù sở hữu Nhà nớc rộng lớn hơn phạm trù KTNN, đã nói tới
thành phần KTNN thì trớc tiên nó phải thuộc sở hữu của Nhà nớc. Nhng sở hữu
của Nhà nớc có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng, ví dụ nh đất đai là
tài sản mà Nhà nớc đại diện cho toàn dân về sở hữu, nhng kinh tế hộ gia đình
( cá thể tiểu chủ ), các hợp tác xã nông nghiệp, hay các doanh nghiệp thuộc
2
thành phần kinh tế khác vẫn đợc Nhà nớc giao quyền sử dụng đất lâu dài, chính
việc này đã giải thích đợc việc mua bán đất đai trên thị trờng hiện nay: đây thực
chất chỉ là việc mua bán quyền sử dụng đất đai, bởi vì đất đai là sản phẩm của tự
nhiên con ngời không thể tiến hành sản xuất ra nó đợc. Ngợc lại những tài sản
thuộc sở hữu của Nhà nớc thì không hẳn đã phải do thành phần KTNN sử dụng,
mà các thành phần kinh tế khác vẫn có thể sử dụng, ví dụ nh việc Nhà nớc góp

vốn, cổ phần ở các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác thông qua việc
liên doanh, liên kết mà từ đó hình thành nên thành phần kinh tế t bản Nhà nớc
+ Các DNNN tổ chức kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.
+Thực hiện phân phối theo lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh
doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng của các doanh nghiệp thuộc thành
phần KTNN, là hình thức phân phối căn bản và là nguyên tắc phân phối chủ
yếu, thích hợp với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản
xuất ở nớc ta hiện nay.
2. Phân biệt KTNN với kinh tế t bản độc quyền.
Trong sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trờng của một các nớc, thì
Nhà nớc luôn là một chủ thể kinh tế quan trọng có khả năng nhận thức và vận
dụng các quy luật kinh tế khách quan vào nền kinh tế, đồng thời Nhà nớc đa ra
các chính sách vĩ mô nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trờng đem
lại, tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế .v.v... Vì thế mà Samuelson đã
nhận định Thiếu sự can thiệp của Nhà nớc vào nền kinh tế chẳng khác nào vỗ
tay mà chỉ dùng một bàn tay . Ngày nay KTNN ở Việt nam là đặc trng của nền
kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, còn kinh tế t bản độc quyền
Nhà nớc là đặc trng của nền kinh tế thị trờng của các nớc t bản chủ nghĩa. Giữa
chúng có những điểm khác nhau căn bản sau:
- Vai trò chủ đạo của KTNN là quan điểm lý luận đợc các nớc xã hội
chủ nghĩa thừa nhận rộng rãi, coi đây là một đặc trng cơ bản để phân
biệt thể chế kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trờng t bản
3
chủ nghĩa, ở nớc ta KTNN hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng,
then chốt của xã hội. Trong đó có cả những nghành hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là phục vụ lợi ích cho toàn xã hội nh :
Quốc phòng, giáo dục, y tế ..v.v.. ở các nớc t bản chủ nghĩa ở thời kỳ t
bản độc quyền Nhà nớc, thì Nhà nớc luôn bị phụ thuộc vào các tổ chức
độc quyền, các hoạt động của Nhà nớc tác động vào các quá trình kinh
tế nhằm đem lại lợi nhuận độc quyền, còn các tổ chức này luôn hoạt

động trong lĩnh vực độc quyền của mình và thu đợc lợi nhuận độc
quyền cao.
- Xét về thực chất, sự ra đời của t bản độc quyền Nhà nớc không làm thay
đổi quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa, mà đây chỉ là sự kết hợp về con
ngời giữa tổ chức độc quyền và Nhà nớc, các tổ chức độc quyền chỉ
đem lại lợi ích chủ yếu cho một số ít ngời trong xã hội. Còn KTNN ở n-
ớc ta dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuât, mà Nhà nớc chỉ là ng-
ời đứng ra đại diện sở hữu cho toàn dân. Do đó các thành phần KTNN
tổ chức kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, phân phối theo
lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời thành phần KTNN
còn có vai trò hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo ra
cơ sở và tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa.
II. Vai trò của KTNN.
1. Vì sao thành phần KTNN phải giữ vai trò chủ đạo?
Nh chúng ta đã nghiên cứu ở phần trớc, KTNN là đặc trng của nền kinh
tế thị trờng của nớc ta hiện nay. Thành phần kinh tế này luôn giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đây là quan điểm
lý luận đợc thừa nhận rộng rãi ở các nớc xã hội chủ nghĩa đang phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
4
Sở dĩ thành phần KTNN phải giữ vai trò chủ đạo, bởi vì :
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta, trình độ phát tiển
của lực lợng sản xuất còn rất thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dới nhiều hình
thức. Vì thế nền kinh tế nớc ta là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần và
đang vận hành theo cơ chế thị trờng, nhng cơ chế thị trờng lại không phải là hiện
thân của sự hoàn hảo, bên cạnh những u điểm to lớn của nó mà không ai có thể
phủ nhận đợc thì nó cũng có không ít các khuyết tật nh : Gây ra sự phân hoá
giầu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, dễ làm cho con ngời suy thoái về
đạo đức vì lợi ích riêng t mà bất chấp lợi ích của cả cộng đồng ..v..v.. Do đó nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng cần phải có sự
quản lý của Nhà nớc. Và chỉ có vai trò chủ đạo của thành phần KTNN mới đảm
bảo vững chắc định hớng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho lợi ích của ngời lao
động, khắc phục và hạn chế những tiêu cực xấu do cơ chế thị trờng gây ra, phân
phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, đồng thời qua đó thực hiện
tăng trởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công
bằng xã hội.
- KTNN dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất, đây là chế độ phù hợp
với xu hớng xã hội hoá của lực lợng sản xuất và phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay. Do đó đầu t cho phát triển KTNN,
chính là chúng ta đang tạo ra nền tảng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra sức
mạnh vật chất để Nhà nớc điều tiết và quản lý thị trờng.
- KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế do
đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác, đảm
bảo đợc các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác với sự phát triển ngày
càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt, để đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhng thờng những ngành này
đòi hỏi phải có vốn đầu t nhiều, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp
nh các ngành : Giao thông vận tải, giáo giục, y tế, năng lợng..v.v.. Để thực hiện
5
đợc điều đó đòi hỏi Nhà nớc phải đầu t trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng
cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt đợc các mục đích: Dẫn dắt nền
kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển một cách vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế ngăn ngừa những đột biến
xấu trong nền kinh tế.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự
tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan. Và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo
của thành phần KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập và tự chủ.
Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lợng
giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả thị trờng, dẫn dắt giá

cả thị trờng bằng chính chất lợng và giá cả sản phẩm và dịch vụ do mình cung
cấp. Thông qua đó Nhà nớc có thể kiểm soát đợc thị trờng, xây dựng nền kinh tế
nớc ta thành nền kinh tế vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và có sức cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
2. Vai trò chủ đạo của thành phần KTNN.
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò
:

- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trởng kinh tế và giải quyết những vấn đề
xã hội.
- Mở đờng hớng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
6
- Làm lực lợng vật chất để Nhà nớc thực hiện chức năng điều tiết và quản
lý vĩ mô.
-Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Nh vậy thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: Chi phối các
thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính
của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hớng xã hội
chủ nghĩa). Tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ những
nghành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng
trởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng GDP
của toàn xã hội.
3. Thực trạng KTNN hiện nay.
Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nớc ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa rất quan trọng. Đa nớc ta từ một nớc kém phát triển thành nớc có
nhịp độ phát triển khá nhanh và ổn định, đặc biệt trong thời kỳ 1991 - 1995
chúng ta đạt đợc tốc tăng trởng trung bình hàng năm 8,2%, đời sống nhân dân đ-
ợc cải thiện rõ rệt, thu nhập của nhân dân tăng đáng kể, từ năm 1986 - 1995
GDP đã tăng gấp đôi và chúng ta đang phấn đấu tới năm 2005 GDP sẽ tăng gấp
đôi so với năm 1995.

Từ những thành tựu kể trên không thể phủ nhận đợc vai trò to lớn của
KTNN, khu vực KTNN luôn đóng góp một phần tỷ trọng GDP lớn hơn các khu
vực kinh tế khác, ví dụ nh năm 2000 vừa qua tỷ trọng GDP (tính theo %) của các
khu vực kinh tế đợc trình bày ở bảng sau :
KVKT KTNN Kinh tế
tập thể
Kinh tế
t nhân
Kinh tế
cá thể
Kinh tế
hổn hợp
KT có vốn đầu
t nớc ngoài
GDP(%) 39 8,5 3,3 32 3,9 13,3
7
a. Quy mô và tổ chức của các DNNN:
Tính từ năm 1990 đến năm 2000, các DNNN đã trải qua ba lần phẫu
thuật. Lần thứ nhất chúng ta thực hiện vào những năm 1990 đến năm 1993, với
mục tiêu là tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh.
Lần thứ hai từ năm 1994 đến năm 1997, chúng ta đã thành lập 18 tổng công ty
91 và 77 tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN
ngay sau đó là việc giao, bán, khoán và cho thuê các DNNN.
- Sau ba lần phẫu thuật so sánh với năm 1989 thì năm 2000 quy mô
của các DNNN đã giảm từ 12.300 doanh nghiệp xuống còn 5.280, những doanh
nghiệp có vốn dới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%.
- Mặc dù giảm về số lợng nhng các DNNN vẫn tăng trởng mạnh, tính
từ năm 1991 đến năm 1995 tốc độ tăng bình quân hàng năm của các
DNNN là 11,7%. Và đóng góp trung bình hàng năm khoảng 40,3%
vào tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác quá trình tổ chức

sắp xếp lại DNNN đã mở rộng quy mô vốn của mỗi doanh nghiệp,
giảm đợc sự tài trợ đáng kể của ngân sách Nhà nớc, một số nghành
mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả cao
nh : Dầu khí, năng lợng, bu chính viễn thông..vv Trong đó quyền
chủ động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đợc phát huy.
Tuy thế hiện nay cơ cấu tổ chức còn có nhiều bất hợp lý nh việc
doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý.
Còn các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành thì phân bố rất phân tán, manh
mún, thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ nh ở trên địa bàn Hà Nội
các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp do Trung
ơng quản lý, nhng lại đợc tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau : Bộ công
nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn có 8 doanh
nghiệp và bộ xây dựng có 7 doanh nghiệp.
b. Công nghệ.
8

×