Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

tiểu luận thành lập tổ chức hành nghề công chứng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 32 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI
THÀNH LẬP TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Công chứng, chứng thực
Mã phách:……………………………

Hà Nội – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin
nêu trong tiểu luận là trung thực, chính xác. Các trích dẫn trong tiểu luận đều được
chú thích đầy đủ và chính xác.


BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt

Từ viết tắt

Nội dung viết tắt

1

Quy phạm pháp luật


QPPL

2

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

3

Phịng cơng chứng

PCC

4

Văn phịng công chứng

VPCC

5

Công chứng viên

CCV


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm công chứng .................................................................. 5
1.1.1 Khái niệm công chứng ............................................................................ 5
1.1.2 Đặc điểm công chứng ............................................................................. 6
1.2. Tổ chức hành nghề công chứng .............................................................. 8
1.2.1 Các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam hiện nay ................. 8
1.2.2 Đặc điểm của các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 10
Tiểu kết chương 1....................................................................................................... 14
CHƯƠNG 2................................................................................................................. 15
2.1. Ngun tắc thành lập phịng cơng chứng....................................................... 15
2.2. Ngun tắc thành lập văn phịng cơng chứng ............................................... 18
2.3 Hạn chế của việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng ................ 21
Tiểu kết chương 2....................................................................................................... 23
CHƯƠNG 3................................................................................................................. 24
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập tổ chức hành nghề công
chứng tại Việt Nam hiện nay ................................................................................... 24
Tiểu kết chương 3....................................................................................................... 26
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 28


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, pháp luật ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội trở thành một trong những yêu cầu cơ bản

nhằm bảo đảm sự ổn định trật tự kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi thực hiện quản lý bất kỳ
lĩnh vực xã hội cụ thể nào Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công cụ
phổ biến và hữu hiệu nhất. Trong quản lý lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt
động cơng chứng nói riêng lại càng phải tuân thủ theo nguyên tắc pháp trị do
Hiến pháp quy định. Hiện nay, các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, đất
đai… đã phát triển hết sức mạnh mẽ, đa dạng cả trong nước và cả với nước
ngồi. Nhiều giao dịch địi hỏi phải được cơng chứng để tạo chứng cứ có sức
thuyết phục cao, chứng thực hóa các quan hệ dân sự. Việc cơng chứng được
yêu cầu thực hiện một cách chính xác theo đúng pháp luật nhưng phải nhanh
chóng kịp thời, thuận tiện cho người dân. Việc xã hội hóa hoạt động cơng chứng
đã góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu cơng chứng các hợp đồng, giao dịch dân
sự. Các VPCC bên cạnh các PCC nhà nước thể hiện sự thay đổi có tính bước
ngoặt trong nhận thức về vai trị của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và
tầm quan trọng của việc khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia cung cấp
những dịch vụ phục vụ yêu cầu của nhân dân. Đánh dấu bước chuyển giao
chính thức một phần các hoạt động vốn được cho là chỉ có thể do Nhà nước
thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức ngồi nhà nước với mục đích nâng cao
hơn nữa chất lượng phục vụ và thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của xã
hội. Luật Công chứng ra đời đã giải quyết cơ bản những hạn chế, bất cập trong
1


lĩnh vực công chứng, chứng thực, kịp thời thể chế hố chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, tăng cường hoạt động tư pháp hướng về cơ sở, đặc biệt là cụ thể hoá chủ
trương xã hội hoá hoạt động bổ trợ tư pháp, tăng cường năng lực tiếp cận hệ
thống tư pháp của nhân dân được xác định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020”. Sau 07 năm triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014, các quy

định của Luật đã cơ bản đi vào thực tiễn, cho thấy sự phù hợp với định hướng
phát triển nghề công chứng ở nước ta trong giai đoạn mới, qua đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của hoạt động công chứng.
Vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề
cơng chứng có vai trị hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tuân theo pháp
luật của hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta. Với ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đặt ra trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng trong giai đoạn hiện nay việc nghiên cứu các quy định của
pháp luật về thành lập tổ chức hành nghề công chứng là hết sức cần thiết, trên
cơ sở đó đưa ra các giải pháp quản lý với các tổ chức hành nghề công chứng
phù hợp với thực tiễn biến động của lĩnh vực công chứng một cách hiệu quả.
Chính vì lý do trên em chọn đề tài "Thành lập tổ chức hành nghề công
chứng" làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay ở nước ta đã có một số đề tài nghiên cứu về cơng chứng dưới
góc độ như quản lý nhà nước về cơng chứng, xã hội hóa công chứng, thực trạng
pháp luật về công chứng, hoạt động của công chứng... Tuy nhiên khi mà luật
công chứng sửa đổi năm 2014 đã đi vào áp dụng trong thực tế và đang còn gặp
nhiều vướng mắc. Bài tiểu luận Thành lập tổ chức hành nghề công chứng thông
2


qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đưa ra
những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định về thành lập
tổ chức hành nghề công chứng cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện của Luật
cơng chứng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của tiểu luận là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ
thống và tồn diện những vấn đề về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành

nghề công chứng, để từ đó góp phần giải quyết các vướng mắc về thành lập tổ
chức công chứng ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hành nghề công chứng,
phân tích thực trạng pháp luật về tổ chức hành nghề cơng chứng. Từ đó đề xuất
giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các QPPL về tổ chức hành nghề công chứng
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Luật công chứng năm 2006; Luật công
chứng năm 2014, và các văn bản QPPL có liên quan về thành lập tổ chức hành
nghề công chứng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng là phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài gồm:
3


+ Phương pháp tìm hiểu tư liệu: Là nghiên cứu về lý luận thơng qua những
tài liệu có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề cơng
chứng. Qua đó xây dựng lý thuyết của đề tài.
+ Phương pháp so sánh: Làm rõ sự giống và khác nhau, những điểm tiến
bộ và phát triển của Luật công chứng 2014 so với Luật công chứng 2006 và các
văn bản pháp luật có liên quan quy định về cơng chứng. Từ đó đánh giá những
thuận lợi và hạn chế trong thực tế thi hành Luật công chứng 2014, đề ra những
giải pháp phù hợp, giải quyết những khúc mắc còn tồn đọng trong việc thành
lập tổ chức hành nghề cơng chứng.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là một phương pháp quan trọng
trong quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở các tài liệu, thông tin thu thập được, tác

giả sẽ phân tích, đánh giá. Qua đó tổng hợp lại để có những kết luận, những đề
xuất phù hợp với lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về hoạt động
thành lập tổ chức hành nghề cơng chứng.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu tiểu
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tổ chức hành nghề công chứng tại
Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng thành lập tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại
Việt Nam hiện nay

4


CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
CÔNG CHỨNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm và đặc điểm công chứng
1.1.1 Khái niệm công chứng
Trong những năm qua, hoạt động công chứng ở nước ta đã có những bước
phát triển, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trị của công chứng trong đời sống xã
hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là công cụ đắc lực phục vụ quản
lý nhà nước trong việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Hoạt động công chứng
đã tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, của các cơ quan, tổ chức, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải
quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa. Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề quan trọng có vai trị lý
luận cũng như thực tiễn ảnh hưởng đến mơ hình tổ chức, cơ chế hoạt động của
các phịng cơng chứng cũng như văn phịng cơng chứng.
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải
cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, ngày 29/11/2006, xây dựng mơ
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ
quan cơng chứng thích hợp, có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công
việc này, Quốc Hội đã ban hành Luật công chứng và sau 8 năm triển khai thực
hiện, ngày 20 tháng 6 năm 2014 quốc hội đã tiếp tục ban hành luật cơng chứng
sửa đổi nhằm hồn thiện pháp luật về công chứng, đưa hoạt động công chứng
phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Điều 2
khoản 1 Luật công chứng ngày 20 tháng 6 năm 2014 quy định: "Công chứng là
5


việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng chứng chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau
đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức
xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định
của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu cơng
chứng"[8] Đây có thể coi là khái niệm cơ bản và đầy đủ nhất về công chứng
cho đến thời điểm hiện tại. Khái niệm này về cơ bản đã giải quyết được những
thiếu sót của các văn bản QPPL trước đó về khái niệm cơng chứng. Đã mở rộng
phạm vi hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, của công chứng
viên. Nhằm tạo thuận tiện cho người dân cũng như giảm áp lực công việc cho
các cơ quan hành chính. Bảo đảm tính chun mơn hóa, chất lượng trong hoạt
động công chứng, dịch thuật, phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của các
tổ chức hành nghề công chứng, đồng thời bảo đảm tốt hơn cho người dân trong
việc lựa chọn và tiếp cận dịch vụ.

1.1.2 Đặc điểm công chứng
Thông qua việc nghiên cứu về hoạt động cơng chứng có thể thấy rõ các
đặc điểm của hoạt động công chứng như sau:
Thứ nhất, công chứng là hành vi do CCV thực hiện. Điều này phân biệt
với chứng thực là hành vi do người đại diện của cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện. CCV do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách
nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu
cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng giao dịch sau khi được chứng nhận
có giá trị chứng cứ. Điều đó cho thấy, hoạt động công chứng là hoạt động cung
cấp dịch vụ pháp lý mang tính chất đặc biệt, tức là vừa mang tính dịch vụ, vừa
là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp. Hoạt động công chứng là hoạt
6


động dịch vụ pháp lý chứ không phải là tư nhân hóa hoạt động cơng chứng,
nhằm để tổ chức hành nghề cơng chứng góp phần chia sẻ gánh nặng với nhà
nước, tránh việc độc quyền và góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật
bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là xác nhận tính đúng đắn, hợp
pháp của các giao dịch, hợp đồng, tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức
xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt Nam sang tiếng nước ngoài,
hoặc từ tiếng nước ngồi sang tiếng Việt Nam theo u cầu của cơng dân, tổ
chức và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật. Đây
là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với các hoạt
động mang tính chất hành chính khác. Các hợp đồng, giao dịch, bản dịch được
CCV xác nhận theo quy định của pháp luật chính là văn bản cơng chứng.
Thứ ba, văn bản cơng chứng có giá trị chứng cứ và có hiệu lực thi hành
với các bên, những tình tiết, sự kiện trong văn bản cơng chứng có giá trị chứng
cứ không phải chứng minh được Luật công chứng (Khoản 3- Điều 5) và Bộ

luật tố tụng dân sự (Điều 80, 83) quy định, trừ trường hợp văn bản cơng chứng
bị Tịa án tun vơ hiệu. Văn bản cơng chứng phải được CCV xác nhận theo
trình tự, thủ tục do pháp luật về công chứng quy định và chủ thể tham gia giao
dịch có đủ năng lực dân sự, nội dung thỏa thuận là hồn tồn tự nguyện thì văn
bản cơng chứng có hiệu lực thi hành với các bên có liên quan, buộc các bên
phải thực hiện đúng các cam kết đã xác lập. Trong pháp luật về tố tụng tài liệu,
văn bản, giấy tờ được coi là chứng cứ khi hình thức và nội dung của các tài
liệu, giấy tờ đó phản ánh đúng nội dung thực tế và phù hợp với quy định của
pháp luật. Vì vậy văn bản được CCV xác nhận thông qua lời chứng của mình
và nội dung của hợp đồng, giao dịch không trái đạo đức xã hội, phù hợp với
7


quy định của pháp luật thì được coi là chứng cứ và không cần phải chứng minh,
trừ trường hợp bị tịa án tun bố vơ hiệu.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy cơng chứng là hoạt động khơng
thể thiếu trong đời sống xã hội, là tài liệu chứng cứ khi có tranh chấp tại tịa án,
là cơng cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
giao dịch, góp phần phịng ngừa rủi ro đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao
dịch dân sự kinh tế, thương mại phát triển, tránh việc tranh chấp và vi phạm
pháp luật. Tạo sự ổn định cho xã hội.
1.2. Tổ chức hành nghề công chứng
1.2.1 Các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay tổ chức hành nghề cơng chứng bao gồm Phịng cơng
chứng và Văn phịng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của
Luật công chứng do Quốc hội Nhà nước XHCN Việt Nam ban hành ngày
20/06/2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Phịng cơng
chứng và Văn phịng cơng chứng có nhiệm vụ và trách nhiệm nghề nghiệp như
nhau, tuy nhiên đây là hai tổ chức khác biệt.
Theo quy định tại Điều 19 Luật công chứng 2014, PCC do Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư
pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người đại diện theo pháp luật của
Phịng cơng chứng là Trưởng phịng, trưởng phịng cơng chứng phải là cơng
chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức. Tên gọi của PCC bao gồm cụm từ "Phịng cơng chứng" kèm theo số thứ
tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phịng cơng
chứng được thành lập. PCC sử dụng con dấu khơng có hình quốc huy. PCC
được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập. Thủ tục, hồ sơ
xin khắc dấu, việc quản lý, sử dụng con dấu của PCC được thực hiện theo quy
8


định của pháp luật về con dấu. PCC là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Sở tư pháp
nên kinh phí được nhà nước cấp và một phần kinh phí từ hoạt động công chứng
được sử dụng tại đơn vị. PCC phải nộp 100% phí thu được cho nhà nước và
được nhà nước trích lại 50% phí thu được để chi trả cho hoạt động của phòng.
Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của Luật
công chứng và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. PCC chỉ được thành lập mới
tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phịng cơng chứng.
Đối với Văn phịng cơng chứng, theo quy định tại Điều 22 của luật công
chứng 2014, VPCC là tổ chức dịch vụ công được tổ chức và hoạt động theo
loại hình cơng ty hợp danh; phải có từ hai CCV hợp danh trở lên, khơng có
thành viên góp vốn. Tên của VPCC được lấy theo tên của Trưởng văn phòng.
Các quyền và nghĩa vụ của VPCC được quy định trong Luật công chứng và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Trưởng VPCC phải là công chứng
viên hợp danh của VPCC và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Tên
gọi của VPCC phải bao gồm cụm từ "Văn phịng cơng chứng" kèm theo họ tên
của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác
của VPCC do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng

hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được
vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân
tộc. VPCC phải có trụ sở đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định. Có con
dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng
nguồn thu từ phí cơng chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp
khác. VPCC sử dụng con dấu khơng có hình quốc huy; Chỉ được khắc và sử
dụng con dấu sau khi có quyết định cho phép thành lập. Thủ tục, hồ sơ xin khắc
dấu, việc quản lý, sử dụng con dấu của VPCC được thực hiện theo quy định
của pháp luật về con dấu. Ngoài ra VPCC nếu thành lập tại các địa bàn có điều
9


kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu
đãi theo quy định của Chính phủ.
1.2.2 Đặc điểm của các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam
hiện nay
*Sự giống nhau giữa phịng cơng chứng và văn phịng cơng chứng
Xét về bản chất, tổ chức hành nghề công chứng, là một loại hình doanh
nghiệp cung cấp "dịch vụ cơng chứng". Là tổ chức mang tính dịch vụ pháp lý.
Hoạt động của tổ chức hành nghề cơng chứng hướng đến 3 lợi ích sau:
+ Lợi ích của nhà nước: Hoạt động cơng chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp
và chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước do hoạt động công chứng gắn liền
với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia
các hợp đồng, giao dịch; hỗ trợ, bổ sung cho các hoạt động quản nhà nước và
hoạt động tư pháp nên được xếp vào hoạt động bổ trợ tư pháp. Hoạt động cơng
chứng là hoạt động mang tính dịch vụ pháp lý đặc biệt. CCV là người được nhà
nước uỷ quyền, thay mặt cho nhà nước chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi
giao kết hợp đồng, phòng ngừa rủi ro, tranh chấp nên các tổ chức hành nghề
công chứng chịu sự quản lý, điều tiết chặt chẽ của nhà nước.

+ Lợi ích của các bên tham gia giao dịch: Việc xã hội hóa cơng chứng đã
tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công
chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức, góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an tồn xã hội. Đặc biệt, hoạt động
cơng chứng đã góp phần quan trọng vào việc phịng ngừa các tranh chấp, khiếu
nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở - lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy
cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận công chứng là "lá chắn" phịng ngừa hữu
hiệu, đảm bảo an tồn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian,
10


chi phí cho xã hội, giảm thiểu cơng việc cho Tòa án trong việc giải quyết các
tranh chấp dân sự.
+ Lợi ích của phịng, văn phịng cơng chứng: được thu phí và thù lao cơng
chứng theo quy định khi thực hiện các hoạt động cơng chứng, nhưng chủ yếu
khơng vì lợi nhuận mà là đảm bảo cho các giao dịch tuân thủ đúng pháp luật,
đảm bảo an toàn cho các bên tham gia.
*Sự khác nhau giữa phịng cơng chứng và văn phịng cơng chứng
Cơng chứng viên thuộc PCC là cơng chức, viên chức nhà nước được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chứng viên VPCC không phải là
công chức, viên chức nhà nước vì vậy lương và các khoản thu nhập khác được
trích từ nguồn thu phí cơng chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp
khác từ hợp đồng cơng chứng.
Nguồn tài chính của tổ chức hành nghề công chứng:
Đối với PCC là đơn vị sự nghiệp có thu, tự chủ về tài chính thì một phần
kinh phí do nhà nước cấp, một phần được trích lại từ hoạt động công chứng và
một phần nguồn thu đến từ thù lao công chứng.
Đối với VPCC hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, tự chịu trách
nhiệm về bồi thường thiệt hại cho khách hàng, nguồn thu bao gồm: Kinh phí
đóng góp của cơng chứng viên; Phí công chứng; Thù lao công chứng và các

nguồn thu khác. (Là các khoản tiền mà VPCC thu từ việc người u cầu cơng
chứng muốn ký ngồi trụ sở, xác minh hoặc giám định...)
Nếu như trước đây chỉ có một hình thức tổ chức hành nghề cơng chứng
duy nhất là Phịng cơng chứng nhà nước thì từ Luật cơng chứng 2006, có hai
hình thức tổ chức hành nghề cơng chứng song hành hoạt động dưới sự quản lý,
giám sát của Sở Tư pháp là PCC do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và
VPCC do các công chứng viên đứng ra thành lập, được Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cho phép thành lập. Hai tổ chức hành nghề công chứng này bình đẳng về
11


chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền ký văn bản công chứng. Quan hệ giữa người
yêu cầu công chứng với cả hai tổ chức hành nghề công chứng trên là quan hệ
dân sự mang tính chất dịch vụ có thu phí theo quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Nhà nước quy định mức phí chung cho cả hai mơ hình tổ chức
hành nghề cơng chứng. Việc làm và thu nhập của công chứng viên phụ thuộc
vào số lượng và chất lượng dịch vụ công chứng mà họ cung cấp cho người yêu
cầu công chứng. Nếu gây thiệt hại cho khách hàng thì cơng chứng viên phải bồi
thường thơng qua tổ chức hành nghề công chứng. Do đặc thù là tổ chức dịch
vụ pháp lý nên cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng
được quy định theo Luật cơng chứng.
Ngồi ra hình thức tổ chức hoạt động VPCC còn được quy định trong cả
Luật doanh nghiệp, hoạt động theo loại hình Cơng ty hợp danh, trên cơ sở tự
chủ tài chính, hạch tốn độc lập, tuy nhiên lại chịu sự quản lý khắt khe và chặt
chẽ hơn so với các công ty hợp danh thông thường khác. Chẳng hạn như việc
thành lập phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
cơng chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hay việc xác định thuế, thuê
lao động, kế toán... . Về tư cách pháp lý: VPCC có tư cách pháp nhân, có sự
tách bạch rõ ràng giữa tài sản của văn phòng và tài sản của các thành viên trong
văn phòng. Các thành viên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp

vốn sang văn phịng và tài sản hình thành trong q trình văn phịng hoạt động
là tài sản của văn phịng.
Tổ chức hành nghề cơng chứng thực hiện một số hoạt động có tính
chịu trách nhiệm cao hơn. Theo quy định của Luật công chứng 2014, CCV có
quyền cơng chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở,
trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản
và văn bản liên quan đến việc thực hiện đối với bất động sản (Điều 42-Luật
12


công chứng 2014); công chứng bản dịch (Điều 62-Luật công chứng 2014); các
loại hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Theo
đó, mục đích của cơng chứng là đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch dân sự; tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức, xã hội của bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt. Nội dung xác thực bao gồm: thời gian, địa điểm, tư cách
chủ thể, mục đích, nội dung thỏa thuận, ý chí tự nguyện. Đồng thời, trình tự,
thủ tục công chứng cũng được quy định chặt chẽ hơn, được thể hiện qua việc
q trình cơng chứng được thực hiện qua nhiều công đoạn, mỗi công đoạn được
thực hiện qua nhiều bước nhỏ một cách tuần tự, không thêm bớt. Ngồi ra CCV
của các tổ chức hành nghề cơng chứng được chứng thực chữ ký, bản sao, bản
dịch, cấp bản sao từ sổ gốc theo căn cứ pháp lý như:
+ Luật Cơng chứng năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2015);
+ Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính
phủ về cấp bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng,
giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2015);
+ Thông tư số 20/2015/TT-BTP ngày 29 tháng 12 năm 2015 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật
công chứng Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của
Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng
02 năm 2016);
+ Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11 tháng 8 năm
2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTCBTC ngày 19 tháng
13


01 năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
cơng chứng (có hiệu lực kể từ ngày 29 tháng 9 năm 2015).

Tiểu kết chương 1
Qua việc nghiên cứu tại chương 1 tác giả đã chỉ ra được khái niệm về công
chứng và đặc điểm của các tổ chức hành nghề công chứng, ở đây có thể hiểu là
hai mơ hình Phịng cơng chứng và Văn phịng cơng chứng. Giúp người đọc hiểu
rõ hơn về tổ chức hành nghề công chứng. Qua những cơ sở pháp lý đã nêu cho
thấy rằng ngành công chứng với những quy định của Luật công chứng, của
những nghị định hướng dẫn thể hiện vai trò rộng lớn của công chứng trong điều
kiện phát triển kinh tế hiện nay. Điều đó cho thấy một nền tảng vững chắc của
công chứng được xây dựng với những quy định phù hợp với xu thế chung của
toàn xã hội và trên thế giới.

14


CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG THÀNH LẬP TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG

CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nguyên tắc thành lập phịng cơng chứng
Trong xu thế hội nhập quốc tế, khắc phục những bất cập trước đây của
hoạt động công chứng, chứng thực theo tinh thần các cơ quan nhà nước phải là
người phục vụ nhân dân nhưng khơng có nghĩa là mọi việc đều phải do cơ quan
nhà nước thực hiện. Thực tế đã chứng minh việc xã hội hóa hoạt động cơng
chứng được thực hiện từ năm 2006 đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả rất
cao, thu hút được số đông lực lượng công chứng viên tham gia, các VPCC tăng
lên đáng kể và chứng tỏ được vị thế của mình trong quá trình hoạt động. Các
tổ chức này đã đáp ứng kịp thời yêu cầu cơng chứng của người dân, khơng cịn
cảnh xơ đẩy, chen chúc, xếp hàng đi công chứng như những năm trước đây khi
chưa có quy định về xã hội hóa hoạt động cơng chứng.
Tuy nhiên xét trên tồn diện thì các PCC do nhà nước thành lập vẫn phát
huy tính tích cực của nó trong bối cảnh điều kiện kinh tế hiện nay, nhất là những
nơi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khi mà những nơi này kinh tế chưa
phát triển thì các giao dịch dân sự kinh tế còn rất hạn chế. Ở những nơi này việc
phát triển các VPCC là rất khó khăn, có nơi khơng có VPCC việc xã hội hóa
cơng chứng ở những địa bàn này cịn nhiều bất cập. Nếu khơng có giải pháp
phù hợp về tổ chức hành nghề cơng chứng thì công chứng hợp đồng, giao dịch
dân sự, kinh tế ở những nơi này sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc ký kết hợp
đồng giao dịch, việc phòng ngửa rủi ro trong giao dịch dân sự ở nơi đây sẽ
không thực hiện được. Vì vậy, việc duy trì và thành lập PCC ở những nơi này
là cần thiết. Mặt khác trong bối cảnh cần giảm bớt gánh nặng cho nhà nước về
biên chế, kinh phí trong việc thành lập PCC tràn lan mà hoạt động công chứng
15


vẫn đáp ứng được yêu cầu của người dân ở vùng kinh tế khó khăn. Vì vậy luật
cơng chứng quy định "phịng cơng chứng chỉ được thành lập mới tại những địa
bàn chưa có điều kiện phát triển văn phịng công chứng"(điều 18). Quy định

này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đới với hoạt động công chứng,
quan tâm đến vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, phù hợp với nguyện vọng
của người dân nơi đó. Để đảm bảo cho PCC hoạt động có hiệu quả sau khi
thành lập, luật quy định "Nhà nước sẽ cấp trụ sở, con dấu và tài khoản riêng
cho phịng cơng chứng đó" (Điều 19). Đối với những vùng có kinh tế, xã hội
phát triển đủ điều kiện để xã hội hóa cơng chứng thì lúc này nhà nước xem xét
xem có thể thực hiện được chủ trương xã hội hóa hay chưa, từ đó chuyển đổi
mơ hình PCC sang một hướng khác vừa có lợi cho nhà nước vừa có lợi cho
PCC. Theo điều 25 luật công chứng 2006 để thành lập được PCC thì cần có:
Đề án nêu rõ về sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa
điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện để trình
Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét. Quyết định bổ nhiệm công chứng viên. Trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập Phịng cơng chứng,
Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi quyết định
thành lập trong ba số liên tiếp. Cịn theo quy định của Luật cơng chứng 2014,
PCC chỉ được thành lập tại những địa bàn chưa có đủ điều kiện phát triển được
VPCC. Điều này được hiểu là các địa bàn khơng thuộc vùng có điều kiện kinh
tế khó khăn thì khơng được phép thành lập PCC. Đây là chính sách ưu tiên cho
việc xã hội hóa hoạt động công chứng, từng bước chuyển đổi hoạt động công
chứng từ nhà nước cho xã hội đảm nhận. Đây là một trong những điểm mới của
Luật công chứng 2014 do với Luật công chứng 2006. Điều 21 Luật công chứng
2014 cũng quy định trong trường hợp không cần thiết duy trì PCC thì Sở Tư
pháp lập đề án chuyển đổi PCC thành VPCC. "Trường hợp không cần thiết" ở
đây được hiểu là các trường hợp được quy định tại Điều 5, Mục 1, Chương II,
16


Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật công chứng, cụ thể là:
- Các địa bản cấp huyện đã thành lập đủ số tổ chức hành nghề công chứng

theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt và số lượng VPCC nhiều hơn số lượng PCC.
- Các địa bàn cấp huyện chưa thành lập đủ số tổ chức hành nghề công
chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề cơng chứng đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhưng có ít nhất 02 Văn phịng cơng
chứng đã hoạt động ổn định từ 02 năm trở lên, kể ngày đăng ký hoạt động.
Sở tư pháp nơi có PCC đang đặt trụ sở sẽ lập đề án để trình ủy ban nhân
dân xem xét xem có thể chuyển đổi phịng sang mơ hình khác khơng. Đây cũng
là một hướng đi mới trong q trình xã hội hóa hoạt động cơng chứng. Tuy
nhiên, với định hướng tăng cường xã hội hóa các tổ chức hành nghề cơng
chứng, tiến tới chỉ cịn một hình thức tổ chức hành nghề cơng chứng là VPCC,
đồng thời tránh lãng phí ngân sách, chi phí, thời gian của cả cơ quan quản lý
nhà nước và cá nhân trong việc thành lập mới các tổ chức hành nghề công
chứng, khoản 1 Điều 21 Luật công chứng 2014 quy định về vấn đề chuyển đổi
PCC thành VPCC như sau: "Trong trường hợp khơng cần thiết duy trì Phịng
cơng chứng thì Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi Phịng cơng chứng thành Văn
phịng cơng chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định; Chính
phủ quy định chi tiết việc chuyển đổi Phịng cơng chứng thành Văn phịng cơng
chứng".[8]
"Chuyển đổi" là một cách xã hội hóa hoạt động công chứng trên cơ sở tổ
chức công chứng của nhà nước, vừa giúp nhà nước giảm bớt gánh nặng về tài
chính và nhân sự. Về lý thuyết, việc quy định chuyển đổi PCC như vậy sẽ giữ
được sự ổn định trong hoạt động công chứng tại địa phương. đồng thời cũng có
17


thể thu về một nguồn kinh phí bổ sung cho ngân sách nhà nước từ việc chuyển
đổi này. Ngoài ra, đây cũng là một biện pháp tạo điều kiện đẩy mạnh xã hội
hóa loại hình dịch vụ sự nghiệp cơng này trong điều kiện hiện nay, tận dụng
được cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, nhân viên sẵn có của các PCC. Việc chuyển

đổi như thế nào thì cần phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương,
từng PCC và được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Đối với những PCC
khơng bảo đảm điều kiện để chuyển đổi hoặc khơng có người nhận tiếp quản
thì vẫn thực hiện giải thể theo thủ tục bình thường.
2.2. Ngun tắc thành lập văn phịng cơng chứng
Có thể thấy chủ trương xã hội hóa đang từng bước phát triển có hiệu quả,
Chính phủ có những quy định và chính sách khuyến khích cho VPCC thành lập
và hoạt động, phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
cơng chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời, các VPCC thành
lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn thì
được hưởng chính sách ưu đãi. Ngược lại, với PCC thì chỉ được thành lập tại
những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được VPCC. Quy định này cho thấy
rõ chính sách khuyến khích cho hoạt động xã hội hóa hoạt động cơng chứng.
Điều 18 luật cơng chứng 2014 quy định: "Văn phịng cơng chứng thành lập tại
các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được
hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ" và việc thành lập cũng
phải "phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng
do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt."[8] Đối với VPCC được thành lập ở nơi
dân cư ít, nền kinh tế phát triển chậm, những vùng khó khăn, nhằm giúp người
dân có cơ hội tiếp xúc được với những giao dịch dân sự hay những quyền lợi
mà mình được hưởng dưới sự bảo hộ của luật pháp và chính sách của nhà nước.
Với nguyên tắc dân làm được thì giao cho dân làm, nhà nước đã có chủ trương
18


cho thành lập văn phòng ở những vùng kinh tế cịn khó khăn, dân trí thấp, các
giao dịch cịn hạn chế thì được nhà nước hỗ trợ nhiều mặt để đảm bảo hoạt
động theo mục 3 điều 16 của Nghị định 29/2015 NĐ-CP ngày 15/3/2015 quy
định. "được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu
nhập doanh nghiệp, được thuê trụ sở với giá ưu đãi, được cho mượn trụ sở hỗ

trợ về trang thiết bị, phương tiện làm việc trong 3 năm đầu hoạt động. Ngồi
ra cịn được ủy ban nhân dân xem xét các biện pháp hỗ trợ khác".[6]
Mặc dù không phải là tổ chức hoạt động vì lợi nhuận, xong VPCC cũng
phải hoạt động và bỏ chi phí ra thuê nhân sự, trả lương...vì vậy với những nơi
mà giao dịch dân sự cịn hạn chế thì việc lấy thu bù chi là khó khăn. Hiểu được
điều này nên nhà nước đã có chính sách hỗ trợ hợp lý cho họ tạo điều kiện cho
họ hoạt động nhằm đảm bảo mỗi nơi đều có ít nhất một VPCC hay nói cách
khác là đảm bảo cho pháp luật của nhà nước luôn được thực hiện một cách đầy
đủ nhất. Khác với PCC, theo Điều 22 của Luật công chứng 2014 quy định về
VPCC thì VPCC muốn thành lập phải có từ 2 cơng chứng viên hợp danh trở
lên, khơng có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của VPCC là
Trưởng Văn phịng. Trưởng Văn phịng cơng chứng phải là cơng chứng viên
hợp danh của VPCC và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Có đề án
thành lập văn phịng đồng thời phải có trang thiết bị cùng trụ sở làm việc theo
chính phủ quy định mới đủ điều kiện để thành lập. Hoạt động trên cơ sở tự chủ
tài chính và tên gọi cũng phải mang tên trưởng văn phịng hoặc cơng chứng
viên khác hợp danh của văn phòng tránh gây nhầm lẫn, trùng lặp giữa các văn
phịng. Con dấu tự khắc và cũng khơng có hình quốc huy.
Trình tự thủ tục thành lập văn phịng bao gồm các bước sau:
+ Các CCV thành lập VPCC phải có hồ sơ đề nghị thành lập VPCC gửi
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị thành lập VPCC
19


gồm đơn đề nghị thành lập và đề án thành lập VPCC, trong đó nêu rõ sự cần
thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các
điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện; bản sao quyết định bổ nhiệm
công chứng viên tham gia thành lập VPCC.
+ Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập
VPCC, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập

VPCC; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
+ Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành
lập, VPCC phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết
định cho phép thành lập.
+ Nội dung đăng ký hoạt động của VPCC bao gồm tên gọi của VPCC, họ
tên Trưởng Văn phịng cơng chứng, địa chỉ trụ sở của VPCC, danh sách công
chứng viên hợp danh của VPCC và danh sách công chứng viên làm việc theo
chế độ hợp đồng của VPCC (nếu có).
+ Hồ sơ đăng ký hoạt động của VPCC gồm đơn đăng ký hoạt động, giấy
tờ chứng minh về trụ sở của VPCC phù hợp với nội dung đã nêu trong đề án
thành lập và hồ sơ đăng ký hành nghề của các công chứng viên hợp danh, công
chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng lao động tại VPCC (nếu có).
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hoạt
động, Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động của VPCC; trường hợp từ chối
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Ngoài ra, Điều 8 Nghị định số
04/2013/NĐ-CP cũng quy định về hồ sơ đăng kí hoạt động VPCC gồm:
+ Đơn đăng ký hoạt động theo mẫu;
+ Giấy tờ chứng minh về trụ sở của VPCC đáp ứng điều kiện quy định tại
Điều 9 Nghị định này.

20


Trong trường hợp trụ sở là nhà thuê, mượn thì phải kèm theo hợp đồng
thuê, mượn nhà có thời gian tối thiểu là năm năm kể từ ngày làm thủ tục đăng
ký hoạt động VPCC;
+ Giấy tờ chứng minh nơi đăng ký thường trú tại địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở VPCC của CCV thành lập VPCC, CCV
là thành viên hợp danh của VPCC đối với VPCC chứng do hai công chứng viên
trở lên thành lập.

+Số lượng hồ sơ là 01 bộ, được nộp trực tiếp hoặc thơng qua hệ thống bưu
chính đến bộ phận tiếp nhận hồ sơ của Sở Tư pháp, ngoài bì ghi rõ Hồ sơ đăng
ký hoạt động VPCC.
Văn phịng công chứng được hoạt động công chứng kể từ ngày Sở Tư
pháp cấp giấy đăng ký hoạt động.
2.3 Hạn chế của việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng
Với chủ trương xã hội hố và chính sách hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển đối
với mơ hình VPCC trong tương lai, mơ hình PCC sẽ bị thu hẹp, thay thế vào
đó VPCC sẽ là mơ hình chủ yếu thực hiện chức năng công chứng ở nước ta.
Tuy nhiên, khi thành lập VPCC, công chứng viên chỉ được phép lựa chọn hình
thức pháp lý duy nhất cho VPCC của mình là cơng ty hợp danh mà khơng có
sự lựa chọn nào khác. Một công chứng viên không thể thành lập VPCC mà phải
có ít nhất là hai cơng chứng viên trở lên cùng hợp danh mới đủ điều kiện để
thành lập VPCC. Xét dưới góc độ xã hội hóa quy định này đã làm cản trở, tạo
rào cản đối với tiến trình xã hội hóa cơng chứng ở nước ta nói chung, đặc biệt
tại những địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn nói riêng. Nhận định
nêu trên cũng đã được chỉ rõ trong Báo cáo số: 105/BC-BTP ngày 13 tháng 5
năm 2013 của Bộ Tư pháp Tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng là: “Chủ
trương xã hội hóa cơng chứng được triển khai chưa đồng bộ, có địa phương
21


×