Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Bồi thường thiệt hại cho khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của công ước viên 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.42 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO KHOẢN LỢI NHUẬN BỊ
BỎ LỠ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn

: Ths. NGUYỄN CHÍ THẮNG

Sinh viên thực hiện

: HUỲNH THỊ TRÚC LINH

MSSV: 1411270197

Lớp: 14DLK05

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời tri ân và biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Chí Thắng
là người hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, động viên và giúp đỡ em rất nhiều trong suốt
quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô


trong khoa Luật, trường Đại học Cơng Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình
giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu. Xin
gửi lời cảm ơn tới các thầy trong Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo đã tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho em được học tập nghiên cứu để hồn thành khóa luận. Xin cảm ơn những
người thân yêu trong gia đình dành cho em sự quan tâm, chia sẻ, động viên, khích lệ
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để em hồn thành khóa luận này.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các tài liệu phân tích trong khóa luận có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa
từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Huỳnh Thị Trúc Linh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu................................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3
5. Kết cấu đề tài ............................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THIỆT HẠI VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ. .................................... 5
1.1 Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại ............................................................... 6
1.1.1 Khái niệm thiệt hại ……................................................................................... 6
1.1.2 Khái niệm bồi thường thiệt hại .......................................................................... 8
1.2 Phân loại bồi thường thiệt hại.................................................................................. 11
1.2.1 Bồi thường thiệt hại vật chất ............................................................................ 11
1.2.2 Bồi thường thiệt hại tinh thần .......................................................................... 11
1.3 Căn cứ áp dụng biệp pháp bồi thường thiệt hại ....................................................... 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 20
CHƯƠNG 2. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI CHO KHOẢN LỢI NHUẬN BỊ BỎ LỠ
THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ...... 22
2.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại cho khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của
Công ước Viên 1980 ...................................................................................................... 22
2.2 Mục đích áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại cho khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ .... 24
2.3 Xác định khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của Công ước Viên 1980 thông
qua một số bản án thực tế. ............................................................................................. 29
2.3.1 Thực tiễn giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại do mất lợi nhuận theo
Công ước Viên năm 1980…………… ............................................................................ 29
2.3.2 Xác định mức thiệt hại do mất lợi nhuận ......................................................... 30
2.4 Một số kiến nghị liên quan ...................................................................................... 41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 44
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 49


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kì mà xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay là xu
hướng tồn cầu hóa và khu vực hóa đời sống kinh tế quốc tế. Sự liên kết về kinh tế

và thương mại diễn ra ở cả cấp độ toàn cầu và cấp độ khu vực. Tất cả các quốc gia
đều phải đối mặt với xu hướng này và đang tìm cách hội nhập nền kinh tế của mình
với nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã tham gia hội nhập WTO, TPP và đã là thành
viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế…
Đang đứng trước xu hướng với những cơ hội và thách thức lớn, có thể khẳng định
rằng trong những năm qua, chính sách hội nhập quốc tế đã tạo ra những thuận lợi
nhất định cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Từ lâu, hợp đồng đã trở thành một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các
chủ thể phát sinh từ các giao dịch dân sự, kinh tế. Hợp đồng có một vai trị hết sức
quan trọng, nó được thể hiện trong hầu hết các quan hệ của các bên trong nhiều lĩnh
vực. Kèm theo đó, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới
cũng được cân bằng thông qua Công ước Viên 1980. Do mỗi quốc gia là một tập
tục cũng như có nhiều cách thức làm ăn khác nhau nên việc mua bán trao đổi hàng
hóa giữa các quốc gia có khi xảy ra mâu thuẫn cũng là điều dễ hiểu. Nhờ có Cơng
ước viên mà các quốc gia có thể dễ dàng giao lưu hợp tác thông qua một chuẩn mực
chung đã được định sẵn.Và đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà
các quan hệ dân sự kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và mở rộng, mua bán hàng
hóa lại là hoạt động chính trong hoạt động thương mại và được thể hiện dưới hình
thức hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có vai trị quan trọng trong nền kinh tế cũng như
đời sống xã hội như: là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
chính các chủ thể kinh doanh, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra, mở rộng
quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Khi giao kết hợp đồng thì chủ thể đều
muốn hợp đồng đảm bảo được tính pháp lý để dễ dàng thực hiện. Tuy nhiên, vì
nhiều lí do khách quan cũng như chủ quan mà hợp đồng giao kết có thể khơng thực
hiện được và theo như chúng ta biết việc đó có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng suy
cho cùng hợp đồng là để để đảm bảo quyền và lợi ích của hai bên mang lại lợi
nhuận cũng như tăng cường hợp tác, phát triển các mối quan hệ đối tác và để tránh
khi có tranh chấp xảy ra thì có cơ sở để giải quyết. Ở đây, lợi nhuận bao gồm trước
và sau khi xảy ra thiệt hại. Trong trường hợp các bên thực hiện hợp đồng mua bán

hàng hóa với nhau nhưng vì một số lý do bất kì nào mà hàng khơng giao được đến
tay người mua thì khoản lợi mà người mua đáng lẽ được hưởng liệu có phải sẽ được
bồi thường thoả đáng hay không?


2
Nếu một trong các bên vi phạm hợp đồng thì phải bồi thường theo trách nhiệm
pháp luật và các Công ước quốc tế quy định trừ một số trường hợp được trách
nhiệm. Để giải quyết vấn đề này cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên thì vai trị của Cơng ước Viên là khơng thể khơng nhắc đến. Thế nhưng hoạt
động mua bán hàng hóa là hoạt động cốt lõi của hoạt động thương mại mà Luật
Thương mại Việt Nam hiện hành lại không quy định chi tiết. Công ước Viên 1980
đối với vấn đề này lại có đề cập đến “Bồi thường thiệt hại cho khoản nhuận bỏ lỡ
theo quy định Công ước Viên 18980”. Đây thật sự là một vấn đề mà theo tơi thấy
nó mang tính cấp thiết và đáng quan tâm. Nhưng chỉ nhắc đến lợi nhuận trong họat
động mua bán hàng hóa thì chưa rõ. Ta khơng những phải biết lợi nhuận có tầm
quan trọng gì trong kinh doanh thương mại mà cịn phải hiểu rằng vì sao mà lại có
quy định về biện pháp áp dụng bồi thường thiệt hại này cũng như mục đích của biện
pháp áp dụng bồi thường thiệt hại cho khoản nhuận bỏ lỡ theo quy định của CISG.
Thực tiễn các quốc gia phát triển trên thế giới đã áp dụng biện pháp này và quan
trọng hơn là muốn áp dụng dụng được biện pháp này cần phải có các căn cứ chứng
minh phải mang tính hợp lý. Thiết nghĩ Việt Nam mình cũng nên có những văn bản
để nội hóa hệ thống pháp luật để có những chính sách nâng cao hơn trong vấn đề
bồi thường thiệt hại cho khoản nhuận bỏ lỡ này.
Từ đó, tơi mong muốn được tìm hiểu về vấn đề “Bồi thường thiệt hại cho
khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của Công ước Viên 1980”. Đây là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết trong giải quyết cho bên bị thiệt hại khoản
lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của Công ước Viên 1980 trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay thì vấn đề này chưa được bình luận nhiều ở Việt Nam. Nhìn chung,

vấn đề bồi thường thiệt hại thì được quy định tại Luật Thương mại 2005 và Luật
dân sự 2015 hiện hành. Tuy nhiên, những quy định này chỉ có ý nghĩa trong việc
giao lưu, thoả thuận hàng hóa kinh tế trong nước. Chính vì thế những tài liệu điện
tử trong nước và nước ngoài như tạp chí và các vụ kiện tụng thực tế từ các Tòa án,
thẩm phán tối cao các quốc gia bạn bè trên thế giới và đặc biệt là ý kiến của Hội
đồng cố vấn CISG (CISG Advisory Council) đối với tơi là các tài liệu, kiến thức
vơ cùng q báu cho đề tài khóa luận này như:
- Cơng ước Viên 1980 (CISG 1980) quy định về bồi thường khoản lợi nhuận
bị bỏ lỡ tại Điều 74
- Bộ Luận dân sự 2015 quy định về Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
- Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua luật thương mại
Việt Nam, Công ước Viên 1980 được đăng ngày 10/12/2009 của Nguyễn Thị Hồng
Trinh - Khoa Luật, Đại học Huế.


3
- Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được đăng ngày 05/04/2010 của Thạc sĩ Nguyễn Minh
Oanh – Khoa Pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội.
- Tạp chí Luật Thương mại Bắc Âu về việc thu hồi lợi nhuận đã mất Theo
Điều 74 của Công ước về bn bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc.
- Các tài liệu trên trang Cisgac.com như: /> />- Các tài liệu liên quan trên trang Google và Scholar Google
- Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đi vào vấn đề chung, khơng nghiên cứu
cụ thế và tồn diện về bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo Công ước Viên
1980.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo Công ước Viên
1980 bao gồm cơ sở lý luận, đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng.
b. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận quy định pháp luật về bồi thường khoản lợi
nhuận bị bỏ lỡ theo Cơng ước Viên 1980. Bên cạnh đó cịn có một số nội dung về
Bồi thường thiệt hại trong nói chung trong BLDS 2015, Luật Thương mại 2005,
Công ước Viên 1980, các Luật Quốc gia và các văn bản liên quan khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp luận
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu khóa
luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp nghiên cứu
khoa học biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
b. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp cụ thể:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản
về bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo Công ước Viên 1980

- Phương pháp điều tra, bình luận: Đưa ra các ví dụ thực tế để phân tích việc
áp dụng luật, cũng như bình luận các bản án, nhằm đánh giá việc thực hiện pháp
luật trong thực tế.

- Phương pháp so sánh: Các quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật một
số nước trên thế giới.


4

- Phương pháp phân tích đánh giá: Để đánh giá pháp luật và tìm ra những hạn
chế của pháp luật quy định chưa phù hợp, nhằm đưa ra một số hướng giải quyết cụ
thể.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

đề tài được kết cấu gồm có 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Chương 2: Xác định thiệt hại cho khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo quy định của
Công ước Viên 1980


5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THIỆT HẠI VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ.
Các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện chủ
yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong khoa học
pháp lý hiên nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa có một cách xác định thống nhất tính quốc tế
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ nêu lên một số khái niệm hay một
số cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này. Mua bán hàng hóa là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên
bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng
hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán 1. Hoạt động thương
mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại hàng
hóa, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu
tư…Trong đó các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa ln diễn ra sơi
động nhất, giữ vị trí trung tâm trong các giao dịch thương mại quốc tế2.
Theo Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế tính chất quốc tế chỉ được xác định bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là
bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau:

- Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,

- Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước
thành viên Công ước này.
Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau khơng tính
đến nếu sự kiện này khơng xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành
hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa
các bên.
Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân
sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng
của Công ước này3.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 khơng đưa ra tiêu chí để xác định tính
chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà liệt kê những hoạt động
Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa luật – pháp luật hợp đồng.
Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - />3
Điều 1 Công ước Viên 1980
1
2


6
được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27 nêu rõ mua bán quốc tế được thực
hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập
và chuyển khẩu4.
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, thì các bên có quyền tự do thỏa
thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật có thể
là luật quốc gia, điều ước quốc tế và cả án lệ. Nếu các bên không lựa chọn được luật
áp dụng khi ký kết hợp đồng hoặc sau khi hợp đồng được ký kết, hoặc là khi xảy ra
tranh chấp thì luật được lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng sẽ do Hội đồng trọng tài
chọn. Việc thực hiện hợp đồng đôi khi sẽ có những trường hợp khơng thực hiện
đúng hay thực hiện không đầy đủ nghĩ vụ quy định trong sự thoản thuận của một
bên làm cho bên kia bị thiệt hại và theo nguyên tắc công bằng, bên nào vi phạm hợp

đơng gây thiệt hại tới đâu thì bồi thường để khắc phục hậu quả đó.. Vì mục đích
chính của việc giao kết hợp đồng đó chính là lợi nhuận quan trọng hơn hết là để yêu
cầu được bồi thường các khoản lợi nhuận đó. Vì thế, vấn đề về bồi thường thiệt hại
khi có hành vi vi phạm hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng sẽ
theo pháp luật mà các bên thỏa thuận5.
1.1 Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại
1.1.1 Khái niệm thiệt hại
Theo CISG: Thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy đinh
của Cơng ước Viên 1980 là các tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã
phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng của bên vi phạm6.
Trong quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CISG thiệt hại bao gồm
hai loại đó là các tổn thất và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ.
Tổn thất là những mất mát, thiệt hại vật chất và tinh thần có thể xác định bằng
cách đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp mức độ thiệt hại. Những mất mát, thiệt hại
này do hành động cố ý của con người hoặc nội tớ của tài sản (chẳng hạn như do đập
cũ xây mới, hàng hóa tự giảm giá trị…) nhưng cũng có thể là hậu quả của ngun
nhân khơng mong đợi (động đất, núi lửa, sụt giá…). Trong thực tế những tổn thất có
nguyên nhân từ hành động có chủ đích của con người thường khơng được quan tâm
và ngun cứu đầy đủ bởi nó được coi là đương nhiên.

Điều 27 Luật Thương Mại 2005
Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm - />UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/qt/tintuc/Lists/ThongTinKhac&ListId=4c6dbf3e-4730ca-94e4-339ee75540ef&SiteId=b11f9e79-d495-439f-98e6-4bd81e36adc9&ItemID=1299&SiteRootID=b
71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3
6
Điều 74 Công ước Viên 1980
4
5


7

Lợi nhuận bị bỏ lỡ:
Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu
tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội;
là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí7.
Lợi nhuận trong mua bán hàng hóa: tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí”, lợi
nhuận là số tiền mà một doanh nghiệp thu được trong suốt kỳ kế tốn nhất định.8
Để tính được lợi nhuận này ta sẽ bắt đầu bằng việc cộng tất cả tiền thu được từ hoạt
động kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định (ví dụ, một quý, một năm,
một tháng...). Tính tổng doanh thu bán hàng hóa hay cung cấp dịch vụ của doanh
nghiệp trong khoảng thời gian đang được đề cập đến. Chi phí kinh doanh có thể rất
đa dạng tùy thuộc vào loại hình hoạt động mà doanh nghiệp tham gia. Nói chung,
tổng chi phí kinh doanh thể hiện tất cả số tiền mà doanh nghiệp đã chi ra trong một
kỳ kế tốn đã xác định.
Như vậy, có thể hiểu rằng khoản lợi trong hoạt động mua bán hàng hóa là số
tiền mà thương nhân có thể thu về được trong q trình kinh doanh mua bán hàng
hóa của mình khi đã trừ di hết tổng chi phí bỏ ra. Và trong qui định của CISG lợi
nhuận là một loạt thiệt hại được qui định tại điều 74. Tóm lại, lợi nhuận bị bỏ lỡ tức
là số lợi nhuận đó bên bị vi phạm bị mất khơng được hưởng số lợi nhuận đó từ hàng
hóa mà mình mình đã kí kết hợp đồng mua bán do hành vi vi phạm hợp đồng của
bên vi phạm gây nên.
Theo từ điển Việt Nam: Thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản,
danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ9.
Khái niệm thiệt hại được bồi thường dưới góc độ ngơn ngữ học, theo đại từ
điển tiếng Việt, thiệt hại được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của”.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt
hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức
được pháp luật bảo vệ”. Dưới góc độ luật thực định, theo quy định tại điều 361 Bộ
luật Dân sự năm 2015 có thể hiểu thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại
về tinh thần. Trong đó, thiệt hại về chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được,

bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về

7
8

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cách tính lợi nhuận />Thư viện pháp luật - />9


8
tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và
các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể 10.
1.1.2 Khái niệm bồi thường thiệt hại
Theo CISG: Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm do khơng thực hiện
hay thực hiện khơng đúng nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tất cả
các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng. Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là việc bồi thường khi có thiệt hại xảy ra điều đó cũng
đồng nghĩa với việc đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Hợp đồng được giao kết và
các bên phải có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình “do một bên vi phạm hợp
đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải
chịu do hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể
cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự
liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm hợp
đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”11.
Tổn thất và các khoản lợi mà đáng lẽ bên bị thiệt hại phải gánh chịu trong thực
tế thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng sẽ là: những tài sản và số lời của hàng hóa
bị mất hoặc bị hủy hại hồn tồn, những hư hỏng, giảm sút về tài sản, chi phí mà
bên bị vi phạm trong hợp đồng phải bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục

những hậu quả do bên vi phạm hợp đồng gây ra.
Các khoảng thiệt hại phải được tính tốn và chứng minh một cách hợp lý. Tính
hợp lý ở đây được đánh giá một cách hợp lý và khách quan dựa trên thực tiễn các
yếu tố tranh chấp và của thị trường. Nguyên tắc này không cho phép các bên thổi
phồng thiệt hại của mình lên một cách vơ căn cứ bất hợp lí. Việc kiểm tra tính khả
thi trước tiên về cơ bản là một tiêu chuẩn khách quan, trong đó vấn đề là liệu một
người hợp lý có ở vị trí của người hứa hẹn và với kiến thức về hoàn cảnh xung
quanh việc ký kết hợp đồng, có nên dự đốn những tổn thất có thể xảy ra vào thời
điểm kết luận của hợp đồng12. Hạn chế quan trọng này trong việc thu hồi lợi nhuận
là để ngăn ngừa bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại do bên bị vi phạm gây ra.
Điều kiện để được bồi thường thiệt hại là có vi phạm, lỗi, có thiệt hại xảy ra.
Theo Luật các quốc gia khác: Chế định bồi thường thiệt hại là một chế định
quan trọng trong pháp luật dân sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng,
nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại do sự vi phạm của bên có nghĩa vụ vi
Tìm hiểu về thiệt hại được bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2017 - />11
Điều 74 Công ước CISG 1980
12
Xem schlechtriem /schwenzer /stoll /gruber, bình luận về hợp tác quốc tế về hàng bán hàng quốc tế, 2d ed.,
oxford, điều. 74, ở trang765.
10


9
phạm hợp đồng từ chủ thể khác. Ở mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về
chế định này, song hầu như đều thống nhất theo nguyên tắc: “Người nào gây ra
thiệt hại thì phải bồi thường, thiệt hại tới đâu thì bồi thường tới đó”. Có thể dẫn
chứng từ pháp luật của một vài quốc gia khác như13:
- Điều 1382 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Bất cứ hành vi nào của một người
gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại”,

Điều 1382 Bộ luật dân sự Pháp còn quy định: “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về
thiệt hại do mình gây ra, khơng những do hành vi mà còn do sự cẩu thả hoặc thiếu
thận trọng”.
- Điều 420 Bộ luật dân sự Thái Lan quy định: “Một người cố tình hay vơ tình
làm tổn thương một cách trái pháp luật đến đời sống thân thể, sức khỏe, tự do, tài
sản hoặc bất cứ quyền nào của người khác thì bị coi là phạm một hành vi sai trái và
nghĩa vụ bồi thường tổn thương đó.”
- Điều 416 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại
sẽ có giá trị đối với việc bồi thường các thiệt hại mà bình thường sẽ xảy ra do việc
khơng thực hiện trái vụ. Trái chủ có quyền được bồ thường cả những thiệt hại xảy
ra trong tình huống đặc biệt nếu các bên biết trước hoặc phải biết trước các tình
huống đó.”
Theo luật Việt Nam: Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định về chế tài bồi
thường thiệt hại tại Điều 302. Chế tài này sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế khi luật điều chỉnh hợp đồng là luật Việt Nam.
“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà
bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
Bên cạnh đó Luật Dân sự 2015 cịn quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền
dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”14. Và quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác”15. Quy định này được hiểu: bên vi phạm
Chế định bịi thường thiệt hại trong hợp đơng thương mại quốc tế - />14
Điều 13 BLDS năm 2015
15
Điều 360 BLDS năm 2015

13


10
nghĩa vụ, mà hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia, thì phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, hoặc luật có quy định
khác.Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng, Điều 419 BLDS năm 2015,
quy định:
“1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này.
2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra
mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền cịn có thể yêu cầu
người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do khơng hồn thành nghĩa vụ hợp đồng
mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tịa án
quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.”
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan niệm pháp lý của Việt Nam và hầu
hết các nước trên thế giới thì đó là trách nhiệm tài sản. Nó là biện pháp sữa chữa để
đảm bảo nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng giữa các bên trong hợp đồng thương
mại quốc tế, cũng như các hợp đồng mua bán hàng hóa thơng thường. Trách nhiệm
bồi thương thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên nó có đầy đủ đặc điểm của
trách nhiệm dân sự. Nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu cho chủ thể bị thiệt hại,
do vậy mà nó mang đầy đủ các đặc điểm và tính chất của một trách nhiệm dân sự.
Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là sự vi phạm nghĩa vụ (nghĩa vụ
theo hợp đồng hoặc nghĩa vụ theo luật định). Sự vi phạm nghĩa vụ có thể biểu hiện
qua khơng thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chậm thực hiện
nghĩa vụ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể do các bên tự thỏa thuận hoặc do luật
định. Cơ chế này xuất phát từ nguyên tắc “tự do, bình đẳng thỏa thuận của các bên”

trong quan hệ dân sự, các bên tự mình thỏa thuận chế tài bồi thường thiệt hại khi có
sự vi phạm hợp đồng, chỉ cần các thỏa thuận này nằm trong khuôn khổ pháp luật và
được duy trì bởi ý chí của các bên. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được
thực hiện bởi người gây thiệt hại hoặc các chủ thể khác. Mục đích chính của trách
nhiệm này theo quan niệm pháp lý của Việt Nam khơng phải là mục đích trừng phạt
mà là khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra. Do vậy, nó chú trọng tới
khắc phục hậu quả trên thực tế. Vì vậy, bản chất pháp lý của nó là một khoản đền
bù cho những tổn thất đã gây ra, nó có thể được thanh tốn bởi người gây ra thiệt
hại cũng có thể là bên thứ ba như: chủ sử dụng lao động bồi thường thay cho người
làm công... Đây là trách nhiệm về tài sản. Tính chất này thể hiện ở việc dù hành vi
gây thiệt hại về vật chất hay tinh thần cho chủ thể bị vi phạm thì chủ thể vi phạm


11
luôn phải bồi thường bằng tài sản để bồi đắp những thiệt hại và tổn thất đã gây ra.
Khoản đền bù này đều đươc quy ra vật chất vì dù đó là những tổn thất về danh dự,
uy tín nhưng trong quan hệ kinh doanh mua bán thì nó gây thiệt hại rất nhiều tới lợi
ích kinh tế. Việc chỉ bồi đắp tinh thần không đủ để khắc phục những hậu quả trên
thực tế, mà những giá trị vật chất một phần giúp họ khắc phục hậu quả, một phần
cũng tạo nên áp lực cho bên vi phạm hợp đồng sẽ khơng có hành vi tương tự trong
tương lai.
Giới hạn bồi thường: nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, các thiệt hại được xác định
theo quy định của pháp luật, bao gồm cả những thiệt hại về vật chất và thiệt hại tinh
thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hai được xác định do sự thỏa thuận của các bên,
có thể là một khoản tiền ấn định trước hoặc xác định theo hậu quả thực tế. Ngồi ra
có một lưu ý là từ trước đến nay chưa có một tiền lệ nào mà thiệt hại về tinh thần
được bồi thường nếu không có sự thỏa thuận từ trước.
1.2 Phân loại bồi thường thiệt hại
1.2.1 Bồi thường thiệt hại vật chất
Là bồi thường cho những tổn thất về vật chất do hành vi vi phạm hợp đồng

gây ra16.
Bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế,
tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp
lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút.
Khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ cũng là một trong các loại trách nhiệm được bồi
thường thiệt hại vật chất được tính thành tiền. Cụ thể, đây là loại thiệt hại xảy ra do
một bên vi phạm hợp đồng và để bồi thường thiệt hại mà bên kia đã phải chịu do
hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn
số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký
kết hợp đồng như một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các
tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết17.
1.2.2 Bồi thường thiệt hại tinh thần
Đó là uy tín hay danh tiếng của bên bị thiệt hại mang yếu tố tinh thần làm suy
giảm vị thế trên thương trường mua bán hàng hóa quốc tế mà bên bị vi phạm phải
gánh chịu do hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra.

16
17

Điều 74 CISG 1980 ý 1
Điều 74 Công ước CISG 1980


12
Tuy nhiên CISG không quy định cụ thể về loại thiệt hại này, ví dụ thiệt hại do
ảnh hướng đến uy tín của một bên có được bồi thường hay khơng. Mặc dù việc địi
bồi thường thiệt hại tinh thần ít xảy ra đối với hợp đồng mua bán hàng hóa (mà chỉ
thường xảy ra trong những trường hợp ký kết với nghệ sĩ, vận động viên cấp cao
hoặc những nhà tư vấn thuộc một công ty hay một tổ chức), các bình luận chính

thức của CISG khẳng định bên bị thiệt hai tinh thần được đòi bồi thường, với điển
kiện phải tuân thủ các yêu cầu của CISG về tính dự đốn trước được của thiệt hại và
phải chứng minh một cách hợp lý.
Việc bồi thường thiệt hại tinh thần có thể được xác định dưới những hình thức
khác nhau và việc quyết định về các hình thức này, áp dụng riêng lẻ hay kết hợp,
sao cho phù hợp nhất với việc bồi thường toàn bộ thiệt hại thuộc vè tịa án. Tịa án
khơng những quyết định bồi thường thiệt hại mà cịn quyết định các hình thức sửa
chữa khác, như buộc cơng khai trên báo chí…
1.3 Căn cứ áp dụng biệp pháp bồi thường thiệt hại
Trong mối quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, khi xảy ra những thiệt hại gây
ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của các bên thì các bên sẽ bảo vệ quyền lợi của mình.
Nhưng để chứng minh được mình đã thiệt hại những gì thì bên bị thiệt hại cần phải
có đủ các căn cứ xác định hành vi phạm cũng như có đủ các căn cứ chứng minh cho
mình và chứng minh rằng bên bên vi phạm có hành vi vi phạm gây thiệt hại. Cụ thể
có thể phân tích theo các khía cạnh như:
Về tính dự đốn trước của thiệt hại
Xét theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam thì có quy định về tính thực
tế và tính trực tiếp của thiệt hại mà không quy định về tính dự đốn trước nhưng
CISG lại có đề cập đến vấn đề này “bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự
liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp
đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”18. Mặc dù, nếu
thiệt hại là thực tế và trực tiếp thì nó phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi
phạm. Tuy nhiên, việc thiệt hại có mối quan hệ nhân quả khơng chắc chắn là phải
có tính dự đốn trước19. Trong một vài trường hợp khơng thể dự đốn trước như sự
kiện bất khả kháng, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp có thể dự đốn được trước
thiệt hại có thể xảy ra, các bên có thể đưa ra những biện pháp khắc phục để giảm tới
mức tối đa thiệt hại có thể xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng gây nên. Song khi
pháp luật chưa có quy định cụ thể, mà chủ yếu là những suy luận được rút ra từ
pháp luật hay những phán quyết chủ quan của Thẩm phán thì nó khơng có sự thống
Trích Điều 74 CISG 1980

Chế định bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - />18
19


13
nhất trong cách thức giải quyết. Từ đó, gây nên sự hoang mang trong các bên khi
đưa ra giải quyết tranh chấp khi mà việc bồi thường không đủ để bồi đắp những tổn
thất hay những khoản bồi thường quá lớn chỉ do khơng có sự phối hợp xử lý giữa
các bên tham gia hợp đồng.
Về giá trị tính tốn của những khoản bồi thường thiệt hại
CISG khơng có hướng dẫn cụ thể về cách tính tốn và xác định những khoản
nào thuộc vào khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ mà tòa án được trao quyền xác định trong
từng trường hợp cụ thể20. Hội đồng tư vấn CISG có nêu ra ví dụ về khoản lợi nhuận
bị mất tồn tại dưới dạng mất đi doanh số bán hàng (“lost volume sales”). Theo đó,
lẽ ra bên mua có thể có được doanh số bán hàng nhất định nếu như nhận được hàng
đúng hợp đồng nhưng đã bị mất đi do hành vi vi phạm của bên bán. Cịn ở Việt
Nam nói riêng các quy định này đây là cách tính tốn khá thông dụng.
Về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại
Nghĩa vụ chứng minh là nghĩa vụ cần thiết và quan trọng trong tố tụng21. Việc
có địi được quyền lợi hay khơng và có được Tịa án hay Trọng tài xét xử, phán
quyết nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên ở mỗi góc độ Luật quy
định tại các quốc gia cũng như CISG quy định về nghĩa cụ này một cách khác nhau.
CISG tuy khơng nói rõ về vấn đề chứng minh nhưng theo quan điểm của Hội đồng
ý kiến CISG họ cho rằng: “bên bị thiệt hại có gánh nặng để chứng minh, với sự chắc
chắn hợp lý, rằng nó bị mất mát. Bên bị thiệt hại cũng có gánh nặng để chứng minh
mức độ mất mát, nhưng khơng cần phải làm như vậy với độ chính xác toán
học”22. Bên bị vi phạm họ phải chứng minh mức độ tổn thất, tổn thất do hành vi vi
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm. Việc đưa ra những chứng cứ chứng minh những tổn thất
do hành vi vi phạm gây ra không phải là điều đơn giản và nguyên đơn bắt buộc phải

chứng minh được một cách hợp lý nếu có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đồng tiền tính tốn thiệt hại
Mặc dù đây cũng là một vấn đề có thể gây nên tranh chấp giữa các bên, do giá
trị đồng tiền ở mỗi quốc gia là khác nhau, và có sự chênh lệch đáng kể. Song pháp
luật Việt Nam khơng có quy định về đồng tiền dùng để tính tốn thiệt hại. Tuy vấn
đề khơng gây ra q nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp trong thực
Chế định bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - />21
Chế định bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - />22
Tính toán thiệt hại theo Điều 74 CISG - CISG Hội đồng tư vấn ý kiến số 6 - https://
www.cisgac.com/opinions/
20


14
tế xét xử, song một cơ chế pháp luật rõ ràng cũng sẽ giúp các bên giải quyết tranh
chấp nhanh chóng và tránh những mâu thuẫn khơng đáng có23.
Tóm lại qua các khía cạnh phân tích căn cứ áp dụng biện pháp bồi thường thì
điều kiện để được bồi thường thiệt hại nói chung được quy định trong luật Việt
Nam hay các quốc gia khác là các yếu tố về hành vi vi phạm, lỗi, có thiệt hại xảy ra
và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra. Công ước
Viên 1980 mặc dù không quy định các căn cứ như luật các quốc gia khác hay giống
như Việt Nam nhưng qua các án lệ đã được các tòa án xem xét giải quyết thì cũng
ngầm hiểu rằng đó là các căn cứ để kết luận có được yêu cầu bồi thường. Đây được
coi là các yếu tố cần và đủ để làm các căn cứ xác định thiệt hại và quan trọng hơn là
chứng minh được thiệt hại để được yêu cầu bồi thường thiệt đã xảy ra đó như là:
Có hành vi vi phạm hợp đồng
Vể phương diện học thuật, trên thế giới có khá nhiều học giả đưa ra về khái
niệm vi phạm hợp đồng24. Chẳng hạn như giáo sư Treitel cho rằng vi phạm hợp
đồng xảy ra khi một bên khơng hoặc từ chối những gì mà anh ta có nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng mà khơng có lý do hợp pháp hoặc thực hiện không đúng hoặc khơng

có khả năng thực hiện, như vậy theo cách hiểu này thì trong mọi trường trường hợp
nếu khơng thực hiện được những yêu cầu như đã cam kết chỉ bị xem là vi phạm hợp
đồng khi khơng có lý do hợp pháp. Hay vi phạm hợp đồng xảy ra nếu một bên giao
kết hợp đồng thiếu sót trong thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Với vai trò là luật quốc tế
thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và dung hòa các hệ thống pháp
luật khác nhau, các nhà soạn thảo Công ước Viên không tiếp cận sự vi phạm hợp
đồng dựa trên sự phân loại vi phạm nghĩ vụ hợp đồng như các quốc gia riêng, mà
thay vào đó họ tiếp cận khái niệm vi phạm hợp đồng dưới góc độ chung nhất. Mặc
dù khơng đưa ra định nghĩa, Công ước Viên tiếp cận nghĩa vụ vi phạm hợp đồng
theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả hành vi không tuân thủ quy định của hợp đồng
như không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ hoặc không đầy đủ
hoặc không phù hợp mà khơng khơng phân biệt được là nghĩa vụ chính hay phụ, kể
cả trường hợp miễn trách nhiệm.
Nghĩa vụ của người bán và người mua không chỉ phát sinh trong thỏa thuận
hợp đồng mà còn từ những quy định của Công ước Viên nếu thuộc trường hợp quy

Chế định bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - />24
Luận án tiến sĩ Luật học về vấn đề vi phạm hợp đồng theo CISG - /garmen
tspace/lun-n-tin-s-lut-hc-vi-phm-c-bn-hp-ng-theo-quy-nh-ca-cng-c-vin-nm-1980-v-hp-ng-mua-bn-hng-ha-uct-v-nh -hng-hon-thin-cc-quy-nh-c-lin-quan-ca-php-lut-vit-nam
23


15
định của Cơng ước tại Điều 125. Ngồi ra cịn có thể phát sinh từ các tập quán mà
các bên đã thảo thuận hoặc thói quen mà các bên đã thỏa thuận với nhau.
Có thiệt hại thực tế xảy ra
Thiệt hại được coi là yếu tố bắt buộc và tiền đề để quyết định có phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại trong vi phạm hợp đồng được
hiểu là thiệt hại về vật chất. Có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp và việc xác
định thiệt hại là điều vô cùng quan trọng. Thông thường, thiệt hại mà tái chủ gánh

chịu có thể là thiệt hại vật chất26. Thiệt hại vật chất bao gồm các loại như sau:

- Thiệt hại trực tiếp là một loại thiệt hại mang tính chất thực tế, có thể tính
tốn được một cách cụ thể, tổn thất thực tế gồm có: giảm tài sản bằng hiện vật như
khi một bên vi phạm một nghĩa vụ nào đó làm cho tài sản của bên kia giảm sút và
các chi phí đã chi ra và chi thêm.

- Thiệt hại gián tiếp là các khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ, các khoản thu đáng lý ra
được nhận nếu bên kia thực hiện đúng hợp đồng nhưng đã khơng được nhận. Đây
chính là những khoản lợi mất hưởng mà khi kí kết hợp đồng các bên đều mong đợi.
Những khoản lợi này dựa trên thực thế nếu khơng có vi phạm hợp đồng, bên bị vi
phạm có nhận được hay khơng khơng quan trọng mà cứ có vi phạm gây thiệt hại
làm mất khoản lợi dự trước đó, người bị vi phạm vẩn được quyền đòi bên vi phạm.
Để đòi bồi thường thiệt hại thực tế, bên bị vi phạm phải chứng minh được là mình
có thiệt hai đó và để thốt tránh nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh ngược lại.
Lỗi
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về việc một bên không quan tâm
và quan tâm không đúng mức tới việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Ở đây cụm từ
“không quan tâm” được hiểu là vô ý, không thực hiện nghĩa vụ, dù biết là sai nhưng
vẫn không chấp hành quy định của hợp đồng và do đó bị coi là có lỗi27. Cịn việc
“quan tâm khơng đúng mức” tức là hành vi vi phạm do cố ý, do sơ suất hoặc có thể
biết trước hậu quả của hành vi sơ suất đó song do quá cẩu thả mà không lường trước
mức độ hậu quả. Bên bị vi phạm có quyền u cầu địi bồi thường thiệt hại trong tất
cả các trường hợp nếu bên vi phạm đã vi phạm lỗi trong hợp đồng mua bán hàng
hóa theo quy định của CISG nhưng với điều kiện bên bị vi phạm phải có khả năng
dã dự liệu được vào lúc giao kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi
phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết. Trừ
Điều 1 Công ước Viên 1980
Các biện pháp khắc phục bồi thường thiệt hại hợp đồng thương mại quốc tế - https://text.123doc .org/
document/3008959-cac-bien-phap-khac-phuc-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-quoc-te.htm

27
Các biện pháp khắc phục bồi thường thiệt hại hợp đồng thương mại quốc tế - />document/3008959-cac-bien-phap-khac-phuc-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-quoc-te.htm
25
26


16
các trường hợp được miễn trách bồi thường thiệt hại. CISG quy định “một bên
không chịu trách nhiệm về việc khơng thực hiện bất kì một nghĩa vụ nào đó của
họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện đó là do một trở ngại nằm
ngồi sự kiểm sốt của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lí rằng
họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc
phục được hậu quả của nó28”.
Miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự gạc bỏ
những chế tài mà thông thường vẫn được áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm
hợp đồng đối với bên bị vi phạm, làm cho bên có quyền mất đi sự bảo đảm trách
nhiệm thơng thường hay nói một cách khác, miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là việc bên bị vi phạm được giải quyết thoát khỏi trách nhiệm
do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế do đưa ra được những cơ
sở, căn cứ miễn trách nhiệm.
Cụ thể trong trường hợp bất khả kháng, đây là một trong những trường hợp
được miễn của CISG 1980 quy định điều 79. Sự kiện bất khả kháng là những sự
kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng; là sự kiện xảy ra không do lỗi của các
bên trong hợp đồng. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm phổ biến nhất. Khi bên
bên vi phạm chứng minh được mình gặp trở ngại khách quan mà không thể chống
đỡ được buộc phải vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mặc dù đã nỗ lức để vượt qua và
khắc phục hậu quả nhưng không đem lại kết quả. Bất khả kháng là điều khoản trong
hợp đồng mà các bên thỏa thuận đồng thời cũng là căn cứ miễn trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng được pháp luật quy định.
Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả

kháng sẽ:

- Được miễn trách nhiệm nếu nghĩa vụ không được thực hiện, không được
thực hiện đầy đủ hoặc không được thực hiện đúng do sự kiện bất khả kháng gây ra;

- Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị
chậm trễ do sự kiện bất khả kháng
Một trở ngại được xem là trường hợp miễn trách phải thoả mãn đồng thời ba
điều kiện29 :
+ Xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các bên;

Khoản 1 Điều 79 CISG 1980
Điều kiện để được miễn trách theo khoản 2 Điều 79 CISG 1980
/>%E%BB%85n_trach_do_hanh_vi_c%E1%BB%A7a_ben_th%E1%BB%A9_ba_theo_di%E1%BB%81u_79
_CISG1
28
29


17
+ Khơng thể lường trước một cách hợp lí tại thời điểm kí kết hợp đồng;
+ Sự kiện và hậu quả của nó khơng thể tránh được hoặc khơng thể khắc phục
được.
Khi nhận dạng tranh chấp về trường hợp bất khả kháng theo CISG, tranh luận
của các bên thường xoay quanh các tiêu chí để cơng nhận một trường hợp là bất khả
kháng. Đơn cử như sự kiện trở ngại có phải là ngun nhân dẫn đến việc khơng
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; thế nào là “nằm ngoài sự kiểm soát” của một bên; thế
nào là “khắc phục được” hay “tránh được” sự kiện trở ngại; hay sự “không tiên liệu
trước” về những sự kiện như vậy phải được hiểu sao cho một cách hợp lý nhất.
Do đặc điểm phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế như sự mở rộng về

không gian, sự kéo dài về thời gian, sự khác nhau về địa lí, tập quán, quy định của
mỗi quốc gia mà khả năng xảy ra những trường hợp bất khả kháng là rất lớn. Bên
cạnh đó, do hậu quả pháp lí là được miễn trách và trong nhiều trường hợp có thể
thay đổi hồn tồn vị thế của các bên nên không tránh được khả năng các bên tìm
cách lợi dụng trường hợp bất khả kháng để cố gắng giải thốt trách nhiệm khi có
những hồn cảnh bất lợi xảy đến hoặc để trục lợi khi giá cả thị trường thay đổi theo
hướng có lợi cho bên mình30.
Ví dụ thực tế cho trường hợp miễn trách nhiệm dược yêu cầu bồi thường
thiệt hại31
Nguyên đơn: công ty Việt Nam
Bị đơn: công ty Ấn Độ
Cơ quán phán quyết: Ủy ban trọng tài
Ngun đơn (cơng ty Việt Nam) kí hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm
1995 mua của bị đơn (công ty Ấn Độ) 20.000 MT 4% xi măng Kumgang với giá 55
USD/MT CNF FO cảng Nha Trang, giao hàng vào tháng 12 năm 1995, thanh toán
bằng L/C không hủy ngang, L/C phải được mở trước ngày 30 tháng 9 năm 1995.
Trong quá trình bàn bạc, chuẩn bị soạn thảo kí kết hợp đồng mua bán xi măng
giữa nguyên đơn và bị đơn, thì vào tháng 8 năm 1995 bất ngờ xảy ra lũ lụt ở nước
thứ ba – nước của nhà cung cấp hàng cho bị đơn. Sau khi biết tin lũ lụt xảy ra,
nguyên đơn đã điện hỏi bị đơn là nếu có xi măng thì mới kí hợp đồng, nếu khơng có
thì khơng kí. Bị đơn trả lời rằng: đã điện hỏi nhà cung cấp (ở nước thứ ba) và nhà
Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế UNIDROIT (2010), Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế PICC.
Căn cứ miễn trách khi một bên vi phạm hợp đồng – Sự kiện bất khả kháng - />30
31


18
cung cấp đã điện lại khẳng định là mặc dù đang gặp nhiều khó khăn do lũ lụt nhưng
vẫn có xi măng để giao và do đó, ngày 20 tháng 9 năm 1995 bị đơn đã kí hợp đồng
số 09/95 để bán xi măng cho nguyên đơn với thời hạn giao hàng vào tháng 12 năm

1995 tại cảng Nha Trang. Đến ngày 19 tháng 6 năm 1996, bị đơn vẫn không giao
hàng cho nguyên đơn mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần nhắc nhở. Nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu ủy ban trọng tài giải quyết.
Bị đơn lập luận rằng bị đơn đã kí hợp đồng mua xi măng của nhà cung cấp
thuộc nước thứ ba nhưng vì nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy ngừng sản
xuất do lũ lụt) không giao được hàng cho bị đơn nên bị đơn khơng giao được hàng
cho ngun đơn. Do đó bị đơn cũng gặp bất khả kháng và được miễn trách nhiệm.
Phán quyết của ban trọng tài Trong tình huống này rõ ràng là có sự hiện diện
của trở ngại khách quan, tuy nhiên điều quan trọng là bị đơn đã biết trước được điều
đó, cho nên yếu tố khơng nhìn thấy trước hoặc khơng thể dự đốn trước của sự kiện
bất khả kháng khơng cịn nữa, do đó trở ngại khách quan mà bị đơn gặp phải không
thể coi là căn cứ miễn trách nhiệm đối với họ. Mặt khác, nếu căn cứ vào ngôn từ
của điều luật, khi các quy định trên đều sử dụng cụm từ “không thể chờ đợi một
cách hợp lí rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng”, điều đó có
nghĩa là trở ngại khách quan chỉ có được thể xem là sự kiện bất khả kháng khi nó
xảy ra sau khi hợp đồng đã được kí kết. Trong khi đó ở vụ việc trên thì trở ngại
khách quan đã xảy ra trước khi các bên giao kết hợp đồng (lũ lụt xảy ra vào tháng 8
năm 1995, các bên kí kết hợp đồng vào tháng 9 năm 1995), chỉ ngay ở điểm này
cũng đã đủ để cho trở ngại khách quan không được coi là sự kiện bất khả kháng.
Bài học kinh nghiệm
Trong thực tiễn tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế, thời gian thực hiện
hợp đồng kéo dài, hàng hóa được chuyên chở từ quốc gia này sang quốc gia khác
trên một khoảng cách lớn về địa lý; sự thay đổi về điều kiện tự nhiên, chính trị - xã
hội giữa các quốc gia khiến kinh doanh quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ hơn so
với kinh doanh thương mại trong nước. Để đề phòng các sự kiện bất khả kháng xảy
ra, các doanh nghiệp cần phải:

- Quy định rõ trong hợp đồng về các trường hợp miễn trách mà cụ thể là quy
định về bất khả kháng: điều khoản bất khả kháng thường được thỏa thuận trong hợp
đồng dưới dạng liệt kê hoặc đưa ra các tính chất chung có tính tổng hợp;


- Nội dung điều khoản hợp đồng cần quy định cụ thể về nghĩa vụ thông báo
của một bên cho bên còn lại khi sự kiện bất khả kháng xảy ra, thời hạn thơng báo,
hình thức thơng báo và các bằng chứng để chứng minh cho sự kiện bất khả kháng
kèm theo thông báo;


19

- Điều khoản về bất khả kháng phải quy định thêm nội dung về cách thức các
bên xử lý sự kiện bất khả kháng (kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng…)

- Lưu ý: ngay cả khi bất khả kháng xảy ra, các bên trong hợp đồng vẫn phải
thiện chí thực hiện hợp đồng, cần mẫn, hợp lý để áp dụng các biện pháp có thể
nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại hoặc ảnh hưởng tới quyền lợi của bên kia.


20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua chương một cho ta hiểu khái quát hơn về thiệt hại và bồi thường thiệt hại
ở mức độ chung nhất trong phạm vi mua bán hàng hóa quốc tế. Các thuật ngữ thiệt
hại hay bồi thường thiệt hại ta nghe rất nhiều trong đời sống thực tế hằng ngày. Tuy
nhiên, khái niệm cụ thể như thế nào thì mỗi quốc gia mỗi đạo luật lại quy định mỗi
cách khác. Nhưng chung quy thì khi có thiệt hại xảy ra, vấn đề bồi thường là vấn đề
luôn có mối quan hệ ràng buộc. Trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế sự mâu
thuẫn giữa các bên kí kết hợp đồng trong quan hệ hợp đồng và cả khi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng của các bên là điều khó tránh khỏi. Theo cách hiểu của thước đo
quốc tế CISG thì đó là những tổn thất và khoản lợi nhuận mà đáng lẽ bên bị vi
phạm đã được hưởng. Các quốc gia khác như Pháp, Thái Lan hay Nhật Bản và cụ

thể là Việt Nam nói riêng đều cũng có những quy định rõ về vấn đề thiệt hại và bồi
thường thiệt hại là phải bồi thường những tổn thất đã xảy ra do hành vi vi phạm vi
phạm hợp đồng. Nhưng thiệt hại xảy ra thì các loại bồi thường thiệt hại lại phải cẩn
trọng, xem xét xem chúng thuộc loại thiệt hại nào để bên gây ra hâu quả thiệt hại sẽ
phải bồi thường thiệt hại một cách cụ thể nhất. Bồi thường thiệt hại gồm 3 dạng
chính đó là: bồi thường thiệt hại tinh thần, bồi thường thiệt hại vật chất, và bồi
thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ.
Song, khơng phải cứ nói khi có thiệt hại xảy ra thì bên nào vi phạm thì mới
phải bồi thường. Việc áp dụng các căn cứ để chứng minh rằng bên vi phạm đã gây
ra thiệt hại cho bên bị vi phạm là rất quan trọng. Để xác định được bên vi phạm thì
chỉ mới là điều kiện cần. Các căn cứ phải được xác định rõ ràng, minh bạch và đầy
đủ hợp lý thì đây là điều kiện đủ khi tranh tụng. Việc xem xét các khía cạnh áp dụng
bồi thường thiệt hại bao gồm: xem xét về tính dự đốn của thiệt hại, về giá trị tính
tốn những khoản bồi thường, về nghĩa vụ chứng minh và về đồng tiền tính tốn
thiệt hại.. Nhưng cơ bản nhất vẫn là các yếu tố quan trọng như:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng, đây được xem là yếu tố đầu tiên cho vấn đề
bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Theo nhiều học giả lớn trên thế giới và theo
CISG đã tiếp cận với khái niệm này một cách rộng và chung nhất.
- Có thiệt hại thực tế xảy ra, thiệt hại được coi là yếu tố bắt buộc và tiền đề để
quyết định có phát sinh trách nhiệm bồi thường hay khơng bao gồm thiệt hại trực
tiếp và gián tiếp;
- Lỗi là yếu tố cuối cùng hay trong quy định pháp luật khác của nhiều quốc gia
họ gọi là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả thiệt hại xảy ra.


21
Khi có đầy đủ các yếu tố này thi bên bị vi phạm hồn tồn có thể u cầu lấy lại
những lợi ích của mình nếu khơng có hành vi vi phạm dẫn đến thiệt hại. Được yêu
cầu bồi thường thiệt hại cả các lợi ích và tổn thất trừ các thiệt hại được miễn trách
nhiệm.



×