Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HUỶ
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Th.S NGUYỄN MINH NHỰT
Sinh viên thực hiện:
MSSV: 1511271401

NGUYỄN TRẦN THANH TRÚC
Lớp: 15DLK11

Tp. Hồ Chí Minh - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HUỶ
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Ngành:


LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Th.S NGUYỄN MINH NHỰT
Sinh viên thực hiện:
MSSV: 1511271401

NGUYỄN TRẦN THANH TRÚC
Lớp: 15DLK11

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Suốt 4 năm được học tập và sinh hoạt Trường Đại học Cơng Nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh, thật hạnh phúc khi được theo học ngành nghề mình u thích và được
sự dìu dắt, sự giúp đỡ tận tình của tất cả Thầy Cơ. Để hồn thành khố luận tốt nghiệp
này trước hết tôi xin gửi đến Quý Thầy, Cô giáo trong khoa Luật Trường Đại học
Công Nghệ TPHCM - HUTECH sự tri ân và lòng biết ơn chân thành nhất.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy - Th.S - Luật sư Nguyễn
Minh Nhựt, người mà suốt 4 năm qua đã truyền đạt cho tôi không những về kiến thức
chuyên ngành mà còn những kinh nghiệm khi hành nghề Luật, cũng như định hướng
cho tơi có thể làm được những cơng việc gì khi học xong chương trình cử nhân Luật.
Trong quá trình làm khố luận khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cơ bỏ
qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của thầy, cơ để có thể học thêm được nhiều kinh nghiệm.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên


Nguyễn Trần Thanh Trúc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Trần Thanh Trúc, MSSV: 1511271401
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ quá
trình nghiên cứu tìm hiểu, kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước KHÔNG
SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên

Nguyễn Trần Thanh Trúc


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

VIAC

UNCITRAL

Tiếng Anh

Tiếng Việt

Vietnam International Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

bên cạnh phòng thương mại và công
Arbiration Centre
nghiệp Việt Nam
United Nations
Commission on
International Trade
Law

Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật Thương
mại quốc tế

NQ

Nghị quyết

HĐTP

Hội đồng thẩm phán


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 1
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ....................................................... 2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 3
6. Kết cấu của khoá luận ....................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ LUẬT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2010 .........................................................................4

1.1 Khái quát về phán quyết trọng tài ................................................................. 4
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của phán quyết trọng tài ....................................... 4
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của huỷ phán quyết trọng tài thương mại ............. 8
1.2 Khái quát về Luật Trọng tài thương mại 2010 ............................................. 9
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về huỷ phán
quyết trọng tài ...................................................................................................... 9
1.2.2 Bản chất và ý nghĩa về huỷ phán quyết trọng tài thương mại theo Luật
trọng tài thương mại 2010 ................................................................................. 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................13
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUỶ PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ................................................................................14
2.1 Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010 . 14
2.1.1 Nguyên nhân của việc huỷ phán quyết trọng tài thương mại ................... 14


2.1.2 Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài thương mại ........................................... 15
2.1.3 Nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài ................... 25
2.2 Trình tự, thủ tục huỷ phán quyết trọng tài thương mại ............................ 28
2.2.1 Trình tự, thủ tục yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài thương mại ............... 28
2.2.2 Trình tự thủ tục liên quan đến thẩm quyền của Toà án trong việc huỷ
phán quyết trọng tài thương mại ....................................................................... 32
2.2.3 Những lưu ý đối với phán quyết trọng tài nước ngoài ............................ 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................41
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VIỆC HUỶ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................................................................................42
3.1 Thực tiễn về việc huỷ phán quyết trọng tài................................................. 42
3.1.1 Thực tiễn về huỷ phán quyết trọng tài thương mại tại Việt Nam ............. 42
3.1.2 Bình luận huỷ phán quyết trọng tài thương mại ....................................... 44
3.2 Hệ quả pháp lý của huỷ phán quyết trọng tài thương mại và kiến nghị
hoàn thiện đối với pháp luật về huỷ phán quyết trọng tài thương mại .......... 48

3.2.1 Hệ quả pháp lý của huỷ phán quyết trọng tài thương mại ....................... 48
3.2.2 Kiến nghị hoàn thiện đối với pháp luật về huỷ phán quyết trọng tài
thương mại ......................................................................................................... 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................51
KẾT LUẬN ..............................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................53


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta có thể thấy, nền kinh tế Việt Nam sau quá trình hội nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) đang ngày càng phát triển vượt bậc. Chính vì thế, có
nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ra đời dẫn đến việc phát sinh tranh
chấp, cạnh tranh nhau là điều không thể tránh khỏi. Một trong những cách giải quyết
hiệu quả nhất là Tồ án. Bên cạnh đó, cịn có phương thức giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài thương mại – tối ưu khơng kém gì Tồ án. Tuy nhiên, thực tế đã chứng
minh qua thống kê sau:
Theo thống kê mới nhất của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (gọi tắt là VIAC), năm 2017 trong khi
Toà án nhân dân quận Bình Thạnh đã thụ lý giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại là hơn 370 vụ cịn tại VIAC chỉ có 151 vụ. Tồ án nhân dân quận
Bình Thạnh dù chỉ là Tồ án cấp quận (huyện) nhưng số đơn thụ lý giải quyết tranh
chấp trong một năm cao hơn nhiều so với Trung tâm Trọng tài Quốc tế. Qua đó cho
thấy việc giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại không được đề cao
mặc dù trong thực tế phương thức giải quyết tranh chấp này có nhiều tính năng ưu
Việt, bên cạnh Tồ án thì hơn hẳn các phương thức như thương lượng, trung gian,
hoà giải,... Hơn thế nữa, đa phần các vụ tranh chấp thường tin cậy giải quyết ở Toà
án hơn là ở Trọng tài thương mại. Vậy nguyên nhân là do đâu?
Bởi lẽ, thực trạng ngày nay, việc huỷ phán quyết trọng tài khiến các bên dần
mất niềm tin vào phương thức giải quyết này. Với đề tài “Pháp luật về huỷ phán quyết

trọng tài thương mại” sẽ cho chúng ta một cái nhìn tích cực về việc lựa chọn phương
thức giải quyết bằng Trọng tài thương mại và hơn thế là nâng cao vị thế của Trọng
tài trong những vụ giải quyết tranh chấp bởi những tính năng ưu Việt của nó.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
So với phương thức giải quyết bằng Toà án nhận được nhiều sự ưu tiên lựa
chọn từ các bên tranh chấp thì phương thức giải quyết thơng qua Trọng tài thương
mại dần mất ưu thế. Khoá luận này cũng sẽ nghiên cứu, phân tích làm rõ để tìm ra
những ngun nhân, bất cập của Huỷ phán quyết trọng tài. Từ đó, đề xuất kiến nghị
nâng tầm ưu thế cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại.
1


3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật về căn cứ, thủ tục, hậu quả của huỷ phán quyết trọng tài và thơng qua thực
tiễn để đề cao tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Với sự quan sát và đúc kết thực tiễn cịn giới hạn
ở vị trí là sinh viên, khố luận này phân tích một số tài liệu có liên quan, đồng thời
cịn đối chiếu và so sánh với quy định trong luật của một số quốc gia khác. Từ đó đưa
ra những kết luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tại Việt Nam, hiện tại chưa có một cơng trình nghiên cứu hay sách chun
khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hoàn chỉnh về vấn đề “Pháp luật về huỷ
phán quyết trọng tài”. Mặc dù vậy, vẫn có một số cơng trình nghiên cứu về giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài và huỷ phán quyết trọng tài. Có thể kể đến như: Bài viết của
tác giả Dương Thanh Mai “Mối quan hệ giữa Toà án và Trọng tài trong giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài” đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12
năm 1997; bài viết của của tác giả Dương Đăng Huệ “Trọng tài kinh tế phi chính phủ
ở Việt Nam: Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
nó” đăng trên Thơng tin khoa học pháp lý (Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ

Tư pháp) số 5 năm 1999;... Gần đây nhất có các viết của tác giả Đỗ Văn Đại, cụ thể:
bài viết tham luận Hội thảo “Huỷ phán quyết trọng tài tại Việt Nam, bất cập và hướng
hoàn thiện”, trình bày trong Kỷ yếu toạ đàm “Huỷ phán quyết trọng tài” ngày 20
tháng 01 năm 2015 do Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ
chức cùng Tồ án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Trọng tài Quốc
tế Việt Nam (VIAC), bộ sách chuyên khảo tập 1 và tập 2 “Pháp luật Trọng tài thương
mại Việt Nam, bản án và bình luận án”
Về vấn đề huỷ phán quyết trọng tài, các công trình nghiên cứu trên đã nêu và
phân tích một số vấn đề lý luận về huỷ phán quyết trọng tài, mục đích và ý nghĩa của
việc huỷ phán quyết trọng tài, căn cứ huỷ phán quyết trọng tài, thủ tục và quy trình
huỷ phán quyết trọng tài, vấn đề huỷ phán quyết trọng tài quốc tế,... Kế thừa những
vấn đề của các tác giả đi trước đã nghiên cứu, khoá luận này cũng cố gắng tìm hiểu,
phân tích các vấn đề xoay quanh huỷ phán quyết trọng tài.

2


5. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý:
Phương pháp phân tích:
Phương pháp này được áp dụng trong bài báo cáo về giải thích phân tích những
quy định của pháp luật hiện hành về huỷ phán quyết trọng tài, từ đó nêu lên tinh thần
của nhà làm luật, sự kiểm soát của pháp luật đối với vấn đề được đề cập.
Phương pháp quy nạp và diễn dịch:
Nội dung khố luận khơng chỉ là ý kiến và kiến thức của tôi mà cịn có ý kiến
và sự chun sâu của các luật sư, thạc sĩ luật, tiến sĩ luật nêu ra trong các sách, các
bài giảng về pháp luật của họ từ đó tơi tìm hiểu và đưa ra ý kiến của mình về các vấn
đề đó.
Phương pháp so sánh:
Trong nội dung bài viết đã áp dụng phương pháp này bằng việc so sánh giữa

pháp luật trọng tài Việt Nam và trọng tài các nước khác. Nêu ra những tiến bộ và
những điểm mà cải cách pháp luật Việt Nam đã học hỏi được từ pháp luật nước ngồi
hoặc từ cơng ước quốc tế, những tồn đọng mà Việt Nam không thể nào áp dụng được
từ pháp luật quốc tế vì ảnh hưởng của các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
6. Kết cấu của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của bài
này gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về phán quyết trọng tài và luật trọng tài thương mại
2010
Chương 2: Pháp luật về huỷ phán quyết trọng tài
Chương 3: Thực trạng việc huỷ phán quyết trọng tài và kiến nghị hoàn thiện.

3


NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ LUẬT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2010
1.1 Khái quát về phán quyết trọng tài
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của phán quyết trọng tài
Trọng tài thương mại bao gồm Trọng tài Việt Nam và Trọng tài nước ngồi.
Theo đó, phán quyết trọng tài cũng có hai loại là phán quyết trọng tài trong nước và
phán quyết trọng tài nước ngoài:
* Phán quyết trọng tài trong nước
- Về khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt, phán quyết được hiểu là “quyết định để mọi người
phải tuân theo”1. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, “phán quyết trọng tài là quyết
định mà trọng tài viên hoặc cơ quan trọng tài, theo trình tự luật định, sau khi xét xử,
đưa ra đối với vụ việc đôi bên đương sự tranh chấp” 2. Hiện nay, trên thế giới chưa có
một định nghĩa chung về thuật ngữ “phán quyết trọng tài”. Tại các công ước quốc tế

về trọng tài như Công ước New York hay Luật mẫu UNCITRAL cũng khơng có định
nghĩa chung về thuật ngữ này. Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật
Trọng tài thương mại 2010 có quy định: “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội
đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng
tài”. Hiểu một cách cụ thể thì phán quyết trọng tài chính là một bản án có giá trị chung
thẩm. Phán quyết phải là quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp
đó và được đưa ra để giải quyết toàn bộ nội dung của vụ tranh chấp , điều đó cũng có
nghĩa khi hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết thì quá trình tố tụng trọng tài chấm
dứt. Nói cách khác, tranh chấp sẽ được giải quyết khi có phán quyết trọng tài. Sau khi
các bên lựa chọn trọng tài theo thỏa thuận của các bên với nhau và các bên hội đồng
trọng tài mở phiên họp giải quyết tranh chấp, tại đây các bên đưa ra lập luận của mình
trình bày với bên thứ ba là hội đồng trọng tài sau khi nghe và rà soát lại chứng cứ đã
Trang 983, Hồng Phê (2012) - Từ điển Tiếng Việt, Viện ngơn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa Hà Nội.
2
Trang 1995, Nguyễn Hữu Quỳnh (1998) – Đại từ điển kinh tế thị trường (tài liệu dịch), Viện nghiên
cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội.
1

4


được thu thập trước khi mở phiên họp hội đồng trọng tài ra phán quyết sau cùng của
mình.
Chúng ta cần có một cách hiểu chính xác để tránh nhầm lẫn với khái niệm
“quyết định trọng tài”. Theo khoản 9, Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy
định: “Quyết định trọng tài là quyết định của hội đồng trọng tài trong q trình giải
quyết tranh chấp”. Ta có thể thấy phán quyết trọng tài hay quyết định trọng tài đều là
quyết định của hội đồng trọng tài nhưng phán quyết trọng tài là cơ sở cho sự chấm
dứt quá trình tố tụng trọng tài thơng qua việc nội dung vụ tranh chấp được giải quyết

hồn tồn khi có phán quyết trọng tài. Trong khi đó, quyết định trọng tài là cơ sở phát
sinh thêm một số quyền và nghĩa vụ cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp,
chẳng hạn như hội đồng trọng tài ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
đối với một bên đương sự khi có yêu cầu của bên đương sự cịn lại, trong tình huống
này thì quyết định trọng tài như một biện pháp để đảm bảo quá trình giải quyết tranh
chấp diễn ra thuận lợi hơn và cho cả việc thi hành phán quyết sau này. Khi có quyết
định trọng tài thì vụ tranh chấp vẫn tiếp tục được giải quyết, chưa chấm dứt. Đồng
thời đối với phán quyết trọng tài, Tồ án có thể huỷ nếu một bên đưa ra được bằng
chứng chứng minh thuộc một trong các trường hợp được huỷ. Tuy nhiên, nếu đó chỉ
là một quyết định trọng tài thì những quy định về huỷ này sẽ khơng được áp dụng.
Như vậy có thể thấy, giá trị pháp lý của hai quyết định này là khác nhau. Với những
điều trên, phán quyết trọng tài có những đặc điểm sau:
- Về đặc điểm
Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và ràng buộc các bên, tạo nên
một cơ chế giải quyết tranh chấp dứt điểm:
Căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật Trọng tài thương mại 2010
“Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành”. Nguyên
tắc chung thẩm được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia.
Ví dụ:
Theo quy định của nguyên tắc tố tụng trọng tài UNCITRAL (1976) thì: Quyết
định trọng tài là chung thẩm và ràng buộc giữa các bên, các bên cam kết thực thi
quyết định khơng chậm trễ. Khi xét xử tại Tồ án, một vụ tranh chấp có thể phải đi

5


qua nhiều cấp sơ thẩm, phúc thẩm,…trước khi bản án có hiệu lực pháp luật. Việc này
có thể kéo dài, phức tạp, gây mất nhiều thời gian, chi phí.
Ngược lại, phán quyết trọng tài thông thường được coi là cuối cùng (chung
thẩm), giúp các bên giải quyết dứt điểm tranh chấp, tiếp tục các hoạt động kinh doanh

của mình. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có tính ràng buộc
các bên đương sự về mặt pháp lý. Phán quyết trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các
bên có nghĩa vụ phải thi hành và khơng thể bị kháng cáo. Do các bên đương sự đã tự
nguyện lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải tơn trọng
và chấp nhận quyết định của người đó. Phán quyết của trọng tài sẽ được thi hành nếu
phán quyết đó là hợp pháp (khi khơng có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, hoặc
hội đồng xét xử đã bác đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài).
Ngoài ra, những quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010 còn hạn chế
nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Toà án tuyên huỷ. Cụ thể được quy định tại điều
71, quy định thủ tục Toà án xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, qua đó đảm
bảo các phán quyết của trọng tài được thực thi.
Phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi:
Đây là một ưu thế quan trọng đối với các quyết định trọng tài có yếu tố nước
ngồi. Thơng qua các điều ước quốc tế trong đó có Cơng ước New York 19583 về
công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài, các quyết định trọng tài
sẽ được công nhận và cho thi hành tại 142 quốc gia trên thế giới4.
* Phán quyết trọng tài nước ngoài:
- Về khái niệm:
Trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật

Công ước 1958 được thơng qua vào ngày 10/6/1958 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 7/6/1959.
Cơng ước có tổng cộng 16 điều, trong đó 9 điều quy định về các thủ tục gia nhập, ký kết, phê chuẩn
của các quốc gia thành viên, về hiệu lực của công ước, các điều cịn lại quy định về thủ tục cơng
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, việc từ bỏ tham gia công ước, việc sử
dụng công ước của các quốc gia và trách nhiệm của Liên Hợp quốc trong việc trển khai thi hành
công ước.
3

Trang 99 tài liệu học tập Khoa Luật-HUTECH “Pháp luật về phá sản, giải thể và giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh” ấn bản 2016

4

6


nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài
lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.5
Theo pháp luật Việt Nam, phán quyết trọng tài nước ngoài được hiểu là phán
quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh
thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn 6. Cịn Tại
Khoản 1 Điều I Cơng ước New York 1958 định nghĩa Phán quyết của trọng tài nước
ngoài là:(i) Phán quyết được ban hành tại lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc
gia nơi có yêu cầu cơng nhận và thi hành phán quyết trọng tài đó; (ii) Phán quyết
không được coi là phán quyết trong nước tại quốc gia nơi việc công nhận và thi hành
chúng được yêu cầu.
- Về đặc điểm:
Là phán quyết của trọng tài nước ngoài (trọng tài được thành lập theo pháp
luật trọng tài nước ngồi) bất kể phán quyết đó được tuyên ở trong lãnh thổ Việt Nam
hay ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tranh chấp do các bên đưa ra giải quyết bằng trọng
tài phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hoặc ít nhất một bên có hoạt
động thương mại hoặc tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
trọng tài.
Theo Từ điển Luật học, công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài là việc thừa nhận và cho phép thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo những nguyên tắc và trình tự pháp lý nhất định.
Phạm vi phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho
thi hành ở Việt Nam được quy định tại Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
“1. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài sau đây được xem xét công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài;

5
6

Khoản 11, điều 3 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010
Khoản 12, điều 3 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010

7


b) Phán quyết của Trọng tài nước ngồi khơng thuộc trường hợp quy định tại điểm a
khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng
tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu
lực thi hành.
3. Trọng tài nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1
Điều này được xác định theo quy định của Luật trọng tài thương mại của Việt Nam.”
Khác với các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, pháp luật Việt
Nam chỉ xem xét công nhận và cho thi hành đối với các phán quyết của Trọng tài
nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tức là, các phán quyết của Trọng
tài nước ngoài giải quyết các tranh chấp thương mại mới là đối tượng được xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của huỷ phán quyết trọng tài thương mại
* Về khái niệm:
Phán quyết trọng tài có thể bị Tồ án có thẩm quyền tuyên huỷ. Vậy “huỷ phán
quyết trọng tài” là gì? Theo từ điển Tiếng Việt, “huỷ” có nghĩa là “làm cho khơng
cịn tồn tại hoặc khơng cịn có giá trị nữa”7 Huỷ phán quyết trọng tài là một chế định

của pháp luật trọng tài thương mại, theo đó, một trong các bên tranh chấp được quyền
yêu cầu Toà án bác bỏ phán quyết trọng tài nếu có đủ căn cứ chứng minh rằng trọng
tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp bị huỷ theo quy định của pháp
luật.
Huỷ một phán quyết trọng tài là việc Toà án có thẩm quyền tun bố phán
quyết đó khơng có giá trị toàn bộ hoặc một phần. Nếu một phán quyết bị Tịa án có
thẩm quyền hủy thì thơng thường phán quyết đó bị coi là khơng có hiệu lực và do đó
khơng thể thi hành khơng chỉ bởi Tịa án nơi tiến hành trọng tài mà cả Tòa án quốc
gia ở nơi khác.

7

Trang 608, Hoàng Phê (2012) - Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển Bách

khoa Hà Nội.

8


* Về đặc điểm:
Phán quyết trọng tài chỉ có thể bị huỷ nếu thoả mãn các quy định liên quan
đến căn cứ huỷ phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại.
(Được quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010)
Việc huỷ phán quyết trọng tài phải tuân theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ
do pháp luật quy định. Cụ thể, được Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định từ điều
68 đến điều 72, quy định về căn cứ huỷ, đơn yêu cầu huỷ gồm những nội dung gì?
Các mốc thời gian quan trọng, thẩm quyền xử lý đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng
tài,... Cùng với quyết định huỷ phán quyết trọng tài của Toà án, hàng loạt hệ quả sẽ
phát sinh liên quan đến rất nhiều đối tượng như các bên tranh chấp, tổ chức trọng tài,
hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất giải quyết vụ việc,...

1.2 Khái quát về Luật Trọng tài thương mại 2010
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về huỷ phán quyết
trọng tài
Pháp luật về huỷ phán quyết trọng tài ở Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Giai đoạn 2: Từ khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại đến khi có Luật trọng tài
thương mại.
Giai đoạn 3: Từ khi có Luật trọng tài thương mại đến nay.
Sơ lược qua từng giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại, hình thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp
lựa chọn, bắt đầu hình thành ở nước ta vào những năm 1960 của thế kỷ trước, với sự
ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải theo các

9


Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 và số 153/CP ngày 05/10/1964 của Hội đồng
Chính phủ.8
Ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 204/TTg ngày
28/4/1993 về việc cho phép thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam với
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngồi. Sau đó, Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam được bổ sung thêm thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân trong nước theo Quyết định số 114/TTg ngày
16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 05/9/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/CP quy định về tổ
chức và hoạt động của trọng tài kinh tế. Theo Nghị định số 116/CP, trung tâm trọng
tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh tế không phân biệt quốc tịch của các bên tranh chấp, bao gồm tranh chấp kinh
tế phát sinh từ quan hệ kinh doanh trong nước và tranh chấp kinh tế có yếu tố nước

ngồi.
Trong giai đoạn này, pháp luật nước ta không quy định về hủy phán quyết
trọng tài. Theo điều 31, Nghị định số 116/CP chỉ quy định: “Trong trường hợp quyết
định trọng tài không được một bên chấp hành thì bên kia có quyền u cầu Tồ án
nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế”. Vì vậy,
trường hợp trọng tài viên xét xử sai, phán quyết của trọng tài khơng khách quan hoặc
vượt ngồi phạm vi theo thỏa thuận trọng tài thì các bên tranh chấp khơng thể u
cầu tịa án hủy phán quyết trọng tài mà chỉ có thể lựa chọn việc thi hành hoặc khởi
kiện vụ án lại từ đầu tại tòa án.
Giai đoạn 2: Từ khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại đến khi có Luật Trọng
tài thương mại.
Trong giai đoạn này, các vấn đề về hủy quyết định trọng tài được quy định tại
Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Pháp lệnh Trọng tài thương mại được Ủy ban thường vụ Quốc
hội ban hành ngày 25/02/2003, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2003. Sự ra đời của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình thành và phát

8

Trang 9, Nguyễn Thị Dung, Lê Hương Giang (2011), “Bình luận một số nội dung mới trong Luật Trọng tài
thương mại 2010”, Tạp chí luật học (tháng 6/2011)

10


triển của pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài, là văn bản pháp luật đầu
tiên của Việt Nam quy định về hủy phán quyết trọng tài.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại dành hẳn Chương VI với 8 Điều (từ Điều 50
đến Điều 58) quy định về hủy quyết định trọng tài. Tuy nhiên, qua hơn sáu năm áp
dụng, một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại về huỷ quyết định trọng

tài đã bộc lộ những hạn chế. Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân khiến
cho số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu hủy gia tăng là cơ chế hủy quyết định
trọng tài quá đơn giản. Theo Điều 50 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu có bên khơng đồng ý với
quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài
ra quyết định trọng tài để yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Tranh chấp là vấn đề phức
tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới đưa ra trọng tài để giải quyết. Quyết
định trọng tài khó có thể thỏa mãn được các bên. Trong khi đó, theo pháp lệnh trọng
tài thương mại, chỉ cần điều kiện “không đồng ý với quyết định trọng tài” thì có quyền
làm đơn u cầu huỷ. Điều này đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu huỷ phán
quyết trọng tài với nhiều mục đích, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành quyết định
trọng tài, để kịp thời tẩu tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục
giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời
gian giải quyết tại Toà án cũng không được xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như
các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài do trọng
tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Pháp lệnh trọng
tài thương mại lại không được như các bên mong đợi.
Giai đoạn 3: Từ khi có Luật Trọng tài thương mại đến nay
Ở giai đoạn này, huỷ phán quyết trọng tài được quy định tại Luật Trọng tài
thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên cơ sở thừa kế và tiếp tục hoàn thiện các quy định về huỷ phán quyết trọng
tài của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 17/06/2010, có hiệu lực
từ ngày 01/01/2011, quy định về huỷ phán quyết trọng tài với các nội dung cơ bản
như sau: Quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; Thời hạn yêu cầu huỷ phán quyết
trọng tài; Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài; Thủ tục huỷ phán quyết trọng; Hậu quả
của việc huỷ phán quyết trọng tài.
11



1.2.2 Bản chất và ý nghĩa về huỷ phán quyết trọng tài thương mại theo Luật trọng
tài thương mại 2010
Khi chọn phương thức trọng tài, các bên tranh chấp mong muốn có kết quả
giải quyết là một quyết định chung thẩm và ràng buộc các bên. Tố tụng trọng tài
không có nhiều giai đoạn xét xử, khơng có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Bản chất của việc huỷ phán quyết trọng tài là phán quyết đó sẽ bị huỷ bỏ và
khơng có hiệu lực thi hành đối với các bên tranh chấp. Ý nghĩa tích cực của việc huỷ
phán quyết trọng tài thể hiện ở chỗ việc huỷ phán quyết trọng tài buộc Toà án phải
cẩn trọng xem xét lại phán quyết trọng tài, xem xét kỹ đơn đề nghị huỷ, xem xét từng
căn cứ huỷ và nếu phán quyết trọng tài đã trái với các quy định của pháp luật, có đủ
căn cứ để tuyên huỷ thì Tồ án phải tun huỷ phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, việc
huỷ phán quyết trọng tài cũng có ý nghĩa tiêu cực. Với những phán quyết trọng tài bị
huỷ bỏ toàn bộ, việc huỷ bỏ phán quyết trọng tài sẽ có tác động tiêu cực trước hết là
đối với bên thắng kiện, tức là bên mà khi phán quyết trọng tài được thi hành sẽ có lợi
cho họ, bởi vì điều mà họ chờ đợi khi phán quyết trọng tài được thi hành đã khơng
cịn và nếu muốn tiếp tục bảo vệ quan điểm của mình họ buộc phải bắt đầu một thủ
tục mới kéo dài, tốn kém về thời gian và cơng sức đó là khởi kiện ra ra Toà án và điều
này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: phá vỡ
chiến lược, kế hoạch kinh doanh, xáo trộn về công việc, uy tín và thương hiệu cũng
sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

12


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trọng tài thương mại đã xuất hiện từ lâu ở các nước trên thế giới cũng như ở
Việt Nam. Quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên tại Trọng tài được kết thúc
bằng một phán quyết trọng tài. Khi chọn phương thức trọng tài, các bên tranh chấp
mong muốn có kết quả giải quyết là một quyết định chung thẩm và ràng buộc các

bên. Tố tụng trọng tài khơng có nhiều giai đoạn xét xử, khơng có thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hay tái thẩm.
Nguyên tắc xét xử của trọng tài là độc lập, phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng với những phán quyết hợp pháp,
tức là phán quyết đó được hình thành dựa trên những căn cứ pháp luật. Khơng ai có
thể đảm bảo rằng phán quyết trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện, điều đó
dẫn đến có tình trạng huỷ phán quyết trọng tài xảy ra, kéo theo nhiều trình tự thủ tục
và hệ quả pháp lý cho các bên. Tại Chương 1, chúng ta đã hiểu rõ hơn về khái niệm,
đặc điểm của phán quyết trọng tài và huỷ phán quyết trọng tài. Từ đó nhìn ra được
bản chất và ý nghĩa của huỷ phán quyết trọng tài. Vậy đâu là căn cứ để huỷ phán
quyết trọng tài? Trình tự, thủ tục để một phán quyết bị huỷ được thực hiện như thế
nào?

13


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUỶ PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
2.1 Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010
2.1.1 Nguyên nhân của việc huỷ phán quyết trọng tài thương mại
Giữa phương thức giải quyết tranh chấp bằng Toà án với Trọng tài, ta thấy
Trọng tài có nhiều ưu điểm hơn so với Toà án chẳng hạn như: Các bên được quyền
chọn trọng tài viên, địa điểm, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp,...Thời gian tiến hành
các thủ tục nhanh chóng,... Mặc dù có nhiều ưu điểm vượt trội như vậy nhưng các
bên cũng rất lo ngại về vấn đề phán quyết trọng tài bị tuyên huỷ. Để một phán quyết
trọng tài bị tuyên huỷ có thể có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên có những nguyên nhân
quan trọng như sau:
Nguyên nhân thứ nhất là do bất cập của pháp luật:
Là một chế định của pháp luật về Trọng tài, các quy định của pháp luật về huỷ
phán quyết trọng tài được ban hành liên quan đến hiệu lực của phán quyết trọng tài,

căn cứ huỷ phán quyết trọng tài, thủ tục huỷ phán quyết trọng tài,...những quy định
này được đặt trong mối quan hệ mật thiết với các quy định về thẩm quyền của trọng
tài và Hội đồng trọng tài; các quy định về hình thức và nội dung của tố tụng trọng tài;
các quy định về quy trình và tố tụng trọng tài,...Do đó việc quy định khơng rõ ràng,
khơng đầy đủ hay thiếu cụ thể về những vấn đề này cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến
sự gia tăng yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài và cũng là nguyên nhân khiến cho Toà
án dễ dàng tuyên huỷ phán quyết trọng tài do việc xem xét căn cứ huỷ phán quyết
trọng tài trở nên khó khăn trong việc áp dụng.
Nguyên nhân thứ hai do xung đột lợi ích của các bên tranh chấp:
Trong thực tế, khơng ít trường hợp bên thua kiện không tự nguyện thi hành
phán quyết trọng tài. Ngược lại, họ tìm cách để u cầu Tồ án huỷ phán quyết trọng
tài với hy vọng rằng phán quyết trọng tài sẽ bị huỷ, điều đó sẽ giúp họ thốt khỏi việc
thi hành phán quyết. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp bên thắng kiện muốn huỷ phán
quyết trọng tài. Đó là khi họ khơng hài lịng với phán quyết được tun vì cho rằng
lợi ích của mình vẫn chưa được bù đắp thoả đáng theo quan điểm của họ so với bên
thua kiện. Cuối cùng, cũng không ngoại trừ trường hợp cả bên thắng và bên thua đều
14


không thoả mãn với phán quyết trọng tài và do đó, cả hai bên đều tìm cách để huỷ
phán quyết trọng tài với hy vọng tìm được một cơ chế bảo vệ tốt hơn lợi ích của mình.
Như vậy, chính sự xung đột về lợi ích của các bên tranh chấp là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài.
Nguyên nhân thứ ba chính là do năng lực chun mơn của thẩm phán và trọng
tài viên:
Về năng lực chuyên môn của trọng tài viên9. Hiện nay, nội dung, hình thức
cũng như chất lượng của phán quyết trọng tài phụ thuộc vào trình độ, sự hiểu biết, kỹ
năng cũng như năng lực của trọng tài viên. Một cách tổng quát nhất, năng lực chuyên
môn của trọng tài viên được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn nhất định, như tiêu
chuẩn về đạo đức, tiêu chuẩn về trình độ và kỹ năng, tiêu chuẩn về kinh nghiệm. Điều

này đặt ra yêu cầu là trọng tài viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn để làm trọng tài viên.10
Như vậy, nếu trọng tài viên không đáp ứng được các tiêu chuẩn về đạo đức, tính độc
lập, vơ tư khách quan hoặc không thực hiện nghĩa vụ giải trình để chứng minh về sự
vơ tư của mình thì đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến huỷ phán quyết trọng tài.
Đây là nguyên nhân chủ quan do bản thân trọng tài viên gây ra.
Về năng lực chuyên môn của thẩm phán cũng là một trong những nguyên nhân
của việc huỷ phán quyết trọng tài. Bởi vì nếu các thẩm phán không am hiểu kỹ về
lĩnh vực Trọng tài, pháp luật về trọng tài và đặc thù của việc giải quyết tranh chấp tại
trọng tài thì việc huỷ phán quyết trọng tài có thể sẽ được xem xét một cách khơng
thoả đáng.
Bên cạnh đó, khi bên thua kiện trong phán quyết trọng tài cố tình tìm cách để
yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài đối với những phán quyết trọng tài bất lợi cho họ bị
huỷ, họ sẽ tìm mọi cách tiếp cận với thẩm phán và có thể sử dụng cả những chiêu trò
“cửa sau”, điều này phần nào làm ảnh hưởng đến quyết định của thẩm phán.
2.1.2 Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài thương mại
Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, quy
định về các trường hợp để một phán quyết trọng tài bị huỷ:

Khoản 5 điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010.
Về tiêu chuẩn; quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên được quy định tại điều 20,21 Luật trọng tài
thương mại 2010.
9

10

15


“1. Toà án xem xét việc huỷ phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên.
2. Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Khơng có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả
thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán
quyết trọng tài có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội
dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán
quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một
bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán quyết trọng
tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”
Toà án sẽ là cơ quan có thẩm quyền xem xét việc huỷ phán quyết trọng tài.
Tòa án khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không xét lại nội dung vụ tranh
chấp. Tịa án chỉ xem xét dưới góc độ tố tụng (thẩm quyền, thủ tục tố tụng, thành
phần Hội đồng trọng tài…). Nếu đương sự cho rằng, phán quyết trọng tài vi phạm
một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm d khoản 2 Điều 68 thì
phải chứng minh được sự vi phạm đó, khơng chứng minh được rõ ràng có sự vi phạm
thì khơng chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Chúng ta thấy được, ở đây các
nhà làm luật sử dụng phương pháp liệt kê, liệt kê ra những trường hợp để một phán
quyết trọng tài bị huỷ.
* Đối với căn cứ thứ nhất, được quy định tại điểm a khoản 2 điều 68 Luật
Trọng tài thương mại 2010: “Khơng có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng
tài vô hiệu”
Theo khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010, “tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài”. Với quy định này, nhiều
người vẫn có thể hiểu rằng nếu có thoả thuận trọng tài thì tranh chấp mặc nhiên được
giải quyết bằng phương thức trọng tài. Tuy nhiên, sự tồn tại của thoả thuận trọng tài
là chưa đủ, thoả thuận trọng tài đó phải không thuộc trường hợp bị vô hiệu. Bởi lẽ,
16



nếu thoả thuận trọng tài vơ hiệu thì trọng tài khơng có thẩm quyền để giải quyết vụ
tranh chấp đó. Thuật ngữ “thoả thuận trọng tài” được hiểu là thoả thuận giữa các bên
về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh 11. Tức
là để một vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thì điều kiện tiên quyết là phải
có thoả thuận trọng tài. Toà án sẽ từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng
tài, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể
thực hiện được12. Điều này được hiểu, nếu khơng có thoả thuận trọng tài, mà các bên
vẫn chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, hội đồng trọng tài vẫn ban hành phán
quyết trọng tài thì Tồ án có quyền tun phán quyết đó vơ hiệu.
Thoả thuận trọng tài vô hiệu cũng được coi là một trong những căn cứ huỷ
phán quyết trọng tài. Vấn đề thoả thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 18
Luật Trọng tài thương mại 2010. Tại điều này đã liệt kê ra sáu trường hợp thoả thuận
trọng tài vô hiệu như sau:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự theo quy định
của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận
trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vơ hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Các quy định về thoả thuận trọng tài vô hiệu tại điều 18 Luật Trọng tài thương
mại vẫn còn một số điểm hạn chế, chẳng hạn như:

11
12


Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010
Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010

17


Do các nhà làm luật sử dụng phương pháp liệt kê nên các trường hợp thoả
thuận trọng tài vô hiệu chưa rõ và chưa đầy đủ. Thực tế cho thấy, ngồi sáu trường
hợp được đưa ra cịn có những trường hợp khác. Điều này dẫn đến tình trạng là những
trường hợp khơng được quy định tại Điều 18 thì có bị coi là vô hiệu theo Luật Trọng
tài thương mại hay không. Tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại có quy định thoả
thuận trọng tài vơ hiệu khi một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Vậy khi
một trong các bên bị nhầm lẫn thì thoả thuận trọng tài có bị vơ hiệu hay khơng? Ví
dụ, các bên thống nhất chọn ông A làm trọng tài viên duy nhất do cả hai bên cho rằng
ông A là chuyên gia về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, sau khi trọng tài viên này
ra phán quyết thì một bên mới phát hiện ơng A khơng phải chuyên gia về lĩnh vực sở
hữu trí tuệ. Ở trường hợp này, có sự nhầm lẫn trong việc thoả thuận trọng tài viên.
Theo quy định tại điều 126 Bộ luật dân sự 2015 thì thoả thuận trọng tài trong trường
hợp trên bị vô hiệu do thoả thuận trọng tài được xác lập trong trường hợp bị nhầm
lẫn. Thoả thuận trọng tài là “một dạng giao dịch dân sự”13. Vì vậy, nếu một thoả thuận
trọng tài vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì thoả thuận trọng tài đó sẽ
vơ hiệu mặc dù khơng được Luật Trọng tài thương mại quy định.
Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa có khái niệm về thuật ngữ “hoạt động
thương mại”, dẫn đến khó khăn trong việc xác định tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của trọng tài. Nói cách khác, khi không xác định được tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của trọng tài thì rất khó xác định được thoả thuận trọng tài vô hiệu theo
khoản 1 điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 hay không? Cụ thể:
Tại khoản 1 điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định thoả thuận
trọng tài vô hiệu trong trường hợp “tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không

thuộc thẩm quyền của trọng tài theo quy định tại điều 2 của Luật Trọng tài thương
mại”. Tại điều 2 Luật Trọng tài thương mại quy định về thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp của Trọng tài như sau:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng
tài.”

Trang 68, Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
13

18


×