Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

TIỂU LUẬN MÔN LUẬT TÀI CHÍNH PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.93 KB, 50 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Bài thuyết trình nhóm 9
Đề tài: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

I.

Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trên thế giới và Việt Nam……………………………….4

II.

Tổng quan về pháp luật kinh doanh bảo hiểm

1. Khái niệm…………………………………………………………8
2. Đặc trưng………………………………………………………….9
3. Các nguyên tắc pháp lý của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm..............................................................................................................10
III.

Thực trạng pháp luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt
Nam.........................................................................................................11

1.Các chủ thể hoạt động kinh doanh bảo
hiểm ............................................................................................................................


.....11
2. Các hình thức hoạt động kinh doanh bảo
hiểm ............................................................................................................................
.....15
3. Quy chế pháp lý về hợp đồng trong kinh doanh bảo
hiểm.........................................................................................................................19
4. Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.........................................................................................................................21
5. Những bất cập của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.........................................................................................................................23
IV.

Ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với nhà
nước, kinh tế, xã hội............................................................................26

1. về mặt tích cực……………………………………………………………..26
2. về mặt tiêu cực………………………………………………………..........34

V. Định hướng và các giải pháp hoàn thiện, thực thi pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm……………………………….............................................36


1. Về phía Nhà nước………………………………………………………………36
2. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm………………………………………………..40
3. Về phía các tổ chức khác……………………………………………………….41
4. Những cơ hội và thách thức…………………………………………………….42

Tình huống pháp lý…………………………………………………….44
Kết luận ………………………………………………………………..47
Danh mục tham khảo



NỘI DUNG
Lời mở đầu:
Ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người từ thời Ai Cập cổ đại, bảo hiểm đã phát
triên rất nhanh trở thành một ngành kinh doanh lớn mạnh với rất nhiều công ty và
số lượng các sản phẩm bảo hiểm. Ngày nay, bảo hiểm rất phổ biến trên tồn thế
giới và đóng vai trị quan trọng vô cùng cần thiết trong đời sống xã hội. Riêng ở
Việt Nam, dù ngành kinh doanh bảo hiểm ra đời khá muộn so với thế giới nhưng
cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ.
Qua một khoảng thời gian đưa vào thực tế, Luật kinh doanh bảo hiểm đã tạo điều
kiện cho thị trường bảo hiểm Việt Nam tăng trưởng cao, đồng thời đã có khung
pháp lý để duy trì trật tự, duy trì mơi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa
các doanh nghiệp bảo hiểm, cung cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm với chất lượng
dịch vụ tốt đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động kinh doanh
bảo hiểm cho thấy vẫn còn những bất cập nảy sinh như chưa có sự phù hợp giữa
thực tiễn với quy định của luật trong một số vấn đề, thiếu sự thống nhất giữa các
quy định của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nhận thấy thực trạng đó, nhóm em
chọn nghiên cứu đề tài tiểu luận “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” để làm rõ
những vấn đề trên.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài nghiên cứu khó tránh khỏi
những thiếu xót, rất mong nhận được sự góp ý của cơ và các bạn để nhóm em rút
ra kinh nghiệm để hồn thành tốt hơn.


NỘI DUNG
I. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm trên thế giới và Việt Nam
1. Trên thế giới
Vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Cơng ngun người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn

thất tồn bộ một lơ hàng bằng cách san nhỏ lơ hàng của mình ra làm nhiều chuyến
hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức ngun
khai của bảo hiểm. Sau đó, để đối phó với những tổn thất nặng nề thì hình thức
“cho vay mạo hiểm” đã xuất hiện theo đó trong trường hợp xảy ra tổn thất đối với
hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được miễn không phải trả
khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một lãi suất rất cao khi hàng
hố đến bến an tồn. Như vậy có thể hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai của
phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh
doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay thế nó là hình thức bảo
hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm
hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo
hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh
chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp
đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện cịn
được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra
Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển
rất nhanh.
Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật
đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm
1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và
ở Amsterdam năm 1558. Ngồi ra cịn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên
quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hoá.


Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI – XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản
xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội . Mở đường cho sự phát triển này là
luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp
do Colbert biên soạn và Vua Louis XIVban hành , đó là những đạo luật mở đường

cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và hàng hải
quốc tế với Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các nước đi từ Châu
Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi đều về cập bến hai bờ sông Thame của thành phố
Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi gặp gỡ của các nhà buôn, chủ ngân hàng, người
chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch, trao đổi tin tức, bàn luận trực tiếp với
nhau.
Edward Lloyd’s là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê ở phố Great
Tower ở Luân Đôn vào khoảng năm 1692. Các các nhà buôn, chủ ngân hàng,
người chuyên chở, người bảo hiểm…thường đến đó để trao đổi các thơng tin về
các con tầu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở trên tàu, về sự an tồn và tinh
hình tai nạn của các chuyến tàu…. Ngoài việc quản lý quán cà phê, năm
1696 Edward Lloyd’s còn cho ra một tờ báo tổng hợp các tình hình tàu bè và các
vấn đề khác nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng của ông. Tuy nhiên việc
làm chính của ông vẫn là cung cấp địa điểm để khách hàng đến giao dịch bảo hiểm,
hội họp. Sau khi Edward Lloyd’s qua đời người ta thấy rằng cần phải có một nơi
tương tự như vậy để các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải tập trung đến giao dịch
bảo hiểm và năm 1770, “Society of Lloyd’s” với tư cách là một tổ chức tự nguyện
đã thành lập và thu xếp một địa điểm ở Pope’s Head Alley cho các thành viên của
họ. Sau đó tổ chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hồng gia và ở đó
đến năm 1828 thì rời đến toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức này
hoạt động với tư cách là tổ chức tư nhân đến năm 1871 thì hợp nhất lại theo luật
Quốc hội và trở thành Hội đồng Lloyd’s và sau này đã trở thành nơi giao dịch kinh
doanh bảo hiểm và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới.
Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng vụ
cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà
trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể
cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng
chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả
hoạn như : ” Fire Office” (năm 1667), “Friendly Society” (năm 1684), “Hand and

Hand” (năm 1696), “Lom Bard House” (năm 1704) … Lúc đó Cơng ty bảo hiểm


Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX
mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm.
Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo
hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập đó là “Company L’assurance Centree
L’incendie” và “Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được lưu truyền thời
gian này và trong lịch sử bảo hiểm là cơng trình tốn học của Pascal về “Hình học
của rủi ro ” (Lageometric Du Hasard) năm 1654 đã đưa đến tốn học xác suất. Đó
là cơ sở thống kê xác suất phục vụ cho hoạt động bảo hiểm và ngày nay vẫn được
coi là kỹ thuật cơ bản của ngành bảo hiểm.
2. Ở Việt Nam
2.1. Trước năm 1986
Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ít nhiều cũng đã có những bước phát triển ngay từ
thời thực dân Pháp. Cho tới khi miền Bắc được giải phóng, đất nước bị chia cắt,
hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở miền Nam khá phát triển dưới chế độ Ngụy
quyền.
* Ở miền Nam trước năm 1975, có hơn 52 cơng ty trong và ngồi nước đã triển
khai các loại hình nghiệp vụ khá đa dạng như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm chuyên
chở, bảo hiểm xe tự động, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn lao động… Các
công ty hoạt động khá mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu về bảo hiểm trên
tồn thị trường miền Nam. Các cơng ty bảo hiểm trong nước thường được thành
lập dưới dạng Hội vô danh và Hội tương hỗ. Các công ty nước ngồi thành lập ở
Việt Nam dưới hình thức cơng ty chi nhánh. Hầu hết các công ty đều đặt trụ sở
chính ở Sài Gịn. Mạng lưới trung gian bảo hiểm là môi giới và đại lý bảo hiểm
được sử dụng phổ biến để kinh doanh bảo hiểm trên phạm vi toàn miền Nam. Để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được trôi chảy, cạnh tranh lành mạnh, các công
ty bảo hiểm đã sớm thành lập hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm của mình. Hiệp hội
có chức năng thơng tin tư vấn, đào tạo, tạo ra một môi trường hợp tác. Việc quản lý

nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm được thực hiện thơng qua Bộ Tài chính. Các
văn bản pháp luật điều chỉnh như Luật bảo hiểm cũng sớm ra đời. Ngoài ra, Hội
đồng tư vấn bảo hiểm quốc gia cũng đóng vai trị khá quan trọng.
* Ở miền Bắc trước năm 1975, hoạt động bảo hiểm chỉ thực sự bắt đầu khi có sự ra
đời của Bảo Việt. Để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong hoạt động ngoại thương,
ngày 17/12/1964, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Công ty Bảo
hiểm Việt Nam, gọi tắt là Bảo Việt. Đến ngày 15/01/1965, Bảo Việt chính thức đi
vào hoạt động. Đây cũng là công ty bảo hiểm Nhà nước duy nhất đại diện cho


ngành bảo hiểm Việt Nam. Từ ngày thành lập cho đến trước năm 1975, do những
điều kiện khó khăn của chiến tranh, hoạt động của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát
triển. Lúc bấy giờ, Bảo Việt chỉ có trụ sở ở Hà Nội và chi nhánh ở Hải Phòng thực
hiện chủ yếu 3 nghiệp vụ: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và
tái bảo hiểm. Tỉ lệ tái bảo hiểm cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Ba Lan lúc đó
cũng tương đối cao.
* Sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng, cũng như tất cả các ngành kinh tế khác,
các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam được tiến hành quốc hữu hoá. Công ty Bảo
hiểm và Tái bảo hiểm Việt Nam được thành lập để thực hiện tiếp trách nhiệm của
các công ty cũ đối với những người được bảo hiểm muốn tiếp tục hợp đồng. Đối
với các công ty bảo hiểm nước ngồi, cơng ty có trách nhiệm thanh tốn và địi nợ
theo đúng hợp đồng. Năm 1976, khi hồn tồn thống nhất đất nước về mặt Nhà
nước, công ty được chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh. Thời kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh
doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế độ hạch toán kế tốn kinh tế thống nhất tồn
ngành. Cơng ty trực thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ Tài chính thống
nhất quản lý công tác bảo hiểm Nhà nước và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo
hiểm trong cả nước. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Bảo Việt độc quyền kinh
doanh bảo hiểm nên các sản phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực hiện
các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm. Có thể

nói, thời gian này, hoạt động bảo hiểm ở nước ta vẫn chưa phát triển.
2.2. Từ năm 1986 đến nay
Năm 1986 đánh dấu một bước ngoạt trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diến ra vào năm này đã
đưa ra chính sách đổi mới, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh
doanh theo các quy định của pháp luật. Đồng thời, Việt Nam cũng đã tiến hành mở
cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư từ nhiều quốc gia, khu vực. Hoạt động sản xuất –
kinh doanh từng bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao đòi hỏi ngành
bảo hiểm cũng phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu, thích hợp với hồn cảnh mới. Sự
xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới, công ty liên doanh, cơng ty cổ phần, cơng
ty 100% vốn nước ngồi… sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với q trình phát triển bảo
hiểm ở nước ta.
Ngày 18/12/1993, nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được
Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Nó
phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức bảo
hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù vậy,


phải từ sau năm 1995, một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo
Minh, VINARE, PVI, PJICO… và các công ty liên doanh bảo hiểm như: UIC,
VIA,… Ngồi ra, với khoảng 40 văn phịng đại diện của các cơng ty bảo hiểm
nước ngồi và hơn 70.000 đại lý bảo hiểm thị trường bảo hiểm Việt Nam đang phát
triển ngày một sôi động.
Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cũng như sự xuất hiện của các công ty mới đã tạo
điều kiện cho bảo hiểm phát triển mạnh mẽ trong một môi trường cạnh tranh ngày
càng quyết liệt. Các cơng ty liên tục hồn thiện những sản phẩm cũ, đồng thời
nghiên cứu và giới thiệu những loại hình nghiệp vụ bảo hiểm mới đa dạng và hấp
dẫn. Người tham gia bảo hiểm có thể tự do lựa chọn người bảo hiểm, loại hình dịch
vụ bảo hiểm với mức phí cạnh tranh nhất. Trong tương lai, nhu cầu bảo hiểm sẽ
ngày càng đa dạng hơn và số lượng, chủng loại sản phẩm chắc chắn sẽ còn được

rộng mở. Khơng chỉ có vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, cơng tác chăm sóc khách
hàng cũng ngày càng được chú trọng. Bảo hiểm Việt Nam được đánh giá là một thị
trường vẫn đang rất giàu tiềm năng phát triển.

II) Tổng quan về Pháp luật kinh doanh bảo hiểm
1) Khái niệm
- Bảo hiểm là một hoạt động qua đó 1 cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo
hiểm nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường
hợp xảy ra rủi ro, khoản trợ cấp này do một tổ chức trả tổ chức này có trách nhiệm
đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống

- Theo điều 3 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm
2010, 2019), có thể hiểu một cách khái quát nhất về kinh doanh bảo hiểm chính là
việc các doanh nghiệp hoạt động về lĩnh vực này nhằm mục đích lợi nhuận, theo
đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm. Bản chất của hoạt động kinh doanh này chính là việc thơng qua các loại
hình bảo hiểm của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, người có nhu cầu sẽ mua
bảo hiểm mà mình cần và đóng phí cho doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro từ người mua và thực hiện việc trả tiền bảo hiểm cho người được bồi
thường hoặc người thụ hưởng khi sự kiện bảo hiểm phát sinh.


Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cần hiểu rõ một số khái niệm sau đây:
- Thứ nhất, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là những doanh nghiệp có lĩnh
vực hoạt động là bảo hiểm, các doanh nghiệp này phải được thành lập và có
cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động tuân theo quy định của Luật kinh doanh
bảo hiểm.
- Thứ hai, trong kinh doanh bảo hiểm, các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu

mua bảo hiểm sẽ thực hiện việc giao kết hợp đồng và có nghĩa vụ đóng phí
với doanh nghiệp bảo hiểm, gọi chung là bên mua bảo hiểm. Người được
bảo hiểm là người có tài sản, trách nhiệm dân sự hay tính mạng được bảo
hiểm. Người thụ hưởng là người được chỉ định nhận tiền bảo hiểm đối với
hợp đồng bảo hiểm về con người.
- Lưu ý: Bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho chính mình hoặc mua
cho người khác và mình đóng vai trị là người thụ hưởng.
- Thứ ba, sự kiện bảo hiểm là cơ sở để phát sinh trách nhiệm của doanh
nghiệp trong hợp đồng bảo hiểm chính là những sự kiện khách quan đã được
các bên thỏa thuận hoặc được pháp luật quy định.
- Thứ tư, để tham gia bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải đóng một khoản phí
cho doanh nghiệp bảo hiểm theo phương thức và lộ trình mà các bên đã thỏa
thuận, đây gọi là phí bảo hiểm.
=> Luật kinh doanh bảo hiểm là đạo luật quy định tổ chức và hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia
bảo hiểm, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì
sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Do vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với đời sống xã hội
mà các Nhà nước đều sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm . Tuy vậy, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận mà
khái niệm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm được diễn đạt khác nhau.
2) Đặc trưng
- Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm .
Doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra lập quỹ bảo hiểm từ nguồn thu phí bảo hiểm của
người tham gia bảo hiểm, quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm để chi trả hoặc bồi thường


bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm.
Mặc dù kinh doanh bảo hiểm là một quan hệ được thiết lập trên cơ sở hợp đồng

giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên để thiết lập được
quan hệ hợp đồng bảo hiểm ngoài việc các bên trực tiếp thiết lập quan hệ cịn có
các chủ thể khác tham gia để giúp cho các bên thiết lập được quan hệ bảo hiểm gốc
là đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm. Trong kinh doanh bảo hiểm
ngồi mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm cịn có
các quan hệ bảo hiểm phái sinh là quan hệ kinh doanh tái bảo hiểm
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ln nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thu nhập
được tạo ra từ phần chênh lệch giữa số phí thu được với các nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm và số lãi thu được từ hoạt động
đầu tư tài chính từ nguồn phí thu được cịn nhàn rỗi
- Đối tượng kinh doanh bảo hiểm là sản phẩm đặc biệt, một lời cam kết gắn liền
với yếu tố rủi ro. Xét về tính chất kinh doanh thì kinh doanh bảo hiểm thuộc loại
hình kinh doanh dịch vụ “Dịch vụ tài chính ”. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vơ
hình - là sự bảo đảm về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm và kèm
theo các dịch vụ có liên quan . Người tham gia bảo hiểm nộp phí cho nhà bảo hiểm
để đổi lấy lời hứa hay cam kết là sẽ trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiệm xảy
ra .
- Chu trình kinh doanh bảo hiểm là một chu trình đào ngược- sản phẩm bảo hiểm
được bán ra trước sau đó mới phát sinh chi phí – Đặc điểm này tạo ra tính nhàn rỗi
của nguồn vốn bảo hiểm trong những thời gian nhất định. Chủ thể nhận bảo hiểm
có thể sử dụng chúng để đầu tư sinh lời nhằm tăng khả năng tài chính cho chi trả
bồi thường và tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Bởi vậy, đầu tư tài chính là một
hoạt động không thể tách rời với hoạt động bao hiểm. Điều này nó làm cho bảo
hiểm có tính phức tạp và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo
hiểm đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ nhằm bảo đảm lợi ích cho người tham gia
- Bảo hiểm vừa mang tính bồi hồn vừa khơng mang tính bồi hồn: Trong thời gian
bảo hiểm khơng có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DN bảo hiểm khơng phải trả tiền
hay bồi thường bảo hiểm. Nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBH phải trả tiền
hoặc bồi thường bảo hiểm . Do tính bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả không gian,
thời gian và quy mô nên DNBH phải xây dựng các quỹ dự phịng để thực hiện cam

kết của mình trước bên tham gia bảo hiểm; quỹ này được sử dụng để tham gia đầu
tư tuy nhiên bảo đảm tính thanh khoản cao: Số tiền bồi thường bảo hiểm trong một
hợp đồng nếu có thường rất lớn, lớn hơn nhiều lần số phí mà người tham gia bảo
hiểm đã đóng


Hoạt động kinh doanh bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm
và các văn bản pháp luật có liên quan và chịu sự quản lý chặt chẽ từ phía nhà nước
3) Các nguyên tắc pháp lý
Tại Điều 6 LKDBH 2019 và Điều 3 Nghị định 45/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3
năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của LKDBH:
Điều 6: Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm
1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh
nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực hiện các
cam kết của mình đối với bên mua bảo hiểm.
Điều 3: Điều kiện, nguyên tắc tham gia bảo hiểm tại Việt Nam
1. Tổ chức, cá nhân muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo
hiểm, hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính cấp Giấy
phép thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
2. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo
hiểm và chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt
động tại Việt Nam. Không một tổ chức, cá nhân nào được phép can thiệp trái pháp
luật đến quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
của bên mua bảo hiểm.
=> Như vậy: Kinh doanh bảo hiểm được hoạt động dưới những nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại
doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam.
- Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực
hiện các cam kết của mình đối với bên mua bảo hiểm (Vốn điều lệ, ký quỹ, trích

lập quỹ dự phịng, duy trì khả năng thanh toán tối thiểu…)
- Thứ ba, Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
- Thứ tư, Chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn.
- Thứ năm, Không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.


- Thứ sáu, Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của pháp luật nói
chung và quy định trong lĩnh vực bảo hiểm nói riêng.

III. Thực trạng pháp luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt
Nam
Sau một thời gian mở cửa thị trường, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam
đã bước sang một giai đoạn mới với những bước phát triển nhanh chóng, thu được
những thành tựu khơng nhỏ trên nhiều mặt, bên cạnh đó, cũng có những hạn chế
cần được khắc phục. Để có được cái nhìn tồn diện, chúng ta sẽ xem xét cụ thể các
mặt cuả hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
1. Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm
 Doanh nghiệp bảo hiểm:
Căn cứ vào luật số 24/2000/QH10 của Quốc hội thì: Doanh nghiệp bảo hiểm là
doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo
hiểm.
- Đặc trưng của doanh nghiệp bảo hiểm:
+ Doanh nghiệp bảo hiểm có hoạt động kinh doanh tài chính, chủ yếu thường
xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm. Tính đặc thù của kinh
doanh bảo hiểm được thể hiện:
. Đây là dịch vụ tài chính đặc biệt, là hoạt động kinh doanh trên những rủi ro. Sản
phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vơ hình, nó là sự đảm bảo về mặt tài chính trước
rủi ro cho người được bảo hiểm kèm theo là dịch vụ có liên quan.
. Chu kỳ kinh doanh bảo hiểm là chu kỳ đảo ngược, tức là sản phẩm được bán ra

trước, doanh thu được thực hiện sau đó mới phát sinh chi phí.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức, thành lập và hoạt động theo các quy định
của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính. Để quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một
cơ quan quản lý nhà nước nhất định. Đây là đặc điềm giúp phân biệt doanh nghiệp
bảo hiểm với doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.
Nội dung hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm:


- Thứ nhất : kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm
+ Trong kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán
bảo hiểm dưới các hình thức sau: trực tiếp; thơng qua các đại lý bảo hiểm, môi giới
bảo hiểm; thông qua đấu thầu; các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp
luật.
+ Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền nhượng chuyển
một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm
khác nhưng khơng được nhượng tồn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một
hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo
hiểm.
- Thứ hai: quản lý quỹ và đầu tư vốn:
+ Quản lý quỹ:
Trong q trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải ln duy trì mức vốn điều
lệ đã đóng góp khơng thấp hơn mức vốn pháp định đã quy định.
+ Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải
trích lập nhằm mục đích thanh tốn cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác
định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
+ Đầu tư vốn:
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm : vốn diều lệ, quỹ dự trữ
bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi những năm trước chưa sử dụng và

các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại của doanh nghiệp,
nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
1. Đối tượng kinh doanh đa dạng.
- Bảo hiểm tài sản: BH ô tô, xe máy, BH máy bay, BH tàu thủy, BH vận chuyển
hàng hóa nội địa và xuất nhập khẩu, BH đầu máy và toa xe, BH tài sản cá nhân và
doanh nghiệp, BH tín dụng.
- Bảo hiểm con người: BH nhân thọ, BH tai nạn lao động, BH tai nạn hành khách,
BH tai nạn học sinh, sinh viên…
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: BH trách nhiệm dân sự lái xe cơ giới, BH trách
nhiệm dân sự chủ tàu, BH trách nhiệm dân sự chủ hãng hàng không…


2. Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn lớn.
Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn
này các Công ty bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn, đầu tư vào các dự án có mức
độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.
3.Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phịng bảo hiểm.
Doanh nghiệp phải ln duy trì khả năng thanh tốn trong suốt q trình hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp phải
chủ động thực hiện ngay các biện pháp tự khơi phục khả năng thanh tốn, đồng
thời báo cáo Bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ
mất khả năng thanh toán và phương án khôi phục. Nếu không khôi phục được khả
năng thanh tốn, doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
4. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
Doanh nghiệp bảo hiểm làm quen với hội nhập hợp tác quốc tế và tạo ra sự cạnh
tranh để doanh nghiệp bảo hiểm tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm
đem lại lợi ích tốt hơn cho người tham gia bảo hiểm.
Trong quá trình phát triển thì các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải hợp tác để đưa
đến thống nhất và đòi hỏi canh tranh lành mạnh.

5. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân theo các quy định của pháp luật và
các điều ước quốc tế có liên quan.
Để các DN bảo hiểm hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường cần thiết
phải điều chỉnh bằng pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt động
bảo hiểm.
Một số công ty bảo hiểm trên thị trường Việt Nam như: Công ty bảo hiểm Việt
Nam(Bảo Việt), cơng ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), Bảo hiểm
dầu khí Việt Nam (PVI), … và hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (AIV).

 Đại lý bảo hiểm
- Khái niệm: Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm
uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý
bảo hiểm theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
- Nội dung hoạt động của đại lý bảo hiểm:
+ Giới thiệu, chào bán sản phẩm


+ Thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm
+ Thu phí bảo hiểm
+ Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
+ Thực hiện các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo
hiểm
- Trách nhiệm của đại lý bảo hiểm:
+ Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp
giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các
khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm.


 Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
- Khái niệm: Là doanh nghiệp thực hiện hoạt động môi giới bảo hiểm theo
quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm và quy định của pháp luật có liên
quan
Nội dung hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm:
- Cung cấp thơng tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm
- Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình
bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
- Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm
và bên mua bảo hiểm
- Thực hiện các cơng việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo
hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm:
- Quyền: Được hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm
- Nghĩa vụ:
+ Trung thực
+ Không được tiết lộ thơng tin
+ Gây thiệt hại thì phải bồi thường
+ Phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp


2. Quy chế pháp lý về hợp đồng bảo hiểm:
- Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo
hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Đặc điểm:
+ Là hợp đồng song vụ, hợp đồng có điều kiện
+ Là hợp đồng chứa đựng yếu tố rủi ro
- Hình thức của hợp đồng:

+ Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ
ký của bên mua bảo hiểm là bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Giấy
chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng
bảo hiểm.
+ Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo
hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định
- Các loại hợp đồng bảo hiểm:
 Thứ nhất, dựa trên ý chí của người tham gia bảo hiểm. Hợp đồng bảo
hiểm được chia thành hai loại.
+ Hợp đồng bảo hiểm tự nguyện. Đây là những hợp đồng mà chủ thể được quyền
hồn tồn tự nguyện trong việc có tham gia hay không tham gia hợp đồng bảo
hiểm. Đồng thời, nếu tham gia, bên được bảo hiểm cũng được thỏa thuận về nội
dung hợp đồng theo ý chí của mình dựa trên ngun tắc bình đẳng, các bên cùng
có lợi
+ Hợp đồng bảo hiểm bắt buộc. Đây là những hợp đồng mà theo quy định của
pháp luật, một số chủ thể nhất định buộc phải tham gia hợp đồng này trong những
trường hợp nhất định nhằm bảo vệ lợi ích cơng cộng và an toàn xã hội. Đồng thời,
khi tham gia hợp đồng, các bên phải tuân thủ các điều kiện mà pháp luật đã quy
định trước.
 Thứ hai, dựa trên đối tượng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm được chia
thành 3 loại:
+ Hợp đồng bảo hiểm con người
+ Hợp đồng bảo hiểm tài sản


+ Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
 Ba là, dựa trên giá trị bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chia làm ba loại.
+ Hợp đồng bảo hiểm đúng giá trị. Đây là loại hợp đồng mà việc bảo hiểm được
thực hiện trên cơ sở số tiền bảo hiểm bằng với giá trị thực tế của toàn bộ đối tượng
bảo hiểm. Trong trường hợp này, số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị

của tài sản vào thời điểm giao kết hợp đồng.
+ Hợp đồng bảo hiểm dưới giá trị. Đây là loại hợp đồng mà theo đó, việc bảo hiểm
được thực hiện trên cơ sở số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị của tài sản được bảo
hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng.
+ Hợp đồng bảo hiểm trên giá trị. Theo quy định tại điều 42, Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000 đã được sửa đổi, bổ sung bằng Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi,
bổ sung năm 2010, quy định
“Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao
hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo
hiểm tài sản trên giá trị”.
Như vậy, tất cả các hợp đồng bảo hiểm tài sản mà trong đó, mức bảo hiểm lớn hơn
giá thị trường của tài sản vào thời điểm giao kết hợp đồng đều được coi là bảo
hiểm trên giá trị và về nguyên tắc, các bên không được giao kết hợp đồng này.
- Đối tượng bảo hiểm:
Đối tượng bảo hiểm bao gồm con người, tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối
tượng khác theo quy định của pháp luật.
 Bảo hiểm con người: Đây là một hợp đồng bảo hiểm trong đó có đối tượng
được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con người. Trong
đó, hợp đồng có đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng con người là hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ, trường hợp cịn lại trong nhóm bảo hiểm này là hợp
đồng bảo hiểm phi nhân thọ.

 Bảo hiểm tài sản: Đây là loại hợp đồng bảo hiểm trong đó đối tượng được
bảo hiểm là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền
và các quyền tài sản.


+ Bên bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm theo các
điều kiện đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
+ Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối
với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm
đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
+ Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba
thì có quyền u cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả cho
người thứ ba, nhưng khơng vượt q mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận
hoặc pháp luật đã quy định.
-

Sự kiện bảo hiểm:

+ Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật
quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên
được bảo hiểm, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 346 của Bộ luật Dân sự
2005 về thế chấp tài sản bảo hiểm.
-

Phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng
cho bên bảo hiểm. Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận hoặc theo
quy định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kỳ.
- Nghĩa vụ thông tin của bên mua bảo hiểm:
+ Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, theo yêu cầu của bên bảo hiểm, bên mua bảo
hiểm phải cung cấp cho bên bảo hiểm đầy đủ thông tin có liên quan đến đối tượng
bảo hiểm, trừ thơng tin mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết.
+ Trong trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết
hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm chất dứt hợp đồng.

-

Nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại:

+ Bên được bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện ghi trong hợp đồng, các
quy định của pháp luật có liên quan và thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt
hại.


+ Trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi khơng thực hiện các biện pháp
phịng ngừa thiệt hại đã ghi trong hợp đồng thì bên bảo hiểm có quyền ấn định một
thời hạn để bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn mà các
biện pháp phịng ngừa vẫn khơng được thực hiện thì bên bảo hiểm có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại
xảy ra do các biện pháp phịng ngừa đã khơng được thực hiện.
-

Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm và của bên bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm:

+ Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm phải
báo ngay cho bên bảo hiểm và phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết mà khả năng
cho phép để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại.
+ Bên bảo hiểm phải thanh tốn chi phí cần thiết và hợp lý mà người thứ ba đã bỏ
ra để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại.
- Trả tiền bảo hiểm:
+ Bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm trong thời hạn đã
thoả thuận; nếu khơng có thoả thuận về thời hạn thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về
yêu cầu trả tiền bảo hiểm.

+ Trong trường hợp bên bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm thì phải trả cả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời
điểm trả tiền bảo hiểm tương ứng với thời gian chậm trả.
+ Trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xảy ra thiệt hại thì bên bảo hiểm
khơng phải trả tiền bảo hiểm; nếu do lỗi vô ý của người được bảo hiểm thì bên bảo
hiểm khơng phải trả một phần tiền bảo hiểm tương ứng với mức độ lỗi của bên
được bảo hiểm.

 Các hình thức kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, Kinh doanh bảo hiểm gốc:
- Đây là một loại kinh doanh truyền thống của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị
trường, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp ký hợp đồng bảo hiểm với khách
hàng là các tổ chức cá nhân không phải là một doanh nghiệp bảo hiểm và cam kết
trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
Thứ hai, Kinh doanh tái bảo hiểm:


- Kinh doanh tái bảo hiểm là một loại hình kinh doanh bảo hiểm do các doanh
nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện đối với khách hàng là các doanh
nghiệp bảo hiểm gốc trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm với
doanh nghiệp bảo hiểm gốc
- Có 2 hình thức tái bảo hiểm chính:
+ tái bảo hiểm tạm thời
+ tái bảo hiểm cố định
- Mọi hoạt động tái bảo hiểm là tạm thời, điều này có nghĩa là mỗi rủi ro mà cơng
ty bảo hiểm gốc mời chào cho công ty tái bảo hiểm thì cơng ty tái bảo hiểm đều có
thể quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. điều này liên quan rất nhiều đến
việc quản lý như chúng ta có thể hình dung và do vậy rất tốn kém. Hình thức tái
bảo hiểm cố định ngày càng trở nên phổ biến. Một thỏa thuận sẽ được lập giữa
công ty bảo hiểm gốc và công ty tại bảo hiểm cam kết rằng, tất cả những rủi ro đáp

ứng một số tiêu chuẩn đã thỏa thuận sẽ được chào (tái) cho công ty tái bảo hiểm
- Có hai dạng tái bảo hiểm cố định:
- Tái bảo hiểm cố định theo tỉ lệ:
+ Theo phương pháp tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc quyết định tí lệ rủi ro
giữ lại là bao nhiêu và thỏa thuận chuyển nhượng phần còn lại cho các công ty tái
bảo hiểm theo một hợp đồng cố định Có hai loại hợp đồng tái bảo hiểm theo tỉ lệ a,
Tái bảo hiểm cố định số thành Theo hợp đồng tái bảo hiểm số thành, 1 tỉ lệ cố định
của bất cứ tổn thất nào đã xác định trong hợp đồng được tái bảo hiểm ví dụ một
cơng ty bảo hiểm gốc có thể đồng ý tái bảo hiểm 80% Do vậy, nếu số tiền bảo hiểm
cho một rủi ro là 1.000.000 VND thì cơng ty bảo hiểm gốc giữ lại 200.000 VND và
tái bảo hiểm 800.000 VND
+ Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi
Một cách thức khác để tái bảo hiểm tỷ lệ cố định của mọi tổn thất là công ty bảo
hiểm gốc quyết định mỗi rủi ro công ty giữ lại là bao nhiêu, số này được gọi là
mức giữ lại và được tính tốn trên tổ chức tài chính dự kiến. Đa số các trường hợp
cơng ty bảo hiểm phải tính tốn khả năng tổn thất tối đa có thể xảy ra và điều sẽ
được thực hiện bằng cách xem xét tất cả những nguy cơ có liên quan đến rủi ro.
Cơng ty bảo hiểm gốc sau đó có thể thu xếp việc tái bảo hiểm theo các lớp. Mỗi
một lớp tương đương với mức giữ lại của công ty bảo hiểm gốc


- Tái bảo hiểm cố định phi tỉ lệ
+ Các phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan đến các tỷ lệ của giá trị chịu
rủi ro. Các phương pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác và được
dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm công ty nhận tái bảo hiểm
đồng ý thanh toán một số tiền vượt hay quá số tiền mà công ty bảo hiểm gốc đồng
ý thanh toán hoặc giữ lại. Hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ có hai loại:
a, Vượt mức bồi thường: Theo phương pháp này, các bên thảo luận là cơng ty
nhượng tái bảo hiểm thanh tốn số tiền cố định đầu tiên của các tổn thất phát sinh
từ một sự cố và công ty nhận tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định vượt quá mức

giữ lại
b, Vượt tỷ lệ bồi thường: Phương pháp tái bảo hiểm này thực hiện việc bảo vệ cho
toàn bộ các rủi ro chứ không phải bảo vệ cho các tổn thất đơn lẻ. Khi tỷ lệ tổn thất
cho một loại nghiệp vụ bảo hiểm vượt qua con số cụ thể thì cơng ty tái bảo hiểm
đồng ý thanh toán. Tỷ lệ tổn thất là tỷ lệ khiếu nại theo phần trăm của phí bảo
hiểm. Do vậy, phí bảo hiểm là 100.000VND một khiếu nại thanh toán là
50.000VND, tỷ lệ tổn thất là 50% Khi tỷ lệ này vượt quá một con số nhất định,
công ty tái bảo hiểm sẽ không sẵn sàng bồi thường toàn bộ tổn thất vượt quá tỷ lệ
đã được thỏa thuận vì điều này sẽ khơng khuyến khích công ty bảo hiểm gốc thận
trọng trong việc đánh giá rủi ro giải quyết khiếu nại của họ.
Thứ ba, Kinh doanh môi giới bảo hiểm:
-

Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên
mua bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm và các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Người mơi giới bảo
hiểm có thể là một cá nhân hay một cơng ty bảo hiểm mà tồn bộ thời gian
làm việc của họ là thu xếp để khách mua bảo hiểm ký kết hợp đồng với các
công ty bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể nhận được sự tư vấn độc lập
từ một người môi giới về một loạt vấn đề bảo hiểm mà khơng phải trả phí
trực tiếp cho người mơi giới

Ví dụ: Một người mơi giới bảo hiểm sẽ tư vấn về các nhu cầu bảo hiểm, các
hoạt động bảo hiểm tốt nhất và những hạn chế chúng, về thị trường bảo hiểm tốt
nhất, các thủ tục khiếu nại, nghĩa vụ của người được bảo hiểm theo các điều
kiện của đơn bảo hiểm và người môi giới sẽ cập nhật thơng tin theo thời gian
bao gồm có những thay đổi của thị trường. Theo quan điểm của các công ty bảo



hiểm, những cuộc đàm phán với người môi giới thường dễ dàng hơn và nhanh
chóng hơn so với việc tiếp xúc trực tiếp với người mua bảo hiểm.
- Ở Việt Nam hiện nay mới có một cơng ty liên doanh mơi giới bảo hiểm, đó
là cơng ty Aon - Inchinbrok thành lập năm 1993 (vốn điều lệ 250.000USD ).
Đây là công ty liên doanh giữa một bên là tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
(BAOVIET) và bên nước ngoài là tập đồn mơi giới bảo hiểm Aon của Mỹ.
3. Quản lý của nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển, tạo cơng ăn việc làm cho hàng trăm ngàn người, thực hiện khắc phục và
giảm thiểu rủi ro trong đời sống, kinh doanh. Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà
nước trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thể hiện thông qua việc Nhà nước thống
nhất quản lý đối với hoạt động bảo hiểm bằng chính sách pháp luật chế độ ban
hành hệ thống pháp lệnh làm chuẩn mực pháp lý cho các loại hình bảo hiểm quy
định về chế độ và thủ tục về bảo hiểm và thực hiện bảo hiểm thực hiện thanh tra
kiểm tra xử lý các vi phạm trong hợp đồng bảo hiểm
Sự quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Nhà nước vừa đảm bảo quản lý, xử
lý chặt chẽ những vấn đề đã, đang và sẽ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, vừa đảm bảo tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho
doanh nghiệp bảo hiểm và thị trường bảo hiểm phát triển. Hoạt động kinh doanh
bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm. Ðây là văn bản luật quan
trọng, là cơ sở để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
- Căn cứ Điều 120 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (được sửa đổi, bổ
sung bởi Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi 2010) có quy định về các nội
dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm như sau:
“Nội dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển thị trường bảo hiểm Việt Nam;
2. Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phịng đại diện của doanh

nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;


3. Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa
hồng bảo hiểm;
4. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình
hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật
của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện
pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực
hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm;
5. Tổ chức thơng tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm;
6. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm;
7. Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt
động ở nước ngoài;
8. Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh
nghiệp mơi giới bảo hiểm nước ngồi tại Việt Nam;
9. Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp
vụ về bảo hiểm;
10. Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.”
- Về thực thi pháp luật kinh doanh bảo hiểm:
+ Mặc dù Luật Kinh doanh bảo hiểm dựa trên các nguyên tắc chuyên ngành, nhưng
thực tế số lượng tranh chấp bảo hiểm và mức độ phức tạp của các tranh chấp ngày
càng tăng, do đó cần bổ sung các quy định về nguyên tắc chung trong lĩnh vực bảo
hiểm, căn cứ trên tập quán vốn được áp dụng trong ngành (pháp điển hóa các
nguyên tắc bảo hiểm). Ðồng thời, cơ quan có thẩm quyền giám sát trong lĩnh vực
bảo hiểm, cụ thể là Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm và các cơ quan liên quan cần
xây dựng cổng thông tin cơ sở dữ liệu về bảo hiểm đầy đủ và cụ thể hơn so với
cổng thông tin hiện tại. Nên cho phép cá nhân, tổ chức khác có nhu cầu được truy
cập các dữ liệu như: tình trạng đăng ký quy tắc bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo

hiểm đang hoạt động; các tranh chấp bảo hiểm tiêu biểu đã được giải quyết theo tố
tụng tịa án (án lệ);
Theo đó, hợp đồng và quy tắc bảo hiểm cần được ưu tiên áp dụng trước khi xem
xét dẫn chiếu thông tư hay các quy định dưới luật có liên quan


+ Ngồi ra, việc khơng phân định rõ văn bản có hiệu lực cần được áp dụng sẽ gây
thiệt hại đáng kể cho người mua bảo hiểm. Ðáng chú ý, tình trạng bán bảo hiểm
chạy theo doanh số, đào tạo đại lý ồ ạt, thiếu kiến thức, kỹ năng trong việc quản lý
đại lý vẫn phổ biến. Ðôi khi, hành vi vi phạm nghiệp vụ, pháp luật của đại lý bảo
hiểm khiến khách hàng bị thiệt hại.
Thị trường bảo hiểm, cả nhân thọ và phi nhân thọ, trong những năm qua có nhiều
bước phát triển rõ rệt, tốc độ tăng trưởng cao, trở thành ngành nghề kinh doanh hấp
dẫn. Nhiều tổ chức tài chính nước ngồi ln đánh giá cao về tiềm năng của thị
trường bảo hiểm Việt Nam.
4. Những bất cập của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam trong những năm qua phát triển nhanh chóng.
Trong giai đoạn 2000 - 2020, thị trường bảo hiểm Việt Nam tăng trưởng nhanh
vượt bậc so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, thị trường bảo
hiểm có 70 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ,
bảo hiểm phi nhân thọ, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm…
Đến cuối năm 2020, thị trường bảo hiểm đã tạo lập công ăn việc làm cho gần 1
triệu lao động với thu nhập ổn định, được đào tạo về tài chính, bảo hiểm. Theo
thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, tổng giá trị được bảo hiểm là 11,7 triệu
tỷ đồng. Hiện nay, khoảng 10 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ, tương
đương 10% dân số, 4 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe ngắn hạn, 12
triệu học sinh được bảo hiểm chăm sóc sức khỏe và tai nạn, 18 triệu lượt khách
được bảo hiểm hàng không…
Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới thì tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm/GDP cịn
thấp (3%), trong khi đó các nước tiên tiến trong khu vực Châu Á- Thái Bình

Dương (9,7%), thế giới (6,1%). Theo đánh giá, tiềm năng thị trường bảo hiểm còn
rất lớn, nhu cầu bảo hiểm trong khu vực công, khu vực công nghiệp, thương mại,
hộ gia đình và dân cư đang địi hỏi ngày càng cao, trong khi quy mơ thị trường bảo
hiểm cịn khiêm tốn.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính nhận định, do Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được ban
hành cách đây 20 năm, cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm và hội nhập,
hợp tác quốc tế, nên thị trường cũng bộc lộ một số tồn tại và cơ chế chính sách
cũng có những bất cập chưa theo kịp với thực tế. Cụ thể:
-

Chất lượng sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm cịn chưa cao. Trong đó, nhiều khu
vực, tầng lớp, tổ chức, cá nhân chưa tiếp cận được với các sản phẩm bảo


×