Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Vận dụng phương pháp DEMATEL đánh giá rủi ro COVID-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.09 KB, 12 trang )

Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

Vận dụng phương pháp DEMATEL đánh giá rủi ro COVID-19 tới
chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam
Applying DEMATEL method to assess COVID-19 risks to food supply
chain in Vietnam
Tôn Nguyễn Trọng Hiền1*, Nguyễn Quỳnh Mai1
Đại học Văn Lang, Việt Nam
Tác giả liên hệ, Email:
1

*

THÔNG TIN
DOI:10.46223/HCMCOUJS.

Ngày nhận: 17/02/2021
Ngày nhận lại: 28/02/2021
Duyệt đăng: 09/03/2021

Từ khóa:
COVID-19, DEMATEL, doanh
nghiệp vận tải Việt Nam, chuỗi
cung ứng thực phẩm

TÓM TẮT
Đại dịch COVID-19 đã và đang có những tác động to lớn
đến chuỗi cung ứng thực phẩm tồn cầu nói chung, gây gián
đoạn, và xáo trộn chuỗi cung ứng thực phẩm Việt Nam nói
riêng. Đại dịch mang lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng bởi rủi ro
yêu cầu chúng ta cần thiết phải chuẩn bị, đối phó và vượt qua.


Các rủi ro phức tạp và tác động lẫn nhau, do đó, nghiên cứu này
nhằm đánh giá tầm quan trọng, mối quan hệ đan xen giữa các
yếu tố rủi ro trong chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam bằng
phương pháp DEMATEL. Nghiên cứu cho thấy rủi ro về thay
đổi trong chính sách và rủi ro thay đổi hành vi tiêu dùng có ảnh
hưởng rất mạnh, là yếu tố nguy cơ kéo theo các rủi ro khác. Tuy
là nguyên nhân, thay đổi nhu cầu và hành vi tiêu dùng vẫn bị rủi
ro thay đổi chính sách từ nhà nước chi phối, trong khi đó, việc
thay đổi chính sách hay khơng lại chịu sự tác động từ việc nông
dân bị giảm thu nhập và hành vi người tiêu dùng thay đổi.
ABSTRACT

Keywords:
COVID-19, DEMATEL,
Vietnam logistics companies,
food supply chain

The COVID-19 pandemic has had a significant impact on
the global food supply chain in general, caused disruption and
disturbance to the Vietnamese food supply chain in particular.
Pandemic has brought severe consequences; the impact of risk
requires us to identify and deal with potential threats. Risks are
complex and interact with each other. Therefore, this study aims
to evaluate the importance and intersection of risk factors in the
food supply chain in Vietnam by DEMATEL method. Research
shows that policy change risk and risk of changing consumer
behavior have a great influence, which is risk factors potentially
lead to other threats. Despite being the cause, changing
consumption behavior is still dominated by policy change; in
the meantime, changing policy is affected by the decrease in

farmer income and changes in consumer behavior.


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

1. Giới thiệu
Cuộc khủng hoảng đại dịch Corona vi-rút 2019 (COVID-19) ngày càng sâu rộng
khiến các quốc gia tạm thời đóng cửa giao thương giãn cách xã hội. Đại dịch đã có tác động
đáng kể đến chuỗi cung ứng toàn cầu và tiếp tục ảnh hưởng đến các doanh nghiệp ngành thực
phẩm hoạt động trên tồn thế giới. Việt Nam khơng ngoại lệ, trong khi Việt Nam đã và đang
làm tốt việc ngăn chặn đại dịch, do tính liên kết tồn cầu, nền kinh tế của Việt Nam vẫn bị ảnh
hưởng dẫn đến thiệt hại và bộc lộ những rủi ro khi cung ứng các sản phẩm. Hoạt động giao
thương tại Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự bùng phát của dịch COVID-19. Trước hết
tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam giảm 4% so với cùng kỳ năm
2019 (Tran, 2020). Nhu cầu tiêu dùng giảm do người dân thắt chặt chi tiêu, có sự thay đổi
hành vi tiêu dùng. Thống kê cho thấy tiêu dùng thức uống giảm 14.1 %; sữa và sản phẩm từ
sữa tăng 10.3%; thực phẩm đóng gói tăng 26.2%. (Sơn Nam, 2020). Bên cạnh đó, tác động
của đại dịch Covid-19 đến thị trường vận tải biển là rất rõ ràng đại dịch COVID-19 sẽ khiến
nhu cầu vận tải đường biển thế giới năm 2020 giảm khoảng 30%, hoạt động vận tải hàng hóa
bằng đường biển có lúc gần như tê liệt (Nguyen, 2020).
Nhiều nghiên cứu quốc tế kịp thời để tìm giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của
đại dịch. Quan sát kết quả nghiên cứu được báo cáo trên cơ sở dữ liệu Scopus nghiên cứu về
ảnh hưởng dịch bệnh đối với chuỗi cung ứng thực phẩm, chúng tơi ghi nhận nhóm các hướng
nghiên cứu tiêu biểu như: Đo lường tác động của COVID-19 đến giá, cổ phiếu và lợi nhuận
trong chuỗi cung ứng thực phẩm (Coluccia, Agnusdei, Miglietta, & De Leo, 2021; Hưhler &
Lansink, 2020); Đảm bảo an tồn thực phẩm trong tình hình dịch bệnh (Kumar et al., 2021;
Rahman, Sharun, Jose, & Dhama, 2020; Rizou, Galanakis, Aldawoud, & Galanakis, 2020);
Chiến lược, chính sách ứng phó và khả năng phục hồi (Ali et al., 2021; Chenarides,
Manfredo, & Richards, 2020; Liverpool‐Tasie, Reardon, & Belton, 2020); Đề xuất nguyên
nhân và/ hoặc giải pháp hạn chế gián đoạn chuỗi cung ứng (Aday & Aday, 2020; Mahajan &

Tomar, 2020; Montenegro & Young, 2020; Singh, Kumar, Panchal, & Tiwari, 2020).
Xem xét khoảng trống trong nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy rằng phân tích mối quan
hệ đan xen giữa các yếu tố rủi ro bị bỏ qua trong các phương pháp đánh giá rủi ro truyền
thống. Mặc khác, bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam, việc nghiên cứu đánh giá rủi ro COVID19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm vẫn chưa được tiến hành. Do đó mục tiêu nghiên cứu là
đánh giá rủi ro COVID-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam thông qua việc xác
định mức độ quan trọng các rủi ro và mối liên hệ giữa chúng bằng phương pháp DEMATEL
(Decision Making Trial and Evaluation Laboratory).
2. Cơ sở lý thuyết và mơ hình nghiên cứu
Như đã đề cập, nhiều nghiên cứu trước đó được tiến hành đánh giá ảnh hưởng
COVID-19 mang lại, trong đó có những nghiên cứu đánh giá tác động của COVID-19 đối với
chuỗi cung ứng thực phẩm. Hầu hết các nghiên cứu đều đồng tình đại dịch COVID-19 đã
mang lại những tác động chưa từng có đối với ngành cơng nghiệp thực phẩm và làm gián
đoạn chuỗi cung ứng. Logistics (vận tải) là hoạt động chính của chuỗi cung ứng hàng hóa,
hoạt động này bị tác động tiêu cực là tất yếu, do đó những giải pháp nhanh chóng được đề
xuất. Singh và cộng sự (2020) đề xuất mơ hình có thể giúp phát triển chuỗi cung ứng thực
phẩm linh hoạt và đáp ứng để phù hợp với nhu cầu khác nhau cũng như hệ thống vận tải kết
hợp giúp tiếp cận khu vực bị cách ly. Thực phẩm tươi sống là nhóm thực phẩm dễ bị hư hỏng
nếu như quá trình vận chuyển bị gián đoạn quá lâu, mặc khác nghiên cứu cho thấy các sản


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

phẩm tươi và dễ hư hỏng được sản xuất hoặc thu hoạch trong đợt COVID-19 đầu tiên đã bị
ảnh hưởng về mặt giá cả (Coluccia et al., 2021), do đó nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro
trong trong chuỗi thực phẩm tươi sống nói riêng, nâng cao an tồn vệ sinh thực phẩm trong
tình hình dịch bệnh nói chung được nghiên cứu (Kumar et al., 2021; Rahman et al., 2020;
Rizou et al., 2020). Chenarides và cộng sự (2020) đề xuất thuyết quyền chọn thực (real option
theory) tăng cường tính linh hoạt chuỗi cung ứng nhằm giảm thiểu tổn thất, trong khi đó,
nhóm nghiên cứu tại Ấn độ Mahajan và Tomar (2020) đề xuất nhóm giải pháp, tập trung giải
pháp kho bãi và chính sách thu mua hàng hóa tại địa phương.

Xem xét bao quát hơn, Aday và Aday (2020) và Hobbs (2020) phân tích các tác động
của cú sốc từ phía cầu đối với chuỗi cung ứng thực phẩm, bao gồm hành vi mua sắm hoảng
loạn của người tiêu dùng tại đối với các mặt hàng thiết yếu, sự thay đổi đột ngột trong cách
tiêu dùng từ lĩnh vực dịch vụ thực phẩm sang các bữa ăn được chế biến sẵn và tiêu thụ tại nhà
(Hobbs, 2020), cùng với đó là thay đổi lựa chọn các thực phẩm tốt cho sức khỏe, an toàn
(Aday & Aday, 2020). Các gián đoạn tiềm năng từ phía cung ứng đối với chuỗi cung ứng
thực phẩm cũng được đánh giá, bao gồm tình trạng thiếu lao động, gián đoạn mạng lưới giao
thơng và ùn ứ hàng hóa tại biên giới. Riêng bài báo của Hobbs (2020) xem xét liệu đại dịch
COVID-19 có ảnh hưởng lâu dài hơn đến bản chất của chuỗi cung ứng thực phẩm hay không,
bao gồm sự phát triển của lĩnh vực giao hàng tạp hóa trực tuyến và mức độ mà người tiêu
dùng sẽ ưu tiên các chuỗi cung ứng thực phẩm địa phương. Khi tồn tại những bất cập tại một
số địa phương trong tình hình dịch bệnh, những gợi ý chính sách được đề xuất (Liverpool‐
Tasie et al., 2020; Thilmany, Canales, Low, & Boys, 2020). Ngồi ra, việc phân tích giá cổ
phiếu và thơng tin từ các báo cáo tài chính để xem xét tác động của đại dịch đối với sự biến
động giá cổ phiếu và lợi nhuận của các công ty trong chuỗi cung ứng thực phẩm cũng được
xem xét (Hưhler & Lansink, 2020).
Nhìn chung, COVID-19 tác động lên tồn cầu, nhưng các vấn đề và mức độ mỗi quốc
gia chịu ảnh hưởng lại không giống nhau (Milani, 2020). Đại dịch COVID-19 vẫn còn tiếp
diễn và mang đến những mang đến những vấn đề mà chúng ta gọi là rủi ro có thể ảnh hưởng
tới chuỗi cung ứng (Hoek, 2020), tuy nhiên khi xem xét rủi ro toàn diện trong chuỗi cung ứng
thực phẩm, những vấn đề gặp phải vẫn chưa rõ ràng (Aday & Aday, 2020). Vẫn chưa có
nghiên cứu về mối quan hệ đan xen giữa các yếu tố rủi ro đối với chuỗi cung ứng thực phẩm
toàn cầu, và chưa có nghiên cứu như vậy cho bất kỳ quốc gia nào. Tầm quan trọng trong quản
trị rủi ro là xác định các rủi ro và phân tích mối quan hệ (Babu, Bhardwaj, & Agrawal, 2020;
Govindan & Chaudhuri, 2016), một khi nhận thức và đánh giá được rủi ro sẽ mang lại khả
năng giảm cả khả năng rủi ro xảy ra và tác động tiềm tàng của nó. Do đó, đánh giá rủi ro
COVID-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam được thực hiện.
Trong nghiên cứu này, đánh giá rủi ro được xác định bằng phương pháp DEMATEL.
Phương pháp DEMATEL lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1973 bởi Gabus và Fontenla,
để phân tích mối quan hệ và sức ảnh hưởng giữa các vấn đề phức tạp chẳng hạn như phân biệt

chủng tộc, bảo hộ lao động, nạn đói, chủng tộc, etc., (Li, Hu, Zhang, Deng, & Mahadevan,
2014) với mẫu khảo sát không quá lớn. Một cách tổng quát, phương pháp DEMATEL là một
phương pháp luận có thể được sử dụng để nghiên cứu và giải quyết các nhóm vấn đề phức tạp
và tác động qua lại. Sản phẩm cuối cùng của quy trình DEMATEL là một bản bản đồ quan hệ
tác động các vấn đề cần giải quyết. Trong nhóm các phương pháp ra quyết định đa mục tiêu,
DEMATEL tham khảo ý kiến chuyên gia tương tự như các phương pháp ISM, ANP, etc. Tuy
nhiên, Wu (2008) cho rằng (ANP) đã được áp dụng thành công trong một số nghiên cứu, các


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

nghiên cứu ANP đó khơng lý tưởng và chính xác vì khơng chỉ ra chính xác mối tương quan
giữa các tiêu chí cần phân tích. Trong khi đó, phương pháp ISM một số điểm tương đồng với
phương pháp DEMATEL, chẳng hạn như xác định mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giữa
một số yếu tố quyết định. Tuy nhiên, DEMATEL phân tích vấn đề chi tiết hơn, do đó Kumar
và Dixit (2018) cho rằng ISM phân tích vĩ mơ trong khi DEMATEL phân tích vi mô hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được tiến hành qua các bước như sau:
(Bước 2.0) Thành lặp nhóm chuyên gia: Có 09 chuyên gia sẽ tiến hành đánh giá sơ bộ
bộ tiêu chí. Họ đến từ 04 doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, 02 doanh nghiệp vận
tải, và 02 doanh nghiệp sản xuất. Để đảm bảo độ tin cậy, thành phần tham gia đánh giá đảm
nhiệm vị trí phó phịng trở lên ở các bộ phận: Cung ứng, quản trị vận hành, đảm bảo rằng họ
có cái nhìn bao qt.
(Bước 2.1) Chọn lọc rủi ro. Bao gồm tham khảo các nghiên cứu trước đây, chọn lọc,
sau đó gửi chuyên gia đánh giá sơ bộ;
(Bước 2.2) Thiết lặp ma trận và tính tốn trung bình cộng ma trận;
(Bước 2.3) Chuẩn hóa ma trận;
(Bước 2.4) Xây dựng ma trận quan hệ tổng quát;
(Bước 2.5) Xây dựng bản đồ quan hệ.
3.1. Chọn lọc tiêu chí

Chúng tơi quyết định chọn lọc rủi ro từ Covid-19 đối với chuỗi cung ứng thực phẩm
thơng qua các nghiên cứu trước đó để đảm bảo độ tin cậy và tránh thiên kiến trong q trình
chọn lọc dữ liệu. Chúng tơi sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp-cơ sở dữ liệu Web of Science
(WoS) của Clarivate Analytics. Để sàn lọc lại một lần nữa những tạp chí đạt chất lượng tốt,
chúng tơi so sánh kết quả tìm kiếm được với danh sách phân loại tạp chí (bản cập nhật mới
nhất AJG 2018) biên soạn bởi Hiệp hội các trường kinh doanh Anh Quốc. Chi tiết tiêu chí tìm
kiếm và kết quả được thể hiện bên dưới:
- Cơ sở dữ liệu: Web of Science;
- Ngày truy vấn: 10/01/2021;
- Từ khóa tìm kiếm: TITLE: (COVID * FOOD SUPPLY CHAIN);
- Kết quả tìm kiếm: 16 kết quả trả về (Bảng 1).
Bảng 1
Kết quả tìm kiếm tạp chí theo tiêu chí tìm kiếm
STT

DOI

1

10.1007/s13197-02004942-0

2

10.1111/ajae.12158

3

10.1002/agr.21678

Tên tạp chí

Journal of Food Science And TechnologyMysore
American Journal of Agricultural
Economics
Agribusiness

AJG
2018

3*


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

STT
4
5
6
7
8
9
10
11
12

10.1093/fqsafe/fyaa024
10.1002/aepp.13121
10.1080/1059924X.2020.
1815623
10.1002/aepp.13139
10.5304/jafscd.2020.101.

015
10.1016/j.tifs.2020.06.00
8
10.1080/00207543.2020.
1792000
10.1038/s43016-0200097-7
10.5304/jafscd.2020.094.
031

13

10.1111/cjag.12237

14

No
10.1016/j.tifs.2020.03.04
1
10.1108/CAER-04-20200056

15
16

AJG
2018

Tên tạp chí

DOI


Food Quality And Safety
Applied Economic Perspectives and Policy

2*

Journal of Agromedicine
Applied Economic Perspectives and Policy
Journal of Agriculture Food Systems And
Community Development

2*

Trends in Food Science & Technology
International Journal of Production
Research

3*

Nature Food
Journal of Agriculture Food Systems And
Community Development
Canadian Journal of Agricultural
Economics
International Sugar Journal

2*

Trends in Food Science & Technology
A snapshot of food supply chain in Wuhan
under the COVID-19 pandemic


Nguồn: Web of Science

Từ 16 bài viết từ cơ sở dữ liệu WoS, có 05 bài viết xuất bản trong tạp chí được AJG
2018 xếp hạng 2* trở lên, là tạp chí được đánh giá cao trong cùng lĩnh vực nghiên cứu. Tiến
hành tổng hợp các bài viết nêu trên, đọc, phân tích và tổng hợp chúng tơi có được rủi ro mang
đến chuỗi cung ứng thực phẩm như sau:
Bảng 2
Rủi ro COVID-19 ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng thực phẩm
Ký hiệu

A

Rủi ro

Giải nghĩa

COVID-19 mang lại rủi ro
về gián đoạn trong lưu thơng
Hàng hóa khơng thể lưu
hàng hóa. Đại dịch COVIDthông
19 mang lại mối nguy hiểm
sức khỏe nghiêm trọng và
(Hobbs, 2020; Liverpool‐
Tasie et al., 2020; Mahajan & các quốc gia trên thế giới đã
phản ứng với việc đóng cửa
Tomar, 2020; Thilmany et
một phần nền kinh tế của họ
al., 2020)
để làm chậm tốc độ lây

nhiễm, điều này ảnh hưởng
đến vận nguyên liệu và hàng


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

hóa.

Thiếu lao động
B

C

(Hobbs, 2020; Liverpool‐
Tasie et al., 2020; Singh et
al., 2020)

Giảm thu nhập nông dân
(Liverpool‐Tasie et al., 2020;
Mahajan & Tomar, 2020)

Thay đổi hành vi tiêu dùng
D

(Liverpool‐Tasie et al., 2020)

E

Tăng chi phí vận chuyển
(Singh et al., 2020)


Thay đổi chính sách
F

(Liverpool‐Tasie et al., 2020;
Thilmany et al., 2020)

Mối nguy thiếu hụt lao động
trong phân phối, vận chuyển
thực phẩm do bệnh tật, cách
ly, giãn cách xã hội. Sự
thiếu hụt trầm trọng những
vùng có dịch do lo ngại lây
nhiễm. Ngồi ra, gián đoạn
hoặc bất ổn trong kinh
doanh do dịch bệnh gây áp
lực về tìm kiếm nguồn lao
động thay thế kịp thời.
Nông thủy sản không thể
tiêu thụ do lệnh giới nghiêm
ảnh hưởng đến nguồn thu
của nơng dân. Ví dụ khác,
thiếu vác-xin do chuỗi cung
ứng thuốc bị nghẽn cũng ảnh
hưởng đến thu nhập nơng
dân.
Nguy cơ có sự thay đổi đột
ngột trong mơ hình tiêu
dùng từ lĩnh vực dịch vụ
thực phẩm, ngồi ra tồn tại

hỗn loại trong nhu cầu tiêu
dùng thực phẩm hàng ngày.
Giao hàng khơng kịp thời
làm tăng chí phí phát sinh và
chi phí thay thế phương tiện
vận tải khác nếu có.
Doanh nghiệp cần những
chính sách ổn định lâu dài,
trong khi đó, dịch bệnh
mang theo khả năng thay đổi
liên tục chính sách điều
chỉnh trong tình hình mới.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Sáu tiêu chí rủi ro kèm diễn giải được gửi cho các chuyên gia thẩm định sơ xem liệu
rằng các rủi ro này có phù hợp trong ngữ cảnh Việt Nam khơng. Kết quả thẩm định 06 tiêu
chí này được thơng qua.


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

3.2. DEMATEL
3.2.1. Thiết lặp ma trận và tính trung bình cộng ma trận
Nhóm chun gia được yêu cầu so sánh cặp các rủi ro với nhau theo thang đánh giá
mức độ ảnh hưởng như sau: ‘0’ =’ không ảnh hưởng’; ‘1’ = ‘ảnh hưởng rất nhẹ’, ‘2’ = ‘ảnh
hưởng vừa phải’, ‘3’ = ‘ảnh hưởng mạnh’, ‘4’ = ‘ảnh hưởng rất mạnh’). Ví dụ: Rủi ro A
khơng có ảnh hưởng lên rủi ro B là ‘0’; rủi ro B có ảnh hưởng rất ít lên rủi ro A là ‘1’.
Sau khi nhận được kết quả từ nhóm khảo sát chúng tơi xây dựng ma trận. Với mỗi
đánh giá của người khảo sát, 1 ma trận vng n x n được thiết lặp, trong đó n là số biến quan

sát. Số lượng ma trận bằng số người tham gia khảo sát.

Ta có kết quả ma trận trung bình như sau:


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

3.2.2. Chuẩn hóa (matrix D)
Tính toán ma trận quan hệ trực tiếp ban đầu D được chuẩn hóa bằng cơng thức: D = A
x S, trong đó, Ta có:
(1)
3.2.3. Xây dựng ma trận quan hệ tổng qt ( Total relation matrix T)

Tính tốn ma trận ảnh hưởng tổng quát (T) bằng công thức: T= D(I-D)-1, I là ma trận
đơn vị.

3.2.4. Xây dựng bản đồ quan hệ
Giả sử r và c là n x 1 và 1 x n vectơ đại diện cho tổng các hàng và tổng các cột của ma
trận quan hệ T. Ta gọi ri là tổng ảnh hưởng bao gồm ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp được
gây ra bởi nhân tố thứ i; c j là tổng ảnh hưởng, bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp lên nhân tố
thứ j từ các nhân tố khác. Khi i = j, tổng ( ri + c j ) nói lên mức độ quan trọng của nhân tố i.
Trong khi đó, hiệu ( ri - c j ) nói lên mối quan hệ nhân quả của các yếu tố. Trường hợp ( ri - c j
) > 0, nhân tố i là nhân tố nguyên nhân (cause); Khi ( ri - c j ) < 0, nhân tố i là nhân tố kết quả
(effect).
Bảng 3
Phân tích tầm quan trọng và xếp hạng của rủi ro
Rủi ro
Hàng hóa khơng thể lưu thơng (A)
Thiếu lao động (B)
Giảm thu nhập nông dân (C)


r+c
3.9837
2.9753
4.1126

r–c
-0.7763
-0.0654
-0.4349


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

Rủi ro
Thay đổi hành vi tiêu dùng (D)
Tăng chi phí vận chuyển (E)
Thay đổi chính sách (F)

r+c
4.0216
3.8625
4.7266

r–c
0.9266
-0.5267
0.8767

Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả


Kết hợp giá trị ngưỡng tính được (Threshold alpha value) = 0.3289 và Bảng 3 ta có sơ
đồ quan hệ như sau:

Hình 1. Bản đồ quan hệ các rủi ro COVID-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm Việt Nam
Nguồn: Tác giả

4. Kết quả nghiên cứu
Kết quả phân tích từ Bảng 3 cho thấy, lo ngại về thay đổi chính sách (F) được quan
tâm nhiều nhất, kế đến rủi ro giảm thu nhập nông dân (C), thay đổi hành vi tiêu dùng (D),
hàng hóa khơng lưu thơng (A), tăng chi phí vận chuyển (E) là những rủi ro có mức độ quan
trọng giảm dần. Trong khi đó vấn đề thiếu lao động vẫn chưa được quan tâm nhiều trong làn
sóng dịch bệnh COVID. Cũng từ Bảng 3, kết quả chỉ ra rằng rủi ro thay đổi hành vi tiêu dùng
(D) và khả năng có những thay đổi chính sách (F) là nguyên nhân kéo theo những rủi ro bất
cập khác, theo đó rủi ro (F) là rủi ro có tác động mạnh nhất đến các rủi ro khác, dẫn đến hậu
quả chịu tác động mạnh nhất là rủi ro (A)-hàng hóa không thể lưu thông.
Tuy thay đổi hành vi tiêu dùng (D) và rủi ro thay đổi chính sách (F) là rủi ro “chủ
động”, Hình 1 cho thấy, việc thay đổi chính sách từ nhà nước ảnh hưởng mạnh hơn, vẫn có
khả năng ảnh hưởng đến người tiêu dùng thay đổi hành vi, trong khi đó, việc thay đổi chính
sách hay khơng (F) vẫn có khả năng chịu sự tác động từ việc nông dân bị giảm thu nhập (C)
và hành vi người tiêu dùng thay đổi (D).
5. Kết luận và gợi ý
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá rủi ro COVID-19 đối với chuỗi cung ứng


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

thực phẩm tại Việt Nam. Kết quả cho thấy lo sợ về thay đổi trong chính sách và rủi ro thay
đổi hành vi tiêu dùng có ảnh hưởng mạnh và có nguy cơ kéo theo các rủi ro khác. Hướng
nghiên cứu tiếp theo cần thiết mở rộng mẫu nghiên cứu, phân tích mối liên hệ phức tạp của

các yếu tố với nhau. Ngồi ra, có nhiều lý do khiến một số quốc gia có thể bị ảnh hưởng nặng
nề hơn những quốc gia khác. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách của chính phủ có thể là
lý giải một số khác biệt, do đó cần thiết có những nghiên cứu phản ứng của chính sách trước
dịch bệnh COVID-19 để có những điều chỉnh phù hợp, cũng như nghiên cứu ảnh hưởng thay
đổi hành vi người tiêu dùng đối với dịch bệnh đến chính sách là cần thiết cho nghiên cứu tiếp
theo.
Tài liệu tham khảo
Aday, S., & Aday, M. (2020). Impact of COVID-19 on the food supply chain. Food Quality
and Safety, 4(4), 167-180.
Ali, M., Suleiman, N., Khalid, N., Tan, K., Tseng, M., & Kumar, M. (2021). Supply chain
resilience reactive strategies for food SMEs in coping to COVID-19 crisis. Trends in
Food Science & Technology, 109(3), 94-102.
Babu, H., Bhardwaj, P., & Agrawal, A. (2020). Modelling the supply chain risk variables using
ISM: a case study on Indian manufacturing SMEs. Journal of Modelling in Management,
16(1), 215-239.
Coluccia, B., Agnusdei, G., Miglietta, P., & De Leo, F. (2021). Effects of COVID-19 on the
Italian agri-food supply and value chains. Food Control, 123(5), Article 107839.
Chenarides, L., Manfredo, M., & Richards, T. (2020). COVID‐19 and Food supply chains.
Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 270-279.
Gabus, A., Fontela, E. (1973). Perceptions of the world problematique: Communication
procedure, communicating with those bearing collective responsibility (DEMATEL
Report No. 1). Geneva, Switzerland: Battelle Geneva Research Centre.
Govindan, K., & Chaudhuri, A. (2016). Interrelationships of risks faced by third party logistics
service providers: A DEMATEL based approach. Transportation Research Part E:
Logistics and Transportation Review, 90(1), 177-195.
Hobbs, J. (2020). Food supply chains during the COVID‐19 pandemic. Canadian Journal of
Agricultural Economics/Revue Canadienne D'agroeconomie, 68(2), 171-176.
Hoek, R. (2020). Responding to COVID-19 supply chain risks - Insights from supply chain
change management, total cost of ownership and supplier segmentation theory. Logistics,
4(4), 1-18.

Höhler, J., & Lansink, A. (2020). Measuring the impact of COVID‐19 on stock prices and
profits in the food supply chain. Agribusiness, 37(1), 171-186.
Kumar, A., & Dixit, G. (2018). An analysis of barriers affecting the implementation of e-waste
management practices in India: A novel ISM-DEMATEL approach. Sustainable
Production and Consumption, 14(2), 36-52.


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

Kumar, A., Mangla, S., Kumar, P., & Song, M. (2021). Mitigate risks in perishable food supply
chains: Learning from COVID-19. Technological Forecasting and Social Change,
166(5), Article 120643.
Li, Y., Hu, Y., Zhang, X., Deng, Y., & Mahadevan, S. (2014). An evidential DEMATEL
method to identify critical success factors in emergency management. Applied Soft
Computing, 22(11), 504-510.
Liverpool‐Tasie, L., Reardon, T., & Belton, B. (2020). “Essential non‐essentials”: COVID‐19
policy missteps in Nigeria rooted in persistent myths about African food supply chains.
Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 205-224.
Mahajan, K., & Tomar, S. (2020). COVID ‐19 and supply chain disruption: Evidence from food
markets in India. American Journal of Agricultural Economics, 103(1), 35-52.
Milani, F. (2020). COVID-19 outbreak, social response, and early economic effects: A global
VAR analysis of cross-country interdependencies. Journal of Population Economics,
34(1), 223-252.
Montenegro, L., & Young, M. (2020). Operational challenges in the food industry and supply
chain during the COVID-19 pandemic: A literature review. In 7th International
Conference on Frontiers of Industrial Engineering (ICFIE) (pp. 1-5). Singapore: IEEE
Singapore SENS Chapter and Singapore Section.
Nguyen, T. (2020). Tác động của đại dịch Covid-19 đến thị trường vận tải biển Việt Nam [The
impact of the Covid-19 epidemic on the Vietnamese shipping market]. Retrieved January
15, 2021, from />Rahman, C., Sharun, K., Jose, B., & Dhama, K. (2020). COVID-19 and food safety:

Implications and opportunities to improve the food supply chain. Journal of Experimental
Biology and Agricultural Sciences, 8(Spl-1-SARS-CoV-2), S34-S41.
Rizou, M., Galanakis, I., Aldawoud, T., & Galanakis, C. (2020). Safety of foods, food supply
chain and environment within the COVID-19 pandemic. Trends in Food Science &
Technology, 102(8), 293-299.
Singh, S., Kumar, R., Panchal, R., & Tiwari, M. (2020). Impact of COVID-19 on logistics
systems and disruptions in food supply chain. International Journal of Production
Research, 59(7), 1-16.
Sơn Nam (2020). Dịch Covid-19 kéo ngành thức uống giảm, đẩy sản phẩm chăm sóc gia đình
tăng [Pandemic Covid-19 has led to an reduction in beverages, and promoted home care
products]. Retrieved January 15, 2021, from />Thilmany, D., Canales, E., Low, S., & Boys, K. (2020). Local food supply chain dynamics and
resilience during COVID ‐19. Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 86-104.
Tran, D. (2020). Tác động của COVID 19: Đứt gãy chuỗi cung ứng nông sản và giải pháp tái
cơ cấu thị trường [The impact of COVID 19: Breaking the supply chain of agricultural
products and solutions to restructure the market]. Retrieved January 15, 2021, from


Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1),

/>Wu, W. (2008). Choosing knowledge management strategies by using a combined ANP and
DEMATEL approach. Expert Systems with Applications, 35(3), 828-835.



×