Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.17 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHẠM THỊ PHƯƠNG TRANG


BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM
•••

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
••••

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHẠM THỊ PHƯƠNG TRANG

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CƠNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM
•••

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG



Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng người viết. Các nội dung nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở những cơng trình khác. Nếu khơng
đúng như đã nêu trên, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về đề tài của mình.

Người cam đoan

Phạm Thị Phương Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

PLVN
SHTT

Pháp luật Việt
Nam

SHCN

Sở hữu trí tuệ
Sở hữu cơng
nghiệp

TSTT

Tài sản trí tuệ



MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian gần đây, cách mạng cơng nghiệp 4.0 hay trí tuệ nhân
tạo là những cụm từ quen thuộc được nhắc đến. “Cuộc cách mạng này tạo ra mơi
trường mà máy tính, tự động hoá và con người sẽ làm việc cùng nhau theo những
cách thức hoàn toàn mới. Tại đây, robot và các loại máy móc sẽ được kết nối vào
những hệ thống máy tính, những hệ thống này sẽ sử dụng các thuật tốn để điều
khiển mà khơng cần sự can thiệp của con người” (“Cách mạng Công nghiệp 4.0 là
gì?”, 2018). Từ sự mơ tả về cách mạng cơng nghiệp 4.0 ở trên, ta thấy được rằng trí
tuệ của con người là vơ cùng quan trọng, trí tuệ máy móc cũng là do con người tạo
ra. Theo thống kê, năm 2016, ngành dịch vụ của Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 79.5% GDP
của nước này, trong đó cơng nghiệp chiếm 19.4% và nông nghiệp chiếm 1.1%. Đây
là một minh chứng rõ để ta thấy tầm quan trọng của trí tuệ con người, kinh tế hàng
hố khơng cịn là chủ lực tại Hoa Kỳ và phần lớn các nước trên thế giới mà chính
kinh tế tri thức, trí tuệ nhân tạo, tài sản trí tuệ đã, đang và ẽ mang lại nguồn lợi lớn
cho các cá nhân, tổ chức và giúp kinh tế đất nước phát triển mạnh vì dịch vụ chiếm
một tỷ trọng rất cao. Chính những giá trị trí tuệ trong các sản phẩm đã giúp giá trị
thặng dư của nó tăng cao, từ đó làm tăng giá trị sản phẩm. Việc bảo hộ và bảo vệ cho
các quyền sở hữu trí tuệ của con người rất được chú trọng vì độc quyền sử dụng một
loại tài sản trí tuệ nào đó là một ưu thế vơ cùng lớn.
Ngày nay, lĩnh vực pháp luật sở hữu trí tuệ khơng chỉ quan trọng trong hệ
thống pháp luật của từng quốc gia, mà cịn là một nội dung khơng thể thiếu trong hầu

hết các điều ước quốc tế song phương và đa phương vì tồn cầu hố diễn ra với tốc
độ nhanh nên việc giao thoa thương mại và nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển.
Việt Nam cũng đã gia nhập rất nhiều điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ như: Cơng
ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Berne về bảo vệ tác phẩm
văn học nghệ thuật, Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định của ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ, các quy định


7

về sở hữu trí tuệ trong các Hiệp định giữa ASEAN và các nước như Ấn Độ, Trung
Quốc, Hàn Quốc v..v. và các quy định về sở hữu trí tuệ trong các Hiệp định giữa Việt
Nam và các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á - Âu.v.v. và những
Hiệp định khác có điều khoản quy định về sở hữu trí tuệ như CPTPP, EVFTA...
Quyền sở hữu trí tuệ gồm ba nhóm quyền chính là quyền tác giả và quyền liên
quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền liên quan đến giống cây
trồng. Quyền sở hữu công nghiệp được chia ra thành bảy đối tượng gồm: sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý và bí mật kinh doanh. Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ rất đa
dạng, mỗi đối tượng có các khía cạnh pháp lý như điều kiện bảo hộ, thủ tục đăng kí
bảo hộ, thời hạn bảo hộ khác nhau...
Các tài sản trí tuệ dần dần chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tổng giá trị tài sản
của một cơng ty. Tài sản hữu hình hiện nay khơng cịn là thứ mang lại lợi nhuận lớn
cho cơng ty mà chính là những tài sản vơ hình như: những sáng chế, phát minh được
bảo hộ độc quyền, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu... Nếu xây dựng được một hình ảnh
tốt, nhãn hiệu ấn tượng và được khách hàng ghi nhớ thì đó ẽ là một lợi thế vô cùng
lớn trước những đối thủ cạnh tranh. Do đó, hiện nay việc xâm phạm quyền sở hữu
cơng nghiệp đối với nhãn hiệu càng ngày càng phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà
còn trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, những vụ việc về xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu là xâm phạm về nhãn hiệu với những hành vi như hàng

giả, hàng nhái nhãn hiệu,.................................. Việc xâm phạm này đã gây thiệt hại
không nhỏ cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Để hạn chế thực trạng này thì ta cần phải có
một cơ chế và hệ thống pháp luật bảo hộ nhãn hiệu phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt
trong bối cảnh rất nhiều Điều ước quốc tế quan tâm đến vấn đề này, pháp luật Việt
Nam cũng phải được sửa đổi để tương thích với thơng lệ quốc tế.
Nhận ra được tính cấp thiết của vấn đề “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệ ạ Việt Nam”, tôi đã chọn đây là đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc ĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu


8

Qua quá trình tìm kiếm tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình nghiên cứu,
người viết tìm được một số cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài
nghiên cứu của mình, cụ thể như au:
1. Bài nghiên cứu “Dấu hiệu phân biệt trong pháp luật về nhãn hiệu một giải
pháp cho vấn đề xung đột quyền bảo hộ” của ương Thanh Thúy đăng trên Tạp chí
Pháp luật và Doanh nghiệp số 04(229)-2011.
2. Bài nghiên cứu “Khả năng phân biệt của nhãn hiệu thông qua quá trình sử
dụng - so sánh pháp luật về nhãn hiệu của Việt Nam với pháp luật Liên minh Châu
Âu và Hoa Kỳ” của Đàm Thị Diễm Hạnh đăng trong Tạp chí Khoa học Kiểm sát
năm 2016. Từ việc tham khảo bài nghiên cứu trên, người viết đã đưa ra đề xuất đối
với việc quy định về khái niệm nhãn hiệu và điều kiện bảo hộ nhãn hiệu trong pháp
luật Việt Nam.
3. Bài nghiên cứu “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng
biện pháp dân sự” của Nguyễn Xuân Quang. Ngoài biện pháp dân sự, người
viết đã phân tích các biện pháp bảo vệ khác như biện pháp hành chính và biện
pháp hình sự.
4. Bài Nghiên cứu “ ề một số vấn đề phát sinh trong giải quyết tranh chấp về

quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu” của Nguyễn Thị Bích Ngọc
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2017.
5. “Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu mùi, nhãn hiệu âm thanh ở các nước phát triển
và gợi ý cho Việt Nam” của Nguyễn Khánh Linh đăng trên Bro .vn.
Luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu của những tác giả trên, phân tích
các quy định pháp luật Việt Nam nhưng có sự đối chiếu, so sánh với những Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên như CPTPP, EVFTA.. ,,từ đó nêu ra những điểm
mà pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam cần thay đổi để phù hợp với các điều
ước quốc tế này. Đồng thời, luận văn nêu lên những thực trạng, thách thức, vướng
mắc, vấn đề ảnh hưởng đến việc bảo hộ nhãn hiệu như: điều kiện bảo hộ nhãn hiệu,


9

việc đăng ký xác lập quyền, những hành vi xâm phạm quyền, hạn chế bảo hộ nhãn
hiệu, vấn đề chồng lấn quyền, .. .Từ đó nêu lên một số ý kiến, giải pháp cho những
vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn theo hướng nghiên cứu như au: Nêu lên những bất cập hiện nay của
pháp luật nhãn hiệu Việt Nam và bất cập trong thực tiễn thực thi pháp luật nhãn hiệu.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, người viết tiến hành thực hiện các nội
dung sau:
-

Nêu và phân tích các quy định pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu;

-

Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nhưng có sự
đối chiếu, so sánh với những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên từ

đó nêu lên những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, phần nào tìm ra được những
giải pháp;

-

Ngoài ra, nêu lên một số thực trạng, bất cập, những thách thức trong việc thực
thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, nhằm đưa ra những giải pháp để pháp luật
bảo hộ nhãn hiệu ngày càng tương thích hơn với thực tiễn.

3. Đố ượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu và thực
trạng thực thi các quy định này.
Phạm vi nghiên cứu: các quy định pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu tại Việt
Nam và các Điều ước quốc tế liên quan về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam gia nhập.
Thực trạng thực thi quy định pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam.
4. Phương pháp ngh ên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được kết hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
như: phương pháp logic, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp o ánh đối
chiếu.
5. Bố cục luận văn
Bố cục của luận văn gồm hai nội dung chính:


10

Chương 1: Khái quát chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.

Chương đối
2: Pháp

luật hiệu.
Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp
với nhãn


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1.
1.1.1.

Khái quát chung về nhãn hiệu
Khái niệm nhãn hiệu

Nhãn hiệu là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, nên nó là tài sản vơ hình. Đặc
tính vơ hình thể hiện ở việc nhãn hiệu là một sản phẩm của trí tuệ con người, là các
dấu hiệu phân biệt hàng hóa/dịch vụ này với hàng hóa và dịch vụ khác, do đó, nó tạo
sự gợi nhớ khơng thể nhầm lẫn trong tâm trí người tiêu dùng về một loại sản phẩm.
Dù vơ hình nhưng con người có thể nhận biết được sự tồn tại của nó dưới dạng vật
chất cụ thể (từ ngữ, hình ảnh, màu sắc,...). Và con người có thể kiểm sốt được nó,
sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng. để mang về một lợi ích
vật chất.
Nhãn hiệu là một loại tài sản vơ hình, cụ thể là một loại tài sản trí tuệ được
sáng tạo ra từ các hoạt động kinh doanh thương mại. Do đó, nó mang các đặc điểm
của tài sản trí tuệ và tài sản vơ hình như: đặc tính vơ hình, đặc tính xác định được,
đặc tính kiểm ốt được, đặc tính có khả năng inh lợi và đặc tính sáng tạo, đổi mới.
Đặc tính sáng tạo, đổi mới của nhãn hiệu không thể hiện nhiều như các loại tài sản trí
tuệ khác. Nhãn hiệu khơng góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển như áng
chế, giải pháp kỹ thuật, giống cây trồng, phần mềm máy tính.. nhưng nó mang lại lợi
ích rất lớn cho doanh nghiệp, khi doanh nghiệp chuyển nhượng nhãn hiệu là thực

chất chuyển nhượng dây chuyền sản xuất, sáng chế, kỹ thuật,. Giá trị của nhãn hiệu
càng gia tăng theo quá trình ử dụng, theo sự nổi tiếng, sự ghi nhớ, ấn tượng trong
tiềm thức của người tiêu dùng.
Theo Viện từ điển học và bách khoa thư Việt Nam, nhãn hiệu được định nghĩa
là “dấu hiệu được người sản xuất sản phẩm sử dụng để gắn lên sản phẩm nhằm
phân biệt sản phẩm do mình sản xuất với sản phẩm do người khác sản xuất. Dấu
hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hóa thường là chữ (tên riêng của người, tên hãng
hoặc chữ bất kì) hoặc hình (phẳng, khối) hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể
hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Thơng qua nhãn hiệu hàng hóa, người tiêu dùng


chọn lựa hàng hố có uy tín. Nhãn hiệu hàng hóa được coi là một loại tài sản vơ
hình của người sản xuất, kinh doanh hàng hoá và là một trong các đối tượng sở hữu
công nghiệp được pháp luật bảo hộ”.
Khái niệm nhãn hiệu trong Luật SHTT Vệt Nam được quy định trong phần
giải thích từ ngữ. Theo đó, “nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch
vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” (Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT). Nhìn vào
định nghĩa này, ta ẽ thấy nó mang tính khái qt cao, định nghĩa nhãn hiệu dựa trên
chức năng chính của nhãn hiệu là “dấu hiệu dùng để phân biệt”. Nhưng nếu chỉ như
vậy thì ta sẽ hiểu chưa đầy đủ về pháp luật bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam, ta phải
xem xét thêm một số quy định khác ở Điều 72 Luật SHTT:
“Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc.
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.
Nghĩa là nhãn hiệu được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam ngoài điều kiện phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức khác nhau, nó cịn được giới hạn trong một số

hình thức thể hiện.
Cơng ước Paris và Hệ thống Madrid không đưa ra khái niệm nhãn hiệu mà để
cho các nước thành viên tự quy định. Đến Hiệp định TRIPs và Hiệp định CPTPP
khái niệm nhãn hiệu đã được đề cập. Nhãn hiệu được định nghĩa rõ ràng tại khoản 1,
Điều 15 Hiệp định TRIPs như au:
“Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt
hàng hố hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hố. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là
các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các màu


sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là
nhãn hiệu hàng hoá. Trường hợp bản thân các dấu hiệu khơng có khả năng phân
biệt hàng hố hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả
năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thơng qua việc sử dụng.
Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải
là dấu hiệu nhìn thấy được”.
Và mới đây nhất, Việt Nam đã gia nhập Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ
xun Thái Bình Dương (CPTPP). Trong hiệp định này, nhãn hiệu được định nghĩa
như au: “Điều 18.18: Loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu. Không Bên nào
được yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được,
cũng như khơng Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu
hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Thêm vào đó, mỗi Bên phải nỗ lực hết sức
để đăng ký nhãn hiệu mùi. Một Bên có thể yêu cầu phải có bản mơ tả ngắn gọn và
chính xác, hoặc bản thể hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu phù hợp, của nhãn
hiệu.”
Ta thấy rằng cả Hiệp định TRIPs và Hiệp định CPTPP đều đưa ra khái niệm
nhãn hiệu dưới dạng mô tả điều kiện để được bảo hộ nhãn hiệu mà khơng có một
định nghĩa về nhãn hiệu.
Theo Chỉ thị nhãn hiệu Liên minh Châu Âu (Directive - EU 2015/2436) - quy

định mới nhất của Liên minh Châu Âu về nhãn hiệu, nhãn hiệu được định nghĩa như
au:
“Dấu hiệu của nhãn hiệu có thể bao gồm: Một nhãn hiệu thương mại có thể
bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào, đặc biệt là các từ, bao gồm tên cá nhân, hoặc kiểu
dáng, chữ cái, chữ số, màu sắc, hình dạng của hàng hóa hoặc bao bì của hàng hóa
hoặc âm thanh, miễn là các dấu hiệu đó có khả năng:
(a) phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với các doanh
nghiệp khác; và
(b) được đại diện trên sổ đăng ký theo cách cho phép các cơ quan có thẩm
quyền và cơng chúng xác định đối tượng rõ ràng và chính xác của sự bảo vệ dành


cho chủ sở hữu của nó.”
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ được điều chỉnh bằng đạo luật Lanham. Khác với
Việt Nam và Châu Âu, đạo luật Lanham định nghĩa riêng biệt hai loại nhãn hiệu:
nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Theo đoạn 1127 đạo luật Lanham, nhãn
hiệu hàng hố được giải thích như au:
“Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay
hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) được sử dụng bởi một người, hoặc
(2) được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và
xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt hàng hố của người
đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng hoá được sản xuất hoặc được bán
bởi những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hố thậm chí cả khi khơng xác
định được nguồn gốc đó.”3
Như vậy, pháp luật về nhãn hiệu của Liên minh Châu Âu hay Hoa Kỳ cũng
không đưa ra một khái niệm cụ thể đối với nhãn hiệu mà họ sẽ nêu các điều kiện để
được bảo hộ nhãn hiệu như điều kiện về khả năng phân biệt (đây là chức năng chính
của nhãn hiệu, thể hiện tính sáng tạo của nhãn hiệu) và phạm vi các đối tượng được
bảo hộ nhãn hiệu (là các nhãn hiệu truyền thống như chữ viết, hình vẽ hoặc các nhãn

hiệu phi truyền thống như: âm thanh, mùi hương,..
Do đó, Luật SHTT Việt Nam nên sửa đổi điều khoản quy định về khái niệm
nhãn hiệu, thay vì giải thích từ “nhãn hiệu”. Nếu chỉ xem xét quy định tại Điều 4
Luật SHTT thì sẽ hiểu chưa chính xác về pháp luật bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn
hiệu tại Việt Nam - chỉ chấp nhận các dấu hiệu nhìn thấy được, mà khơng phải là chỉ
cần đáp ứng điều kiện về khả năng phân biệt là được bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam.
1.1.2.

Phân biệt nhãn hiệu với tên thương mại


o•

❖ Về khái niệm
3 Đào Thị Diễm Hạnh. (12/5/2010). Xây dựng khai niệm nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ. Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp điện tử. Truy xuất từ
/>

Theo Tự điển Việt Nam, Ban Tu thư Khai Trí Sài Gòn, 1971 (trang 866 và
621), “thương hiệu là tên hiệu nhà bn” và “nhãn hiệu là giấy dán ngồi để làm
hiệu”.
Theo Luật SHTT, “Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong
hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh
quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách
hàng hoặc có danh tiếng” (khoản 21 Điều 4 Luật SHTT). Còn “Nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”
(khoản 16 Điều 4 Luật SHTT).
Từ khái niệm của nhãn hiệu và tên thương mại trong Luật SHTT, nhận thấy
điểm chung của hai đối tượng quyền sở hữu trí tuệ này đều là các tài sản trí tuệ, là

các sản phẩm được sáng tạo ra từ hoạt động kinh doanh thương mại, đều chứa các
dấu hiệu phân biệt, đều là các chỉ dẫn thương mại xuất hiện trên hàng hóa nhưng
khác nhau ở chức năng. Chức năng của nhãn hiệu là để phân biệt dịch vụ, hàng hóa
của chủ thể này với dịch vụ, hàng hóa của chủ thể khác, cịn chức năng của tên
thương mại là để phân biệt chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác .
❖ Về đ i ều kiện bảo hộ
Việc được cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu phải có những điều kiện
nhất định theo Điều 72 Luật SHTT:
"Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể
cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng
hoá, dịch vụ của chủ thể khác'”
Điều 76 Luật SHTT có quy định điều kiện bảo hộ đối với tên thương mại như s
au: “Tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh


mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực
kinh doanh””
Nguyên tắc chung, tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt
chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
lĩnh vực và khu vực kinh doanh. So với điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu thì tên
thương mại có điều kiện bảo hộ thấp hơn, quan trọng là yếu tố phân biệt và thêm vào
đó là phải chứa thành phần tên riêng. Và một số điều kiện như: không trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng trước
trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh và không trùng hoặc tương tự đến mức
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ
trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.
❖ Về thời hạn

Theo quy định tại Điều 93 Luật SHTT thì thời hạn đối với nhãn hiệu là 10
năm và được gia hạn nhiều lần liên tiếp mỗi lần 10 năm. Còn thời hạn đối với tên
thương mại là đến khi tên thương này khơng cịn được sử dụng hợp pháp nữa.
❖ Về căn cứ xác lập quyền
Đối với nhãn hiệu thì phải đăng ký, đối với những nhãn hiệu nổi tiếng thì sẽ
đương nhiên được bảo hộ. Cịn quyền SHCN đối với tên thương mại thì được xác lập
trên cơ s ở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
❖ Về phạm vi bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ trên tồn lãnh thổ, cịn phạm vi bảo hộ tên thương mại
là trong phạm vi khu vực kinh doanh (phụ thuộc vào mức độ và phạm vi kinh
doanh).
❖ Về đ i ều kiện hạn chế chuyển nhượng
Căn cứ Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ thì điều kiện hạn chế chuyển nhượng
nhãn hiệu là khơng được gây nhầm lẫn. Cịn đối với tên thương mại thì điều kiện hạn
chế chuyển nhượng được quy định tại Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ về chuyển
nhượng tồn bộ và quyền sử dụng tên thương mại không được chuyển giao.


1.1.3.

Các loại nhãn hiệu

1.1.3.1.

Căn cứ các dấu hiệu được bảo hộ

Với căn cứ này có thể chia nhãn hiệu thành những loại au đây:
Nhãn hiệu từ ngữ là tập hợp các từ ngữ, chữ cái và các con số, có nghĩa hoặc
khơng có nghĩa, đây được coi là một loại nhãn hiệu cơ bản, vì trước hết điều khiến
người tiêu dùng ghi nhớ được một sản phẩm, dịch vụ là họ phải gọi tên được sản

phẩm dịch vụ đó ví dụ nhãn hiệu Nike, Adidas cho sản phẩm giày dép, quần áo, phụ
kiện thể thao; Pepsi và COCA-COLA cho sản phẩm nước giải khát
Nhãn hiệu hình ảnh là những dấu hiệu bằng hình ảnh, hình vẽ. Hiện nay, nhãn
hiệu hình ảnh 3 chiều cũng rất phổ biến.
Nhãn hiệu kết hợp là nhãn hiệu bao gồm cả từ ngữ và hình ảnh. Đây là loại
nhãn hiệu phổ biến hiện nay bởi nó vừa lơi kéo người tiêu dùng bằng thính giác và
bằng thị giác giúp khắc sâu nhãn hiệu vào tiềm thức của người tiêu dùng, ví dụ: nhãn
hiệu Apple và hình trái táo bị khuyết, nhãn hiệu LACOSTE và hình ảnh con cá sấu.
Ngồi các nhãn hiệu nhìn thấy được như từ ngữ, chữ viết, hình ảnh (kể cả
hình ảnh ba chiều) thì trên thế giới hiện nay bảo hộ rất nhiều loại nhãn hiệu khác như
nhãn hiệu âm thanh (Ví dụ: nhãn hiệu “3 hồi chng” của Đài NBC Hoa Kỳ, nhãn
hiệu “tiếng rít tạo ra do ma sát ngón tay trên dụng cụ rửa chén bát” của Unilever cho
sản phẩm nước rửa chén bát); nhãn hiệu chỉ bao gồm màu sắc (nhãn hiệu gồm màu
cam, xanh, đỏ của chuỗi cửa hàng tiện ích 7-eleven); nhãn hiệu vị trí; nhãn hiệu
chuyển động (nhãn hiệu của thời trang Wacoal).. .Việc bảo hộ nhiều loại nhãn hiệu
có mục đích nhằm bảo hộ được những ý tưởng, ý nghĩa, thông điệp được thể hiện
ngồi hình thức ngơn ngữ, giúp thực hiện những chiến lược thương hiệu khác nhau
của các công ty trong thời đại khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển mạnh như hiện
nay.
1.1.3.2.

Căn cứ vào chức năng của nhãn hiệu

Với căn cứ này, chúng ta có thêm khái niệm nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên
kết và nhãn hiệu chứng nhận.
Nhãn hiệu tập thể là “nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các


thành viên trong một tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa dịch vụ của
cá nhân tổ chức khác không là thành viên của tổ chức đó”. í dụ: nhãn hiệu tập thể

được cấp cho bánh đa nem làng Chều, rượu làng Vọc, gốm Quyết Thành, trống Đọi
Tam, nhãn hiệu Bún bò Huế, Gạo bao Thái Định Hóa, Gạo Tài Nguyên ĩnh Lợi,.
Nhãn hiệu liên kết là “các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có
liên quan với nhau”. “Như vậy, nhãn hiệu liên kết là nhãn hiệu tương tự nhau, cho
các sản phẩm tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau hoặc nhãn hiệu hàng hóa
trùng nhau sử dụng cho các sản phẩm dịch vụ tương tự nhau. Với nhãn hiệu liên kết
này, chủ sở hữu sẽ ngăn chặn tình trạng sản xuất hàng hóa có dấu hiệu tương tự
“hàng nhái” của các chủ thể không trung thực”4.
Nhãn hiệu chứng nhận là “nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc
tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu”, ví dụ: Nhãn hiệu hàng Việt Nam
chất lượng cao được người tiêu dùng bình chọn, nhãn hiệu Rau DA LAT
VEGETABLE và hình,...
1.1.3.3.

Căn cứ vào danh tiếng, uy tín của nhãn hiệu

Với căn cứ này chúng ta có khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng và chưa nổi tiếng.
Nhãn hiệu nổi tiếng là “nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng được quy định cụ
thể tại Điều 75 Luật SHTT gồm những tiêu chí sau: số lượng người tiêu dùng liên
quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu hoặc thơng qua quảng cáo; một nhãn hiệu hàng hóa được nhiều người biết
đến về đặc điểm nhãn hiệu hàng hóa, chất lượng sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng
hóa, nhà sản xuất sản phẩm đó; đồng thời, cũng nhiều người cơng nhận sự uy tín, nổi
tiếng đó. í dụ: nhãn hiệu Hòa Phát, nhãn hiệu Vietnam Airline ,.
4 Lê Nết, Nguyễn Thị Hải Yến, Lê Thị Nam Giang, Trần Thị Hương, Nguyễn Xuân Quang và Lê

Thị Hồng Vân. (2018). Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ. Tr.287. TP.HCM: Hồng Đức.


Nhãn hiệu thông thường là nhãn hiệu không đáp ứng được các tiêu chí trên,
chỉ có chức năng cơ bản là để phân biệt hàng hóa cùng loại mà ít người biết đến.
1.2.

Khá n ệm bảo hộ q yền sở hữ công ngh ệp đố vớ nhãn h ệ

Ngày nay, TSTT đóng góp vai trị ngày càng to lớn, quan trọng trong sự phát
triển, là yếu tố chủ yếu trong cạnh tranh hiện đại. Việc đầu tư để tạo ra TSTT rất tốn
kém, mất nhiều thời gian của nhà sáng tạo và các nhà đầu tư nhưng có thể khơng
mang lại kết quả gì vì khơng phải lúc nào cũng nghiên cứu thành cơng. Dù nghiên
cứu thành cơng thì lại phải đối mặt với một rủi ro mới về nguy cơ bị chiếm đoạt, khai
thác bất hợp pháp mà bản thân chủ sở hữu không thể tự chống lại. Nếu khơng có biện
pháp hữu hiệu chống lại các hành vi xâm phạm SHTT thì động lực sáng tạo và phát
triển bị thủ tiêu, cạnh tranh trở thành không lành mạnh. Do đó, vấn đề bảo hộ quyền
SHTT được đặt lên hàng đầu nhằm bảo vệ các kết quả đầu tư áng tạo, thúc đẩy đổi
mới, đảm bảo cạnh tranh công bằng, trung thực, tạo động lực cho phát triển. Ta có
thể hiểu rằng, “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc Nhà nước sử dụng công cụ pháp
lý và quyền lực bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện các nội dung quyền sở hữu trí tuệ
của họ, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm do người thứ ba thực hiện”3
Bảo hộ nhãn hiệu là việc Nhà nước ban hành ra các văn bản pháp luật về việc
xác lập (điều kiện bảo hộ, đăng ký xác lập quyền và nội dung quyền), bảo vệ (quy
định các hành vi xâm phạm) và thực thi quyền đối với nhãn hiệu (các biện pháp ngăn
chặn và việc xử lý các hành vi xâm phạm)
Những quy định về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu giúp bảo đảm
quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu. Mặt khác, bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn
hiệu cũng là bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho việc thu hút đầu tư và chuyển giao cơng nghệ nước ngồi. Từ đó, bảo vệ lợi ích

quốc gia trong lĩnh vực SHTT nói chung và SHCN nói riêng.
Như các loại tài sản trí tuệ khác, khi đáp ứng đủ điều kiện theo pháp luật để
được cấp văn bằng bảo hộ thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu mới được đặt ra, trừ với nhãn hiệu nổi tiếng.


1
.3. Đ ề ước q ốc ế l ên q an đến bảo hộ nhãn h ệ
Từ thời cổ đại, người nguyên thủy đã biết sử dụng các dấu hiệu để phân biệt
những vật ni thuộc sở hữu của mình. Dần dần, xã hội phát triển, con người ngày
càng có nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa dư thừa mình làm ra thì các dấu hiệu
phân biệt giữa các thợ thủ công dần được sử dụng nhiều trên các sản phẩm như: vũ
khí, trang sức, dụng cụ lao động, đồ gốm hoặc trên thực phẩm họ làm ra. Sau đó,
trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật từ sau cuộc cách mạng công
nghiệp và sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, nạn xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ phổ biến, các nước trên thế giới thấy rằng cần phải có quy định chung để bảo hộ
các đối tượng của SHCN nói chung và nhãn hiệu nói riêng, Năm 1883, hội nghị
ngoại giao tổ chức tại Pari đã thông qua Công ước Paris về bảo hộ SHCN ( au đây
gọi là Công ước Paris).
33

Nguyễn Hữu Cẩn. (8/2019). Quản trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp [Powerpoint slide].

Đến thời điểm trước khi gia nhập CPTPP và E FTA, đã có nhiều cam kết quốc
tế về quyền SHCN đối với nhãn hiệu có hiệu lực tại Việt Nam như: cam kết của Việt
Nam về đầu tư trong khuôn khổ WTO - Hiệp định về các khía cạnh thương mại của
quyền SHTT (Hiệp định TRIP ), Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Thỏa ước Marid
về đăng ký nhãn hiệu quốc tế.... Pháp luật Việt Nam hiện nay về SHTT đang được
thiết kế phù hợp và có mức độ bảo hộ tương ứng tiêu chuẩn bảo hộ tại các cam kết
quốc tế này.

Từ khi ban hành năm 200 đến nay (tháng 9/2019), Luật SHTT đã tiến hành
sửa đổi hai lần. Lần sửa đổi năm 2009 với mục đích để phù hợp với Hiệp định
thương mại ong phương iệt Nam - Hoa kỳ (BTA). Sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu
lực tại Việt Nam và Hiệp định E FTA được ký kết thì Luật SHTT có được sửa đổi và
sẽ có hiệu lực vào 01/11/2019. Nhưng đây cũng khơng phải là một lần sửa đổi lớn.
Vì vậy, mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam hiện nay về SHTT với các cam
kết tương ứng trong CPTPP và EVFTA sẽ có một số điểm lệch nhau vì các cam kết


trong CPTPP được đánh giá là có mức độ bảo hộ và các đòi hỏi liên quan phần lớn là
cao hơn mức bảo hộ trong TRIPS và các cam kết trước đây về SHTT.
Các cam kết về SHTT có tiêu chuẩn bảo hộ rất cao cho chủ thể quyền trong
khi lợi ích chủ yếu của Việt Nam lại nằm ở nhóm ngược lại, nhóm sử dụng các sản
phẩm trí tuệ và sẽ được lợi nếu các sản phẩm trí tuệ được cho phép sử dụng với chi
phí phải trả cho chủ sở hữu thấp nhất.
1.3.1.

Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Công ước Pari là công ước đầu tiên về bảo hộ quyền SHCN, Công ước được
thông qua tại một hội nghị ở Pari ngày 20/03/1883, au đó được sửa đổi tại Brussels
ngày 14/12/1900, tại Washington ngày 02/6/1911, tại LaHay ngày 06/11/1925, tại
London ngày 02/6/1934, tại Lisbon ngày 31/10/1958 và tại Stockholm ngày
14/7/1967, và được tổng sửa đổi ngày 28/9/1979. Ngày 08/03/1949, Việt Nam trở
thành thành viên của công ước này. Theo nguyên tắc đối xử quốc gia, cơng dân Việt
Nam có quyền lợi như cơng dân một nước thành viên nào khác trong việc bảo hộ
nhãn hiệu tại nước đó, khi tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định.
1.3.2.

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở


hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs)
Hiệp định TRIP quy định rất rộng về phạm vi các dấu hiệu có khả năng được
bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu đối với
nhãn hiệu mà mình đã đăng ký.. .“Hiệp định TRIPs một mặt nhấn mạnh sự cần thiết
phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu quả và toàn diện quyền SHTT, mặt khác
muốn bảo đảm rằng những biện pháp và thủ tục thực thi quyền SHTT không trở
thành các chướng ngại cho hoạt động thương mại quốc tế, đã đưa ra những quy định
tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên đều phải tuân thủ, đặc biệt nhấn mạnh các thủ
tục và các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự đối với các hành vi xâm
phạm quyền, kiểm soát biên giới về SITT, ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp liên
quan đến SHTT giữa các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. 5
5 Đào Minh Đức. (19/12/2007). Khái quát về Công ước Paris, Hệ thống Marid và Hiệp định TRIPs.
Sài Gịn Giải Phóng.


1.3.3.

Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn

hiệu hàng hóa (Hệ thống Marid)
Việc nộp đơn đăng ký quốc tế theo Thoả ước hoặc Nghị định thư Madrid cho
phép các doanh nghiệp hưởng quyền ưu tiên trong đăng ký quốc tế theo Công ước
Paris, qua việc có thể đăng ký một nhãn hiệu vào nhiều nước thành viên khác nhau,
chỉ cần làm một đơn đăng ký nộp cho ăn phòng quốc tế của WIPO.
1.3.4.

Hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương

(Hiệp định CPTPP)

Ngày 08/3/2018, Việt Nam đã cùng 10 nước gồm Australia, Brunei, Canada,
Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru và Singapore chính thức ký
kết Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) tại
Chile. Đến ngày 30/12/2018, Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực đối với
nhóm 6 nước đầu tiên phê chuẩn Hiệp định, gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New
Zealand, Canada và Úc. Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về
việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018.
Theo đó, Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/01/2019.
Hiệp định CPTPP gồm 7 Điều và 1 Phụ lục quy định về mối quan hệ với Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được 12 nước gồm Úc, Brunei,
Canada, Chile, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore
và Việt Nam ký ngày 06/02/2016 tại New Zealand; cũng như xử lý các vấn đề khác
liên quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm
30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hỗn 20 nhóm
nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên
trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP, trong đó có 11 nghĩa vụ liên quan tới
Chương Sở hữu trí tuệ, Tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, các nước thành viên sẽ
tạm đình chỉ thực hiện các điều khoản quy định tại Phụ lục của Hiệp định, cho đến
khi các nước thành viên đồng ý kết thúc việc tạm đình chỉ thực hiện một hay nhiều
hơn các điều khoản đó.


Trong phạm vi luận văn này, bên cạnh việc phân tích các quy định Việt Nam,
việc so sánh với hai Hiệp định CPTPP và EVFTA mà Việt Nam đã gia nhập sẽ được
chú trọng để từ đó có một số đề xuất để hoàn chỉnh pháp luật Việt Nam.
Về mặt nguyên tắc, đối với trường hợp PL N đã tương thích với cam kết
CPTPP thì Việt Nam sẽ khơng cần sửa đổi. “Mặc dù vậy, có một thực tế là một số
quy định pháp luật nội địa mặc dù tương thích nhưng chưa thật rõ, có thể gây bất cập
trong quá trình thực thi, bảo hộ quyền SHTT và trong khá nhiều trường hợp, quy

định pháp luật là đã có nhưng việc thực thi trên thực tế rất lỏng lẻo, do đó chưa bảo
đảm được các mục tiêu đặt ra của các quy định pháp luật này”.6
Nhưng ngay cả đối với trường hợp PL N được đánh giá là tương thích với các
cam kết CPTPP và EVFTA về SHTT, Chính phủ và cơ quan nhà nước liên quan vẫn
cần có một số hành động nhất định để đảm bảo hiệu lực thực chất của các quy định,
đặc biệt là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, chính phủ điện tử trong quản lý và
bảo hộ các quyền SHTT; tiếp tục điều chỉnh pháp luật nội dung, bổ sung các cơ chế
thích hợp để tăng hiệu lực thực thi; nghiên cứu để tận dụng tốt hơn các ngoại lệ được
phép...
Kết quả rà sốt cho thấy Việt Nam chưa tương thích một phần đối với một số
cam kết nằm trong Chương SHTT của CPTPP. Tất cả các cam kết CPTPP mà PL N
chưa tương thích đều là các cam kết thuộc 2 nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm cam kết về thủ tục gồm các nội dung chưa tương thích như:
-

Vấn đề minh bạch hóa, đơn giản hóa thủ tục, cơng khai thơng tin đơn và văn
bằng, thống nhất các thuật ngữ;

-

Điện tử hóa thủ tục tiếp nhận, xử lý đơn;

-

Bảo vệ quyền của các chủ thể trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng/rõ
ràng (bồi thường thiệt hại, công khai thông tin, bảo vệ thông tin mật trong các
thủ tục tố tụng.)

6 Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam. (2017). Báo cáo rà soát pháp luật Việt Nam với các
cam kết của Hiệp đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ. Tr.20. Hà Nội: Cơng

Thương.


Thứ hai, nhóm cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ đối với chủ thể quyền gồm các
nội dung chưa tương thích như:
-

Mở rộng các đối tượng có thể được bảo hộ nhãn hiệu;
- Tăng cường các cơ chế để bảo vệ tốt hơn lợi ích của chủ thể quyền trong

thực thi quyền SHTT (phát hiện, ngăn chặn, xử lý, chế tài đối với hành vi vi phạm
SHTT);
- Hình sự hóa nhiều hành vi vi phạm SHTT.
“ ề mặt nội dung, trong khi các cam kết thuộc nhóm thứ hai (nhóm tăng cường
bảo hộ cho chủ thể quyền) được coi là khơng phù hợp với lợi ích của Việt Nam (nơi
cộng đồng dân cư và doanh nghiệp chủ yếu sử dụng sản phẩm SHTT, phần lớn
khơng có cùng lợi ích với chủ thể quyền) thì các cam kết thuộc nhóm thứ nhất (nhóm
tăng cường minh bạch và hiện đại hóa thủ tục) lại rất phù hợp với mục tiêu minh
bạch hóa, cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại
đầu tư nói chung và trong lĩnh vực SHTT nói riêng”.6
Đối với nhóm cam kết tăng cường mức độ bảo hộ quyền của chủ thể quyền,
các trường hợp chưa tương thích au đây liên quan đến các quy định về nhãn hiệu
được khuyến nghị sửa khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam là:
- Bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, khuyến khích đối với mùi hương;
- Quy định nhãn hiệu trùng cho hàng hóa, dịch vụ tương tự phải được tự động
coi là “có khả năng gây nhầm lẫn”;
- Thẩm quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới mà không cần yêu
cầu của chủ thể quyền.
Đối với nhóm cam kết tăng cường minh bạch, hiện đại hóa hệ thống đăng ký,
bảo hộ SHTT, các trường hợp chưa tương thích au đây liên quan đến các quy định về

nhãn hiệu được khuyến nghị sửa khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam là:
- Thực hiện hệ thống nộp đơn điện tử đối với nhãn hiệu;
6

Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam. (2017). Báo cáo rà soát pháp luật Việt Nam


với các cam kết của Hiệp đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ. Tr.23. Hà
Nội: Công Thương.

- Không bắt buộc đăng ký hợp đồng li - xăng;
- Duy trì một cách hiệu quả các thủ tục, biện pháp ngăn chặn, chế tài đối với
các hành vi vi phạm SHTT; bảo đảm các thủ tục thực thi cơng bằng, hợp lý, đơn
giản, ít tốn kém, mức chế tài cân xứng;
- Quyết định của Tòa và quyết định hành chính thực thi SHTT có hiệu lực
chung phải được ban hành bằng văn bản và công bố;
- Quy định về nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền trong việc thông báo và
cung cấp thông tin cho chủ thể quyền khi hàng hóa vi phạm SHTT bị đình chỉ thơng
quan hoặc thu giữ.
Với tính chất và tác động của các cam kết nói trên, việc sửa đổi pháp luật và
thực tiễn để phù hợp với các tiêu chuẩn trong cam kết này là rất có ý nghĩa trong việc
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của các
chủ thể liên quan ở Việt Nam.
1.3.5.

Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam

(Hiệp định EVFTA)
Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (E FTA)
đã được ký vào ngày 30/6/2019. Nội dung SHTT cũng đã được đưa ra thảo luận và

đưa vào Hiệp định. So với Hiệp định EVFTA, CPTPP có yêu cầu về SHTT cao hơn,
nhưng trong một số ít các trường hợp cụ thể, cam kết CPTPP và EVFTA có nội dung
tương tự nhau hoặc thậm chí EVFTA có yêu cầu cao hơn.
Trong đó, một số nội dung về nhãn hiệu trùng hoặc tương tự, nhãn hiệu nổi
tiếng, thủ tục thẩm định, phản đối, hủy bỏ; duy trì hiệu lực văn bằng qua hệ thống
điện tử, phân loại hàng hóa, dịch vụ CPTPP và EVFTA có nội dung tương đương.
Ngồi ra, có một số cam kết có trong CPTPP nhưng khơng có trong E FTA như: vấn
đề bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, mùi hương; nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận; thời hạn bảo hộ; không bắt buộc đăng ký hợp đồng li-xăng.. .Có những


×