Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ hợp điều KIỆN hợp ĐỒNG THEO CÔNG ước VIÊN 1980 của LIÊN hợp QUỐC về hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG hóa QUỐC tế (CISG) LIÊN hệ LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.75 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ KIM HẢI

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP ĐIỀU KIỆN HỢP ĐỊNG
THEO CƠNG ƯỚC VIÊN 1980 CỦA LIÊN HỢP QC
VỀ HỢP ĐỊNG MUA BÁN HÀNG HĨA QC TẾ (CISG) LIÊN HỆ LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HƠ CHÍ MINH - NĂM 2020


[f
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ KIM HẢI

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP ĐIỀU KIỆN HỢP ĐỊNG
THEO CƠNG ƯỚC VIÊN 1980 CỦA LIÊN HỢP QC
VỀ HỢP ĐỊNG MUA BÁN HÀNG HĨA QC TẾ (CISG) LIÊN HỆ LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Kinh tế.
Mã sổ: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC: TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ KIM VINH


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn
khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vinh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài
này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Các ví dụ minh họa,
số liệu, sự kiện pháp lý phục vụ cho việc đánh giá, phân tích được chính tác giả thu thập
được từ nhiều nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngồi ra, trong luận
văn cịn sử dụng các nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự khơng trung thực nào, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình. Trường Đại học Kinh tế - Luật không liên quan đến những
vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).
TÁC GIẢ

VŨ KIM HẢI


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT
CISG

1

DIỄN GIẢI
Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế


2

LTM

Luật Thương mại

3

HĐMBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

4

BLDS

Bộ luật dân sự


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

1.1.1........................................................................................................
1.1.2.
Hậu quả pháp lý (chế tài được áp dụng) của việc giao hàng

không phù hợp

TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

MỞ ĐẦU
ĩ
rrir_______1

_ Ạ______ J 1

ĩ
• Ạ,

■?

____ 1. • Ạ.________ _ _r_______

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu:
Trong xã hội có sự trao đổi mua bán hàng hóa thì ln ln cần thiết có một
cơ chế đảm bảo để nếu trường hợp xảy ra các vấn đề làm tổn hại đến quyền và lợi
ích chính đáng của các bên trong giao dịch thì các quy định này sẽ góp phần điều
tiết, cân bằng lợi ích của các bên nhằm đảm bảo được tính cơng bằng, bình đẳng cho
quyền lợi giữa các bên trong giao dịch mua bán hàng hóa đồng thời khuyến khích
các bên khi tiến hành giao dịch cần có những phương pháp cụ thể nhằm hạn chế tối
đa sự cố cũng như có căn cứ để xác định lỗi dẫn đến chịu trách nhiệm về hành vi
giao dịch một cách rõ ràng, minh bạch. Để đáp ứng yêu cầu này Cơng ước Liên hợp
quốc về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) đã được ra đời nhằm điều chỉnh những

quy tắc chung nhất khi tham gia giao dịch thương mại giữa các quốc gia với nhau,
trong đó hơn hết là quy định chi tiết về những quy định khi xảy ra trường hợp giao
hàng lỗi giữa các bên, đặc biệt là giữa các quốc gia thành viên với nhau vốn dĩ mang
nhiều khác biệt về thói quen và quy định pháp luật giao dịch thương mại.
Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, cho đến nay, CISG đã trở thành một trong
các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất. Trong
phạm vi hẹp hơn, so với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa (như
các cơng ước Hague 1964), CISG là Cơng ước quốc tế có quy mơ lớn hơn hẳn về số
quốc gia tham gia và mức độ được áp dụng. Trong danh sách các quốc gia thành viên
của Cơng ước Viên 1980, có sự góp mặt của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp
luật khác nhau, các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển, các
quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các quốc gia theo đường lối xã hội chủ nghĩa
nằm trên mọi châu lục.
Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn với
hơn 2500 vụ tranh chấp đã được Tòa án và trọng tài các nước/quốc tế giải quyết có
liên quan đến việc áp dụng và diễn giải Công ước Viên 1980 được báo cáo. Điểm
cần nhấn mạnh là 2500 vụ việc này không chỉ phát sinh tại các quốc gia thành viên.


7

Tại các quốc gia chưa phải là thành viên, Công ước vẫn được áp dụng, hoặc do các
bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng cho hợp đồng,
hoặc do các tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp. Nhiều doanh
nhân tại các quốc gia chưa phải là thành viên CISG đã tự nguyện áp dụng CISG cho
các giao dịch thương mại quốc tế của mình, bởi vì họ thấy được những ưu việt của
CISG so với luật quốc gia.
Vai trò của CISG còn thể hiện ở chỗ CISG là nguồn tham khảo quan trọng
của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Các
nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL). Trên cơ sở nền tảng của CISG, các

nguyên tắc này đã trở thành các văn bản thống nhất luật quan trọng về hợp đồng,
được nhiều quốc gia và doanh nhân tham khảo và sử dụng trong các giao dịch
thương mại quốc tế.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức gia nhập CISG, trở thành viên thứ
84 của Công ước này và là thành viên thứ 2 sau Singapore gia nhập CISG. Kể từ
ngày 1/1/2017 CISG có hiệu lực đối với Việt Nam. Việc gia nhập CISG đã đánh dấu
một mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về
thương mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hồn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp việt
nam một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Trong các quy định của CISG khơng thể không đề cập đến các quy định liên
quan đến các trường hợp giao hàng lỗi, bởi sự khác biệt dù nhiều dù ít vẫn xảy ra đối
với các quốc gia thành viên khi tham gia CISG, khác biệt này dẫn tới nhiều hệ quả
xảy ra khi tiến hành việc giao nhận hàng hóa giữa bên mua và bên bán đòi hỏi cấp
thiết phải được nghiên cứu sâu, quy định chặt chẽ những quyền và nghĩa vụ giữa các
bên khi xảy ra vấn đề giao hàng lỗi cũng như những hậu quả xảy ra gắn liền với hành
vi này, từ đó đóng góp quan trọng, thực chất về tính cơng bằng minh bạch khi tham
gia thương mại quốc tế đúng như tinh thần của CISG mà các quốc gia thành viên
tham gia muốn hướng đến.


8

Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến CISG chủ yếu
xoay quanh nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chưa tập trung vào vấn đề
cụ thể như trường hợp phát sinh khi xảy ra việc giao hàng không phù hợp, vì vậy
việc nghiên cứu thêm về vấn đề này cần được ưu tiên và mở rộng, từ đó đóng góp đề
xuất thêm các quy định trong pháp luật Việt Nam nhằm hoàn thiện hệ thống pháp

luật hội nhập tốt hơn khi tham gia thương mại quốc tế.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về vấn đề giao hàng không phù hợp theo quy định của CISG, các
quy định tương tự trong pháp luật Việt Nam, có sự so sánh để nêu những bất cập và
vướng mắc giữa quy định của CISG với pháp luật thương mại Việt Nam nhằm đưa ra
một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan trong
lĩnh vực thương mại quốc tế.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về vấn đề giao hàng lỗi theo quy định của CISG, các quy định
tương tự trong pháp luật Việt Nam, có sự so sánh để nêu những bất cập và vướng
mắc giữa quy định của CISG với pháp luật thương mại Việt Nam nhằm đưa ra một
số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan trong lĩnh
vực thương mại quốc tế.
Câu hỏi nghiên cứu:
CISG quy định như thế nào về các trường hợp giao hàng không phù hợp.
Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về các trường hợp giao hàng không
phù hợp tương tự các trường hợp được quy định trong CISG.
Các đề xuất liên quan đến quy định trong CISG và luật Việt Nam là gì.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quy định của CISG liên quan đến trường hợp giao
hàng lỗi, pháp luật thương mại Việt Nam về trường hợp giao hàng lỗi, các quy định


9

dưới luật và các bài viết trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung: CISG, luật Việt Nam về trường hợp giao hàng không phù hợp.
Không gian: Tại Việt Nam và các nguồn thông tin khác như sách, báo mạng
từ các nước khác.

Thời gian: Quy định hiện hành.
Cơ sở lý thuyết và khung phân tích:
Cơ sở lý thuyết: Các nghiên cứu của các tác giả liên quan đến CISG cho thấy
các trường hợp giao hàng không phù hợp xảy ra cũng tương đối phổ biến, làm cơ sở
lý thuyết cho việc nghiên cứu đề tài.
Khung phân tích: Mở rộng khi phân tích các quy định trong CISG sau đó liên
hệ một cách cụ thể trong pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra phương hướng đề xuất đối
với từng vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu nghiên cứu:
Phương pháp luận chung của Luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận đó, tác giả áp dụng các
phương pháp cụ thể như: Phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích, so sánh, tổng
hợp.
Nguồn dữ liệu sẽ được tiếp cận đa số là thứ cấp, lấy số liệu từ các báo cáo,
thống kê của các tổ chức uy tín.
Bố cục của đề tài:
Ngồi phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế.
- Chương 2: Giao hàng khơng phù hợp với điều kiện hợp đồng theo quy định
của CISG.
- Chương
đề
xuất. 3: Các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan,


1
0

CHƯƠNG 1.

KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QC TẾ
1.1.

Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện qua nhiều hoạt động khác biệt
như thương mại về hàng hóa, thương mại liên quan đến các vấn đề quyền sở hữu trí
tuệ, thương mại đầu tư...Trong tất cả thì các giao dịch thuộc lĩnh vực thương mại
hàng hóa ln thể hiện vai trị một cách rõ nét nhất, có vị trí quan trọng trong giao
dịch thương mại quốc tế.
Các giao dịch thuộc lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thể hiện đa
phần qua các dạng hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế (“HĐMBHHQT”). Do đó,
việc xác định khái niệm chính xác của HĐMBHHQT có tầm quan trọng lớn trong lý
luận và thực tiễn áp dụng bởi nó gắn liền với việc xác định luật nào được áp dụng để
điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua bán
hàng hóa thơng thường (hợp đồng nội địa) thì sẽ được pháp luật trong nước điều
chỉnh. Nếu là HĐMBHHQT thì nó sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật thương mại
quốc tế: có thể là pháp luật của các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế liên
quan và trong nhiều trường hợp liên quan đến cả tập quán thương mại quốc tế, nên
cần thiết phải lựa chọn luật nào trong số đó để áp dụng cho hợp đồng. Khơng những
thế mà trong một số trường hợp còn cho phép xác định được pháp luật của quốc gia
nào được sử dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Vì
vậy hết sức cần thiết phải có một khái niệm chung, rõ ràng về hợp đồng mua bán
hàng quốc tế, hay nói cách khác là phải có cách xác định tương đối thống nhất tính
quốc tế của HĐMBHHQT.”1
Trước
của
HĐMBHHQT
đây,
theo

được
quy
xác
định
định
của
dựa
LTM
trên
Việt
dấu
Nam
hiệu
1997,
quốc
tính
tịch
quốc
củabán
tế
hàng
thương
hóa
nhân.
với
Cụ
thương
thể,
nhân
LTM

1997
nước
quy
định
rằng:
Hợp
đồng
mua

1

Đại học Quốc gia TP. HCM, Trường Đại học Kinh tế - Luật, PGS. TS. Dương Anh Sơn, Luật hợp
đồng thương mại quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM, 2016, tr. 4.


11

ngồi là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt
Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Chủ thể bên nước ngoài là thương
nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà
thương nhân đó mang quốc tịch.9 LTM 2005 khác với LTM 1997, không đưa ra khái
niệm hay định nghĩa theo hướng khái quát đặc điểm của HĐMBHHQT mà chỉ quy
định các hình thức trong mua bán hàng hóa quốc tế, từ đó xác định mua bán hàng
quốc tế được thực hiện bằng các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất,
tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. 10 Như vậy có thể nói rằng hiện nay trong hệ
thống pháp luật Việt Nam chưa có một khái niệm hay một định nghĩa mang tính khái
quát về mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong khi đó, pháp luật của một số nước cũng như một số văn bản pháp lý
quốc tế điều chỉnh các loại hợp đồng thương mại quốc tế (trong đó có
HĐMBHHQT) xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế dựa trên cơ

sở dấu hiệu lãnh thổ hay nói cách đơn giản hơn là địa điểm hoạt động thương mại
của thương nhân. Như Công ước New York 1974 về Thời hiệu tố tụng trong hợp
đồng mua bán hàng hố quốc tế, Cơng ước Viên 1980 về HĐMBHHQT, Công ước
La Haye 1986 về Luật áp dụng cho mua bán hàng hố quốc tế, Cơng ước Geneva
1983 về Đại lý trong mua bán hàng hoá quốc tế, Cơng ước Ottawa năm 1988 về Cho
th tài chính quốc tế. Tất cả các cơng ước nói trên, quy định rằng hợp đồng thương
mại quốc tế là hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên
lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
Rõ ràng, việc xây dựng khái niệm HĐMBHHQT dựa trên yếu tố lãnh thổ cho
phép xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng trở nên đơn giản hơn và thiết thực hơn.
Vì vậy, HĐMBHHQT có thể được hiểu với khái niệm chung là: “hợp đồng được ký
kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác
nhau.”11
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là việc xác định tính quốc tế của
9Luật Thương mại Việt Nam 1997, Điều 80, 81.
10
Luật Thương mại Việt Nam 2005, Điều 27.
11
Đại học quốc gia TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 12.


12

HĐMBHHQT dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn đối với khả năng khi nhiều
bên trong hợp đồng có nhiều trụ sở thương mại đặt tại các nơi khác nhau. Trong
trường hợp này này, giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là hồn tồn có khả
năng thực thi. Điều 10 của Công ước quy định rằng một bên có nhiều hơn một địa
điểm thương mại (kinh doanh) thì sẽ chọn điểm kinh doanh có liên hệ gần nhất với
hợp đồng đã ký kết và gần nhất với hoạt động thực hiện hợp đồng, có đề cập đến các
tình huống mà hai bên biết hoặc tiên lượng đến tại thời điểm trước giao kết hoặc

ngay khi giao kết hợp đồng. Nếu một đương sự khơng có địa điểm kinh doanh thì
chọn nơi thường trú của người này làm chuẩn.
Hiện nay, nhiều nước đã tham gia vào Công ước Viên 1980 về mua bán hàng
hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới
xác định tính quốc tế của HĐMBHHQT dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên ký
kết hợp đồng. Việt Nam chúng ta đã là thành viên của Công ước Viên 1980 nên việc
tiếp thu quan điểm này là một điều cần thiết vì khơng những phù hợp với thơng lệ
quốc tế mà cịn tạo điều kiện dễ dàng trong việc xác định và áp dụng trong thực tiễn.
1.2.

Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

HĐMBHHQT trước hết là một hợp đồng, vì vậy mang đầy đủ bản
chất và đặc trưng của các hợp đồng nói chung. Ngồi ra, do
HĐMBHHQT là hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở
thương mại tại các quốc gia khác nhau, nghĩa là có yếu tố
nước ngồi, vì vậy sẽ có những điểm khác biệt nhất định so
với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường theo Bộ luật dân
sự (“BLDS”) và LTM Việt Nam.

Bắt nguồn từ các đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng mua bán hàng hóa
thơng thường, thêm vào đó là yếu tố nước ngồi có trong HĐMBHHQT.
HĐMBHHQT sẽ có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về phương diện chủ thể.
Các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, kể cả các đạo luật gốc (đạo luật mẫu)
để điều chỉnh về HĐMBHHQT ít khi phân tích đến vấn đề về mặt chủ thể của
HĐMBHHQT. Điều này được phân tích bằng thẩm quyền khi ký kết HĐMBHHQT
sẽ do pháp luật của nước được áp dụng đối với bên ký kết quy định. Từ đó, kết quả



13

là các quy định về mặt pháp lý của các quốc gia khác nhau sẽ có những quy định
khác nhau về thẩm quyền được ký kết HĐMBHHQT.
Chủ thể của HĐMBHHQT được xác định đa số là các thương nhân. Thương
nhân hiểu theo nghĩa thông thường (dịch nghĩa) là những người trực tiếp thực hiện
hoặc tham gia vào hoạt động kinh doanh có tính chất thương mại. Trong Luật thương
mại Việt Nam 2005, thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ các điều
kiện do pháp luật quốc gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương mại và
trong một số trường hợp kể cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia). Các
quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về các yêu cầu, tiêu chí, điều kiện
trở thành thương nhân cho từng nhóm, từng đối tượng cụ thể trong các trường hợp cụ
thể. Như trường hợp thương nhân là cá nhân, các điều kiện, tiêu chí, yêu cầu được
xem để xác định là có tư cách thương nhân trong LTM thường bao gồm các điều
kiện, yêu cầu về mặt nhân thân ví dụ như về độ tuổi, năng lực hành vi, điều kiện về
mặt tư pháp và mặt nghề nghiệp.5
Thứ hai, về đối tượng của HĐMBHHQT.
Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHHQT phải đáp ứng đủ các yêu cầu về đặc
điểm hàng hóa được phép giao dịch theo pháp luật của quốc gia bên mua và bên bán.
Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định khác biệt về hàng hóa được
phép trao đổi mua bán, từ đó sẽ dẫn đến việc có những hàng hóa theo quy định của
nước này thì được phép trao đổi mua bán nhưng theo quy định của pháp luật nước
khác thì lại cấm. Như vậy chỉ những hàng hóa nào đều được luật pháp của các bên
ký kết hợp đồng quy định cho phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành đối
tượng của HĐMBHHQT. Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong pháp luật các
quốc gia trên thế giới hiện nay, mặc dù có những khác biệt nhất định song đều có xu
hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thơng thương mại. Theo
pháp luật của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế chẳng hạn như Công
ước Viên 1980 về HĐMBHHQT, hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại
được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản, một là có thể đưa vào

lưu thơng hàng hóa và hai là có tính chất thương mại. Công ước Viên 1980 về hợp


14

đồng mua bán hàng hóa (tại Điều 2) chỉ ngoại trừ (khơng áp dụng) một số trường
hợp hàng hóa như chứng khoán, giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông, điện năng,
phương tiện vận tải đường thủy, đường không, phương tiện vận tải bằng khinh khí
cầu...
Thứ ba, về hình thức của HĐMBHHQT.
Bắtthể
nguồn
từ
ngun
tắc
tự
do
xác
lập
ýphương
chí,
các
bên
trong
giao
một
cách
kết
hợp
phù

đồng
hợp.

Từ
quyền
đây
dẫn
lựa
đến
chọn
hệ
cách
quả

để
trong
việc
ý
giao
chí
kết,
ý
chí
nhất
các
bên
định,
khơng

thể

bắt
được
buộc
phải
hiện
được
bằng
thể
lời
hiện
nói,
bằng
bằng
một
văn
vậy,
bản,

sự
bằng
an
hành
tồn
vi,
trong
cử
vấn
chỉ
đề
cụ

pháp
thể
hoặc

của

hợp
sự
im
đồng
lặng.
cũng
Tuy
như
để
hội

các
các
bên,
chứng

cứ
các
pháp
hợp

đồng

khi

trật
giao
tự
pháp
kết
phải
luật,
tn
lợi
thủ
ích
những

hình
khả
năng
thức
phải
quy
định,
gánh
chịu
nếu
khơng
những
các
hậu
bên
quả
tham

bất
lợi.
gia
giao
Vậy
hình
kết

thức
hợp
sự
đồng
hiện
như
ýđã
chí
trình
dưới
bày
dạng
khơng
lời
chỉ
nói,

văn
bản,
tiện
hành
ghi

vi,
nhận
cử
chỉ
cụ

cịn

những
thủ
tục


15

mà pháp luật quy định bắt buộc khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng phải tuân
theo trong một số trường hợp nhất định.6
Hình thức của HĐMBHHQT cũng được quy định khác biệt trong pháp luật
của các nước khác nhau và trong pháp luật quốc tế. Pháp luật của một số quốc gia
quy định rõ yếu tố hình thức của HĐMBHHQT phải được lập thành văn bản, nhưng
pháp luật của một số quốc gia khác lại khơng có bất kỳ một quy định nào về hình
thức hợp đồng. Trong một số trường hợp, việc xác định yếu tố “văn bản” giữa các
nước cũng hình thành các định nghĩa khác nhau về những thành tố cấu thành chứa
thông tin nào để được coi là văn bản.
Ở mặt
khác
quy
định
về
pháp

luật
quốc
tế,

rất
ít
quy
định
về
định
điều
của
kiện
Cơng
hình
ước
thức
Viên
của
1980
hợp
thì
đồng.
HĐMBHHQT
Dẫn
chứng
được
thể
như
hiện

theo
dưới
quy
hình
ước
quy
thức
định:
nào
cũng
“hợp
được
đồng
cơng
mua
bán
nhận
khơng

hợp
cần
pháp.
phải
Điều
được

11
kết
Cơng
hoặc

khác
xác
hình
lập
bằng
thức
văn
hợp
bản
đồng.
hay
Hợp
phải
đồng
tn

thể
thủ
được
một
u
chứng
cầu
minh
nào
bằng
chúng
mọi
ta
cách,


thể
kể
nhận
cả
những
thấy
trong
lời
khai
Bộ
ngun
của
nhân
tắc
chứng.”
của
UNIDROIT
Tương
tự
2004
tắc

về
ghi
Hợp
nhận
đồng
rõ:
thương

“khơng
mại
một
quốc
chi
tế.
tiết
Điều
nào
1.2
của
Bộ
Bộ
ngun
ngun
tắc
u
được
cầu
chứng
một
minh
hợp
đồng

sự
phải
thỏa
được
thuận


bằng
kết
bằng
văn
bản.
văn
bản
Sự
tồn
hoặc
tại
phải
của
một
kể
cả
bằng
nhân

thể
chứng.”
được
Lưu
chứng
ý

minh
để
điều

bằng
chỉnh
bất
kỳ
sự
hình
áp
dụng
thức
một
nào
cách
pháp
tùy
luật
tiện
các
Điều
nước
thành
11
Cơng
viên
ước
Viên
quy
1980
định

đối

để
với
phù
hình
hợp
thức
với
của
“nước
hợp
thành
đồng
viên
phải
của

văn
cơng
bản,
ước
tại

pháp
Điều
luật
12
Cơng
quốc
ước
gia

quy
u
định:
cầu
hợp
lưu
đồng
vấn
đề
phải
này

bất
hình
cứ
thức
lúc
nào.”
bằng
văn
Thêm
bản
vào

đó
thể
tại
tun
Điều
bố

96
bảo
của
Cơng
ước
cũng
ghi
nhận


trong
trường
hợp
pháp

6

TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong BLDS Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội,
2007, tr. 174-176.


16

luật của một nước thành viên quy định hợp đồng phải được xác lập dưới dạng hình
thức bằng văn bản thì quy định này phải được ưu tiên, kể cả trong trường hợp chỉ cần
một trong các bên có trụ sở thương mại đặt tại nước có quy định hợp đồng phải được
thể hiện dưới dạng văn bản. Theo quy định tại Điều 27 LTM Việt Nam 2005 thì:
“mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
Như vậy, dù cho trong các văn bản mang tính pháp lý quốc tế cũng như các

quy định của pháp luật tại các nước có thể khơng quy định hình thức bắt buộc của
HĐMBHHQT phải lập văn bản, tuy vậy, vì có sự tham gia của yếu tố nước ngồi
trong các HĐMBHHQT, có các quy định hoàn toàn khác nhau trong các hệ thống
pháp luật khác nhau của các nước; đồng thời, do sự khác biệt ngôn ngữ các bên tham
gia ký kết hợp đồng và các vấn đề khác, nên tốt hơn cả là các bên khi tham gia ký kết
HĐMBHHQT thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương. Tất cả điều trên sẽ tránh được các hậu quả pháp lý bất lợi, rủi
ro và tranh chấp khơng đáng có cũng như các thiệt hại có thể xảy ra.
Thứ tư, luật điều chỉnh HĐMBHHQT.
Như đã trình bày ở trên, trụ sở thương mại của các bên trong hợp đồng thương
mại quốc tế nằm trên lãnh thổ của các nước khác nhau điều này dẫn đến không chỉ
liên quan đến vấn đề lãnh thổ đặt trụ sở thương mại mà còn dẫn đến là các bên sẽ có
liên quan đến các hệ thống pháp luật khác nhau.12 Từ yếu tố chủ quyền quốc gia theo
quy định của công pháp quốc tế, một quan hệ được hình thành (xác định là quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài), các quan hệ này liên quan đến bao nhiêu quốc gia thì sẽ
có bấy nhiêu hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó.
Nhưng có lưu ý là mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng và
các hệ thống pháp luật đó hồn tồn khác biệt nhau, thậm chí là có thể có các quy
định trái ngược nhau. Từ đó dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật. Xung đột pháp
luật xác định là khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để
điều chỉnh một quan hệ pháp luật. Như vậy, HĐMBHHQT có thể được điều chỉnh bởi
12 Đại học quốc gia TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 20.


17

pháp luật của các quốc gia khác nhau. Ngoài ra HĐMBHHQT có thể được điều chỉnh
bởi các điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và có thể bằng các đạo luật
mẫu về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy vậy cần phải hiểu rõ bản chất là mỗi một
quan hệ xác lập thì chỉ có thể áp dụng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh. Thế nên

điều quan tâm là việc chọn lựa một trong các hệ thống pháp luật để áp dụng điều
chỉnh mối quan hệ xác lập đó.
Về vấn đề tự do ý chí trong xác lập quan hệ hợp đồng, các bên tham gia trong
HĐMBHHQT có thể lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh hợp đồng của mình.
Việc lựa chọn này phải đáp ứng các điều kiện và trong một số trường hợp quyền chọn
luật sẽ bị hạn chế bởi quy định của pháp luật quốc gia khi nó có đề cập, liên quan các
yếu tố như bảo lưu trật tự công cộng... Nếu các bên trong hợp đồng không chọn luật
để áp dụng cho hợp đồng mình tham gia ký kết thì quy định pháp luật quốc tế sẽ được
áp dụng để chọn pháp luật điều chỉnh hợp đồng này.
1.3.

Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Nội dung của HĐMBHHQT là sự thể hiện cho sự thỏa thuận các bên, thể hiện
sự tự nguyện trong biểu đạt ý chí của các chủ thể, nhằm xác định các quyền và nghĩa
vụ cụ thể của các bên đối với nhau được ghi nhận tại các điều khoản trong hợp đồng.
Tuy vậy, không phải cứ nội dung nào các bên thỏa thuận có đưa vào hợp đồng cũng
được coi là điều khoản hợp pháp. HĐMBHHQT hợp pháp về nội dung khi thể hiện
những những điều khoản phù hợp với quy định của pháp luật.
1.3.1.

Một số điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Khi các bên ký kết HĐMBHHQT thỏa thuận trong hợp đồng về các điều
khoản được ghi nhận sẽ xác định được rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với bên
còn lại. Nhưng qua nghiên cứu thì theo quy định pháp luật các quốc gia, kể cả Việt
Nam khơng có xuất hiện quy định thể hiện sự bắt buộc, yêu cầu đối với các điều
khoản tối thiểu phải có trong hợp đồng. Lật lại vấn đề, tại Việt Nam thì ghi nhận quy
định LTM năm 1997 tại Điều 50 và Điều 81 thì HĐMBHHQT tối thiểu phải đáp ứng
có yếu tố về: tên hàng hóa, số lượng hàng hóa, quy cách chất lượng hàng hóa, giá cả



18

hàng hóa, phương thức thanh tốn, và địa điểm, thời hạn giao nhận hàng hóa. Tuy
nhiên đến quy định của LTM 2005 thì khơng có điều khoản ràng buộc tối thiểu phải
có trong HĐMBHHQT. Các quy định liên quan pháp luật quốc tế ghi nhận cũng
tương tự, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004
và Cơng ước Viên 1980 về HĐMBHHQT khơng có quy định về các điều khoản tối
thiểu bắt buộc phải có của hợp đồng. Dù quy định tại Điều 14 của Công ước Viên
1980 quy định về điều khoản chào hàng ta vẫn nhận thấy các yếu tố được liệt kê như:
tên hàng hóa, số lượng hàng hóa và giá cả hàng hóa thanh tốn.
Dù khơng có quy định cụ thể về những điều khoản tối thiểu, nhưng thực tế
trong việc ký kết và thực hiện các HĐMBHHQT để hạn chế thấp nhất việc xảy ra
tranh chấp, các bên tham gia trong HĐMBHHQT cần thiết phải thỏa thuận rõ ràng và
ghi nhận các điều khoản thiết yếu, quan trọng, căn bản nhất trong hợp đồng, vì đó
chính là cơ sở pháp lý cao nhất để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên. Các điều
khoản tối thiểu theo quan điểm người nghiên cứu đề xuất như sau:
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của HĐMBHHQT xác định là
hàng hóa. Hàng hóa bắt buộc phải ghi nhận cụ thể, rõ ràng, chính xác tên hàng hóa,
ngồi tên thơng thường để cụ thể hơn nếu có thể chúng ta ghi nhận thêm tên thương
mại và tên khoa học hàng hóa này. Lưu ý ghi nhận rõ về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa.
Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay, chúng ta biết rằng cùng một
loại hàng hóa nhưng khi xuất xứ từ những nơi khác dẫn đến phẩm chất của hàng hóa
sẽ hồn tồn khác nhau.
Thứ hai, số lượng hay trong các trường hợp cần ghi nhận cả
khối lượng của hàng hóa. Đây là điều khoản căn bản, sẽ liên
quan đến vấn đề giao dư/thừa hoặc thiếu hàng hóa. Các bên
trong giao kết hợp đồng phải ghi nhận rõ số lượng hàng hóa
được giao dịch, lưu ý để thuận tiện hơn và trong thực tế có độ

dung sai các bên


19

không nên ghi bằng một con số cụ thể mà nên thỏa thuận cách có giảm (-) hoặc tăng
(+) theo một tỉ lệ phần trăm (%) nhất định.
8
Thứcó
qua
ba,
việc
phẩm

tả
chất
hình
hàng
dạng,
hóa.
màu
Phẩm
sắc,
chất
kých
khi
thước
xác
tiêu
định

chuẩn
phải
thơng
của
trường
hoặc
hợp
xác
phức
định
tạp

đặc
hơn
tính
cần
xác
về
mặt
định

theo
hóa
một
của
tiêu
hàng
chuẩn
hóa,
chung

ta
hay
thể
hình
một
dung
mẫu

thử
cùng
đạt
một
tiêu
loại
chuẩn
hàng
của
hóa
hàng
nhưng
hóa.
nếu
Chúng
xác
áp
vào
theo
các
tiêu
tiêu

chuẩn
chuẩn

khu
khu
vực
vực
này
khác
thì
thì
đáp
lại
ứng
khơng
u
cầu
đáp
nhưng
ứng.
Đó

hợp

đồng
do

các
chất
bên

lượng,
cần
phải
phẩm
ghi
chất
nhận
của

hàng
ràng
hóa
trong
sẽ
thỏa
được
thuận,
đánh
giá
nhầm
dựa
lẫn.
trên
Lấy
tiêu

dụ
chuẩn
một
nào,

vụ
án
tại
điển
khu
hình,
vực
nào,
theo
nhằm
đó
ngun
tránh
đơn
những
trong
mua
vụ
tại
án


bên
Lan
bán
đã
cùng
tại
Thụy
nhau


tiến

hành
bị
đơn
việc
trong

hợp
vụ
đồng
án

mua
bán
định
cùng
chi
loại
tiết.
hàng
Hàng
hóa,
được
lưu
gửi
ý
đi


từ
yếu
một
tố
cơng
chất
ty
lượng
Canada
đã
được
theo
quy
điều
tiếng
kiện
Pháp
CIF
với
cảng
những
Rotterdam.
điều
kiện
Cả
giống
ba
hợp
hệt
đồng

nhau
đều
trừ
được
điều
lập
khoản
bằng
về
đầu
số
tiên
lượng.
được
Nhưng


trong
thực
hiện,
trường
hợp
hợp
đồng
này
thứ
chỉ

ba
hai

vẫn
chưa
hợp
đồng
được

được
kết.
giao
Sau
theo
đó,
hai
phía
hợp
bị
đồng
đơn
đã
đầu
hủy
khơng
hợp
đúng
đồng
quy
với
định

do

phẩm
hàng
chất,
chất
xuất
lượng

Canada
được
(nơi
ghi
gửi
nhận
đi)
trong
đã
cho


đã
sang
ký.

Nhà
Lan
máy
để
sản
kiểm
tra

tích
mẫu
áp
hàng.
dụng
phương
Kết
quả
pháp
kiểm
của
tra
các
cho
quốc
thấy
gia
khi
vùng
tiến
Bắc
hành
Mỹ
thì
phân
mẫu
hàng
hóa
trong
hồn

hợp
tồn
đồng,
đáp
nhưng
ứng
được
khi
tiến
các
u
hành
cầu
phân
chất
tích
lượng
áp
dụng
ghi
theo
u
cầu.
quy
chuẩn
Theo
trình
của
các
bày

nước
của
phía
khu
vực

Châu
Lan
thì
Âu
thì
hàng
lại
hóa
khơng
bên
họ
đạt
nhận
(tiêu
được
chuẩn
khơng
các
phải
nước


Châu
hàng

Âu).
hóa

Ngun
họ
nghĩ
nhân
rằng
được
mình
chỉ
đã
ra
mua
bên
bán

Thụy

khi

kết
hợp

8

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC): “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, Hà Nội.
2002, tr. 30.



20

đồng đã khơng có điều khoản quy định phẩm chất, chất lượng sản phẩm được áp
dụng theo quy tắc ở quốc gia nào, khu vực nào, còn bên mua ở Hà Lan lại cứ chủ
quan nghĩ một cách mặc định là hàng hóa khi được một cơng ty Châu Âu chào bán
mặc định áp dụng quy chuẩn phân tích của Châu Âu. Từ đây có thể dễ dàng nhận
thấy việc xem xét chất lượng, phẩm chất của hàng hóa phù hợp với hợp đồng sẽ phát
sinh rất nhiều vấn đề khi các bên không thỏa thuận cụ thể về phương pháp, quy
chuẩn để đánh giá chất lượng của hàng hóa. Sự chủ quan, mặc định suy nghĩ của các
bên, hay là việc chúng ta được cung cấp thông tin hay phải tự hỏi thơng tin chính là
mấu chốt trong ví dụ vừa nêu.
Thứ tư, điều khoản về giá hàng hóa. Giá hàng hóa thuộc vào nhóm các điều
khoản cơ bản trong HĐMBHHQT nên các bên tham gia ký kết phải thỏa thuận ý chí
và ghi nhận một cách cụ thể. Trường hợp mà hợp đồng được thực hiện trong một thời
gian tương đối lâu, các bên lưu ý thêm điều khoản về sự biến động giá cả trong thời
gian thực hiện hợp đồng, căn cứ vào điều khoản này thì các bên trong giao kết có thể
tiến hành đàm phán lại vấn đề giá hàng hóa nếu có sự biến động. Mục đích cao nhất
của quy định này khi đưa vào thành điều khoản trong hợp đồng là nhằm hạn chế tối
đa những tổn thất, những vấn đề có thể gây thiệt hai cho một trong hai bên khi xảy ra
sự biến động về giá cả hàng hóa trên thị trường.
Thứ năm, thời hạn, thời gian giao hang. Nhằm để đảm bảo quyền lợi của bên
giao và nhận hàng hóa cũng như việc thuận tiện trong công tác giao dịch hàng hóa
với nhau, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải thỏa thuận ý chí, ghi nhận cụ thể về
thời gian giao hàng hóa vào trong hợp đồng. Thời gian giao hàng được các bên thỏa
thuận xác lập hay ấn định vào một thời điểm cụ thể hoặc vào một khoảng thời gian
cụ thể. Nếu trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa có giao nhận hàng hóa nhiều lần
thì lưu ý phải thỏa thuận cụ thể về từng lần giao hàng, điều này nhằm tránh rủi ro và
giảm thiểu sự vi phạm hợp đồng mà thiếu cơ sở pháp lý để ràng buộc nghĩa vụ bên
phía giao hàng hóa. Ví dụ điển hình như trong hợp đồng mua bán mỡ bôi trơn được
ký kết giữa một bên là bên mua Việt Nam và bên bán Singapore, trong hợp đồng có

thỏa thuận, ghi nhận về điều khoản liên quan đến việc giao hàng là: nghĩa vụ giao


21

hàng của bên bán sẽ chia làm nhiều lần và sẽ được hai bên đồng ý sau.13 Qua nghiên
cứu thì điều khoản quy định như vậy khơng hề có lợi cho bên mua vì khơng đề cập
đến thời điểm giao hàng và thời hạn giao hàng. Có điều khoản như vậy sẽ tạo kẽ hở
về mặt pháp lý cho bên bán lợi dụng trốn tránh, vi phạm nghĩa vụ giao hàng hóa. Cụ
thể, sẽ rất rui ro nếu các bên khơng có thỏa thuận việc giao hàng được chia thành
mấy lần, mỗi lần cách nhau bao nhiêu lâu và tổng thời gian cần thiết (thời hạn giao
hàng) để hoàn tất việc giao hàng. Trong hợp đồng được nêu trên đây các bên khơng
có các điều khoản về thời điểm giao hàng và thời hạn giao hàng, do đó khơng có cơ
chế ràng buộc rõ ràng đối với bên bán (bên giao hàng), bên mua không thể buộc bên
bán giao hàng cho mình vì thiếu các căn cứ, điều khoản cơ bản trong hợp đồng để
giải quyết vấn đề này.
Thứ sáu, phương thức giao hàng hóa. Được xem như một trong những điều
khoản quan trọng nhất trong hợp đồng mua bán hàng hóa vì liên hệ trực tiếp đến rất
nhiều vấn đề bản chất của hợp đồng như: việc thuê/mướn các phương tiện vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm đối với hàng hóa khi vận chuyển, quan trọng nhất là
phương thức thanh toán liên quan mật thiết đến việc xác định thời điểm chuyển dịch
quyền sở hữu đối với hàng hóa và chuyển dịch phần trách nhiệm (rủi ro) đối với
hàng hóa từ bên bán sang bên mua. Thực tế trong việc mua bán hàng hóa quốc tế khi
bên mua và bên bán tiến hành thương thảo về phương thức giao hàng để ghi nhận
định trong tập quán thương mại trong hợp đồng thì hay sử dụng các điều kiện giao
hàng được quy INCOTERMS. “Thông thường, điều kiện giao hàng phụ thuộc phần
lớn vào khả năng của người bán. Đối với những người có khả năng tài chính dồi
dào, có nhiều kinh nghiệm trên thương trường thì giao hàng với điều kiện CIF và
mua hàng với điều kiện FOB, với thương nhân Việt Nam và ngược lại, mua CIF, bán
FOB.”14 Khi bên mua và bên bán tiến hành bàn bạc, thương thảo về phương thức

giao hàng thì các bên khi đó phải đi đến thống nhất sẽ áp dụng phương thức nào và
nó được ghi nhận ở đâu.
13

TS. Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng kinh doanh quốc tế, NXB Trẻ TP.HCM, Hà Nội, 2004, tr

14

Đại học quốc gia thành phố TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 248.

44.


22

Thứ bảy, thanh toán. Thanh toán được xác định là nghĩa vụ cơ bản và quan
trọng nhất của bên mua hàng hóa. Thêm vào đó, thì đây được xác định là quyền lợi
quan trọng nhất của bên bán hàng hóa. Các vấn đề cơ bản có sự liên quan đến điều
khoản về thanh tốn có thể được liệt kê như sau: phương thức thanh toán, thời hạn
thanh toán và địa điểm thanh toán cần được các bên trong hợp đồng thỏa thuận cụ
thể.
Thứ tám, xác định trách nhiệm trong hợp đồng. Trong q trình thực hiện
HĐMBHHQT các bên có thể vi phạm nghĩa vụ của mình do khơng phải lúc nào các
bên cũng thực hiện và thực hiện một cách đầy đủ nghĩa vụ của mình. Vì lý do đó
việc quy định xác định trách nhiệm của các bên mua bán khi vi phạm hợp đồng có
tác dụng bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên kia và cịn
có tác dụng răn đe các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong hợp đồng.
Nhưng xét một cách cơng bằng, trong q trình thực hiện hợp đồng có những trường
hợp khơng thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng ký kết là do những sự kiện khách
quan không nằm trong ý muốn chủ quan của các bên, trong những trường hợp này

nếu buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm là chưa thực sự hợp lý. Vì thế quy định
những trường hợp được loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm là cần thiết. Do đó, các
bên khi ký kết HĐMBHHQT cần thiết phải ghi nhận thỏa thuận quy định về trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm đối với
các bên.
Thứ chín, luật áp dụng cho hợp đồng. HĐMBHHQT có thể được điều chỉnh
bởi các nguồn luật như các điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế và
các đạo luật mẫu. Về mặt nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng
cho hợp đồng mà mình ký ký kết. Trong trường hợp các bên tham gia ký kết hợp
đồng không thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng thì các quy tắc của tư pháp quốc tế
được áp dụng để chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng. Việc
lựa chọn luật áp dụng sẽ dẫn tới hệ quả một trong các bên hoặc các bên chưa biết
hoặc chưa nắm kỷ luật áp dụng trong trường hợp lựa chọn, như vậy nếu xảy ra tranh
chấp thì bên nào chưa nắm kỷ luật áp dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để giải quyết.


23

Thêm vào đó nếu cùng một nội dung được ghi nhận trong hợp đồng nhưng nếu áp
dụng các hệ thống pháp luật khác nhau để điều chỉnh thì sẽ cho ra những hệ quả khác
nhau. Từ tất cả những nguyên nhân đã nêu, thực sự cần thiết là các bên khi ký kết
HĐMBHHQT cần phải thỏa thuận chọn hệ thống pháp luật mà mình đã biết rõ về nó
để tránh những tranh chấp khơng đáng có có thể xảy ra.
Thứ mười, giải quyết tranh chấp xảy ra. Do nhiều nguyên nhân khác nhau ví
dụ như sự khác nhau về pháp luật các quốc gia, ngôn ngữ, tập quán và hơn hết là sự
thay đổi về điều kiện trong quá trình thực hiện hợp đồng nên các tranh chấp sẽ phát
sinh giữa các bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi gặp phải các tranh chấp
phát sinh từ các hợp đồng thương mại quốc tế, các bên luôn mong muốn giải quyết
các tranh chấp một cách thuận tiện, đạt được hiệu quả cao mà vẫn giữ được uy tín và
bí mật kinh doanh15. Để được như vậy đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng phải

nghiên cứu kỹ và thỏa thuận trước với nhau về cơ chế giải quyết tranh chấp chẳng
hạn như thủ tục, phương pháp và cơ quan giải quyết tranh chấp. Thực tế cho thấy thì
các bên thông thường sẽ thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và thủ tục tố
tụng trọng tài.
Thực tế trong lĩnh vực giao dịch thương mại, không phải lúc
nào cũng thực hiện được việc gặp gỡ trực tiếp của các bên để
tiến hành đàm phán và ký hợp đồng. Trường hợp ký kết các hợp
đồng thương mại, các bên hầu như sẽ có sự trao đổi thơng tin
rất nhanh, vắn tắt dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn
đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kĩ thuật...) qua các phương tiện
có tốc độ truyền tải nhanh như Telex, Fax, thư tín, hoặc đơi
khi có trường hợp vì một số lý do khơng có văn bản đầy đủ
chính thức. Trong trường hợp nếu giao dịch diễn ra một cách
bình thường, các bên đều thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa
vụ của mình thì đương nhiên

15

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình LTM quốc tế, tr. 381.


24

khơng có vấn đề gì để phân tích, nhưng nếu phát sinh những trục trặc trong quá trình
giao dịch thì những thiếu sót hoặc kẽ hở dù nhỏ cũng để lại những hậu quả rất nặng
nề. Vì những lý do như vậy, khi tiến hành ký kết hợp đồng, việc đầu tư để soạn thảo
hợp đồng, phụ lục kèm theo một cách chặt chẽ. Các dấu hiệu chưa rõ ràng được thể
hiện trong hợp đồng cần được mô tả một cách chi tiết, làm sáng tỏ ngay để tránh tối
đa những thiệt hại dù nhỏ nhất khơng nên có như đã nêu trên kèm theo các ví dụ dẫn
chứng.16

1.3.2.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá

quốc tế
Khi xác định vào tham gia quan hệ hợp đồng thì mục đích của các bên là
nhằm đạt đến những lợi ích nhất định. Nhưng mục đích, lợi ích của các bên khi tham
gia quan hệ hợp đồng có đạt được hay khơng phụ thuộc vào bên có nghĩa vụ có thực
hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ khơng mà hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý chí của
mỗi bên như mong muốn ban đầu. Bởi như vậy mà thực chất vấn đề chúng ta quan
tâm và cần phân tích nhiều nhất trong quan hệ hợp đồng là vấn đề thực hiện nghĩa vụ
của bên có nghĩa vụ, tất cả các vấn đề khác trong hợp đồng đều xoay quanh vấn đề
nghĩa vụ, ngay cả vấn đề xác định trách nhiệm và các trường hợp được miễn trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng liên quan chặt chẽ đến vấn đề nghĩa vụ. Vậy nên có
lý do để nói rằng việc tạo lập nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ là bản chất của quan hệ
hợp đồng, khi đó hợp đồng được bắt đầu bằng nghĩa vụ và kết thúc bằng việc hồn
thành nghĩa vụ. Đó là khi chúng ta nói chung về các loại hợp đồng, đương nhiên
HĐMBHHQT là một nhánh nhỏ trong đó cũng khơng phải là ngoại lệ. Quyền và
nghĩa vụ của các bên trong HĐMBHHQT ở các hệ thống pháp luật khác nhau có
những quy định cụ thể khác nhau nhưng nếu nhìn một cách tổng quan thì vẫn nhằm
đến việc thực hiện hợp đồng của các bên.
Nghĩa vụ của bên bán.

16
sđd, tr.
35.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC): “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”,



25

Cơng ước Viên 1980 có quy định rõ trong HĐMBHHQT có hai nghĩa vụ cơ
bản của bên bán là “nghĩa vụ giao hàng và nghĩa vụ chuyển giao các giấy tờ liên
quan đến hàng hóa, quyền sở hữu hàng hóa theo đúng quy định của hợp đồng và
của Công ước” (Điều 30).
- Nghĩa vụ giao hàng.
+ Giao hàng đúng địa điểm.
Công ước Viên 1980 quy định tại Điều 31 là “bên bán phải giao hàng tại địa
điểm mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng”. Trong trường hợp các bên khơng
có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì thứ nhất, nếu hợp đồng có liên quan đến sự
vận chuyển thì bên bán phải giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên, thứ hai là ở
các trường hợp khác thì nghĩa vụ của người bán là đặt hàng hóa dưới quyền định
đoạt của người mua tại nơi sản xuất hàng hóa hoặc tại trụ sở thương mại của người
bán, cùng nêu vấn đề này quy định tương tự trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004.
Điều 6.1.6 của Bộ nguyên tắc có ghi nhận rõ: “nếu địa điểm thực hiện nghĩa vụ
không được quy định trong hợp đồng hoặc không thể xác định được căn cứ vào hợp
đồng thì nghĩa vụ phải được thực hiện: tại trụ sở của bên có quyền, nếu là nghĩa vụ
thanh toán một khoản tiền; tại trụ sở của bên có nghĩa vụ nếu là nghĩa vụ khác”.
Tuy vậy, Bộ nguyên tắc UNIDROIT và Công ước Viên 1980 tồn tại những điểm
khác biệt là dự liệu đến trường hợp giao hàng có người vận chuyển thì Bộ nguyên tắc
đã không đề cập đến.
+ Giao hàng đúng thời hạn.
Điều 33 Cơng ước Viên 1980 có quy định là “người bán phải giao hàng đúng
thời gian đã quy định trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định cụ thể về thời
gian giao hàng thì người bán có nghĩa vụ giao hàng trong một thời gian hợp lí sau
khi hợp đồng được ký kết”. Về vấn đề này tại Điều 6.1.1 Bộ nguyên tắc UNIDROIT
2004 có quy định tương tự. Tuy vậy, về thời hạn giao hàng thì có một điểm khác biệt
cơ bản giữa hai văn bản pháp lý này nên chú ý là theo quy định tại Điều 33 Cơng
ước Viên 1980 thì “bên bán phải giao hàng trong khoảng thời gian được hợp đồng



×