Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.14 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ CẨM VÂN

HÀNH VI CẠNH TRANH KHƠNG LÀNH MẠNH
••
TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
••

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ CẨM VÂN

HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn, với đề tài “Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực ngân hàng theo Pháp luật Việt Nam” là cơng trình do tơi thực
hiện, là kết quả cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.
Lê Thị Bích Thọ. Tơi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình.
Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 05 năm 2019
rp L - - • 2
Tác giả

Nguyễn Thị Cẩm Vân


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NĐ-CP

Nghị định - Chính phủ

NHTM
CTKLM

Ngân hàng Thương mại
Cạnh tranh không lành
mạnh



EU

Liên minh Châu Âu
MỤC LỤC


2.2.1.
Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh trong

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

65


7

MỞ ĐẦU
ĩ
1

ĩ

_

'

. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh có vai trị quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa, cung


ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với
nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc
xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa
mạnh mẽ giàu nghèo; cạnh tranh khơng lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp
luật hay bất chấp pháp luật... Do vậy, hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự
can thiệp của nhà nước và tư duy cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là
xu hướng tất yếu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Kể từ khi chuyển sang mơ hình ngân hàng hai cấp và hoạt động theo nguyên
tắc thị trường, thị trường ngân hàng Việt Nam đã có nhiều bước phát triển và làm tốt
vai trò trung chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế. Trước những đòi hỏi ngày càng
khắt khe của thị trường, các chủ thể kinh doanh ngân hàng cũng phải không ngừng
củng cố nhằm tạo lập sức mạnh cho mình trong quá trình cạnh tranh. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động mang nhiều rủi ro, những hậu quả từ hành vi cạnh tranh
không lành mạnh phát sinh từ hoạt động ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến luồng
chu chuyển vốn trong nền kinh tế mà nó cịn làm ảnh hưởng đến mục tiêu an tồn hệ
thống. Nhằm từng bước tạo lập môi trường cạnh tranh an toàn, lành mạnh, Nhà nước
nghiêm cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia thị
trường. Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn.
Từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài “Hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng theo Pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu.


8


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tính tới thời điểm hiện tại đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, bao gồm cả nghiên cứu
chuyên sâu và nghiên cứu tổng qt. Có thể nêu ra một số cơng trình nghiên cứu
điển hình như:
- Viên Thế Giang (Chủ nhiệm, 2010), Hồn thiện pháp luật cạnh tranh ngân
hàng trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học
viện năm học 2009 - 2010, Học viện Ngân hàng. Qua việc nghiên cứu của mình, tác
giả Viên Thế Giang đã có những nhìn nhận khách quan, chỉ ra những điểm hạn chế
của quy định pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Công trình đã
đưa ra những bàn luận và giải quyết được một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp
dụng.
-

Tạ Thu Hằng (2015), Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng
thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học; Khoa Luật,
Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu mang tính hệ thống đối với
việc áp dụng thực hiện pháp luật cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đồng thời phân tích, làm rõ một số điểm bất cập của pháp
luật hiện hành về đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực ngân hàng.

-

TS. Nguyễn Kiều Giang (2007), Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
ngân hàng - Nhìn từ góc độ pháp lý, Tạp chí Luật học số 12/2007. Cơng trình
nghiên cứu trên đã đưa ra được những định nghĩa cơ bản trong việc nhận diện
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu vào phân tích những hạn chế trong quy định
của pháp luật cạnh tranh.


-

Lê Đình Hạc (2005), Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã có những nhìn nhận sâu sắc dưới góc độ pháp lý
về bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động


9

ngân hàng. Song song với việc chỉ ra những bất cập, thiếu sót; tác giả đã đã
đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện nâng lực cạnh tranh lành mạnh
của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, cơng trình chủ yếu nghiên cứu ở
khía cạnh nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng nên phần nào chưa giải quyết
được những bất cập trong quy định của pháp luật về các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình này cũng cho thấy chế định về chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh cực ngân hàng mặc dù là một trong những
chế định cơ bản nhưng vẫn còn nhiều nội dung chưa đạt đến sự đồng thuận và gây
nhiều tranh cãi. Trên cơ sở thừa kế những giá trị khoa học của những cơng trình
nghiên cứu trước đây, luận văn tiếp tục nghiên cứu đi sâu và phát triển hoàn thiện
hơn nữa về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng tại Việt
Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cụ thể của đề tài là đi sâu vào phân tích, đánh giá các vấn đề lý
luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng; qua đó
đánh giá các quy định của Pháp luật Việt Nam về chống cạnh tranh không lành
mạnh, đồng thời làm rõ những bất cập hạn chế trong chế định hiện hành. Trên cơ sở
phân tích đó, đề tài sẽ đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào phân tích các chế định của pháp luật Việt Nam về cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và những bất cập hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu dựa vào ba khía cạnh chính:
Thứ nhất là chi tiết về ngành ngân hàng, việc cạnh tranh không lành mạnh
trong ngành và nguyên nhân, tác hại của cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng, ảnh hưởng của Pháp luật đến sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng.


10

Thứ hai là phân tích, nghiên cứu, đưa ra ý kiến về nội dung của quy định
pháp luật trong việc cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, bao
gồm các vấn đề liên quan đến Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực Ngân hàng.
Thứ ba là phân tích bản chất, cơ chế và phương pháp thực thi pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cùng sự đẩy mạnh sự
phát triển của việc cạnh tranh lành mạnh.
Đề tài sẽ dựa vào ba khía cạnh trên để nghiên cứu, phân tích và làm rõ
những vấn đề thực tiễn và lý luận của luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu
thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học pháp lý, cụ thể:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống nghiên cứu các tài
liệu, cơng trình nghiên cứu khoa học đã được công bố được tác giả chú trọng sử
dụng tại Chương 1 nhằm làm rõ nội dung, kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề

tài, qua đó xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện.
Phương pháp phân tích, phương pháp quy nạp, diễn dịch, phân tích, luận giải,
được tác giả sử dụng đa số tại Chương 2 để nêu lên thực trạng về áp dụng pháp luật
cạnh tranh của các NHTM, từ đó đề ra những kiến nghị nhằm hồn thiện hệ thống
pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ, phong phú những vấn đề
lý luận về việc áp dụng quy định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Thứ nhất, cơng trình phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật như
khái niệm, đặc điểm về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng; Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng.


11

Thứ hai, cơng trình đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành và chỉ ra
những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật về chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Thứ ba, cơng trình đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng theo Pháp
luật Việt Nam.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài các phần danh mục từ viết tắt, mục lục, phần mở đầu, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì đề tài gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng

Chương

2: dựng
Thực
trạng
pháp
luật
Việt
Namchống
về
chống
cạnh
tranh
khơng
hướng
lành
xây
mạnhvà
trong
hồn
lĩnh
thiện
vực
pháp
hoạt
luật
động
ngân
cạnh
hàng.
tranh
Định

khơng
lành Nam
Việt
mạnh
trong
lĩnh
vực
hoạt
động
ngân
hàng
theo
pháp
luật


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực hoạt động ngân hàng
1.1.1.

Khái niệm về hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong lĩnh vực





o



o



ngân hàng
Cạnh tranh là việc các đối thủ tranh đua nhau nhằm mục đích giành lấy
thắng lợi về mình thơng qua việc sử dụng những khả năng sẵn có về mọi phương
diện. Cạnh tranh cũng chính là động lực chủ yếu để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt như thị trường dịch vụ ngân hàng, vai trò
động lực của yếu tố cạnh tranh cũng không phải là ngoại lệ. Bên cạnh sự cạnh tranh
để phát triển, vì lợi ích riêng mà các cá nhân tổ chức đã xuất hiện nhiều sự cạnh tranh
không lành mạnh để đạt mục đích tăng thị phần huy động vốn hay để thu hút khách
hàng.
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh trái ngược với
hành vi cạnh tranh lành mạnh hay khi xác định một hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh người ta thường đặt nó trong mặt đối lập với hành vi cạnh tranh lành mạnh.
Cho đến nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về cạnh tranh lành mạnh cũng như
cạnh tranh không lành mạnh. Các tác giả Nguyễn Như Phát và Bùi Nguyên Khánh
cho rằng, cạnh tranh lành mạnh được hiểu là cạnh tranh trung thực, công bằng, hợp
pháp, hợp đạo đức, tập quán kinh doanh; là hình thức cạnh tranh đẹp, trong sáng,
cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp1. Theo từ điển luật học,
cạnh tranh lành mạnh là “Sự ganh đua một cách hợp pháp trong sạch, đàng hoàng
giữa các nhà kinh doanh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề để chiếm lĩnh thị phần mà
không sử dụng thủ đoạn mờ ám, bất chính nhằm loại bỏ đối thủ, tranh giành thị
trường”. Bản chất của cạnh tranh lành mạnh là các hành vi cạnh tranh hợp pháp,
1 Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều

kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 24


trong sạch, đàng hồng, trung thực, cơng bằng, hợp đạo đức, tập quán kinh doanh.
Song trên thực tế, để đánh giá thế nào là trong sạch, đàng hoàng, trung thực, công
bằng là việc không hề đơn giản, các quan điểm tiếp cận ở trên đều có chung nhận
định, hành vi cạnh tranh lành mạnh phải phù hợp với quy định của pháp luật và đạo
đức kinh doanh.
Việc xác định tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh lệ thuộc vào
nhiều yếu tố của quan hệ thị trường và luôn có xu hướng thay đổi do sự biến động
khơng ngừng của quan hệ thị trường cũng như khả năng sáng tạo trong hoạt động
kinh doanh. Chính vì thế nên cũng xuất hiện khá nhiều quan điểm khác nhau về cạnh
tranh không lành mạnh. Và cũng tủy thuộc vào truyền thống pháp luật mà mỗi nước
có những quan niệm khác nhau về cạnh tranh khơng lành mạnh.
Bên cạnh đó, cách thức nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
pháp luật của từng nước cũng khác nhau. Theo tác giả Bùi Xuân Hải2, có những quan
niệm cho rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đi ngược lại các
giá trị đạo đức và tập quán kinh doanh truyền thống nhằm mục đích cạnh tranh mà
trực tiếp gây hại cho các đối thủ cạnh tranh cụ thể hoặc khách hàng cụ thể. Đó là
quan niệm thuộc trường phải luật lục địa (Continental Law). Vì thế người ta thường
quan niệm lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh thuộc về lĩnh vực luật
tư và các chế tài dĩ nhiên sẽ phải chủ yếu là các chế tài dân sự theo nguyên tắc của
luật dân sự như bồi thường thiệt hại, cải chính, cơng khai xin lỗi... Và cũng có những
quan niệm cho rằng hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh là những hành vi nhằm mục
đích cạnh tranh và gây nguy hại cho môi trường kinh doanh, gây thiệt hại cho lợi ích
cơng cộng nói chung chứ khơng cần thiết phải xác định nó có gây thiệt hại cho một
đối thủ cạnh tranh hay một khách hàng cụ thể hay khơng. Đó là quan niệm theo
trường phải luật thông thường (Common Law). Hệ thống chế tài đối với các hành vi
vi phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của các nước này thường bao gồm
các chế tài dân sự, hành chính và cả hình sự.

Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục
2 PGS.TS Bùi Xuân Hải (2004), Mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp


đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh ln thể hiện tính khơng lành mạnh mà
mục đích của nó là gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh sự bất lợi hay thiệt hại trong
kinh doanh. Còn theo pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ thì cạnh tranh khơng lành
mạnh là hành vi của các doanh nghiệp với mục đích thu lợi bất chính trong khi tiến
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, vi phạm nguyên tắc công bằng được tôn trọng,
vi phạm tập quán kinh doanh, vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh, gây ra
thiệt hại cho các doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh hoặc gây ảnh hưởng uy tín
kinh doanh của họ3. Theo Hoàng Thị Thu Trang, các hành vi bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh theo pháp luật Hoa Kỳ cũng gần tương tự với Luật Cạnh tranh Việt
Nam4. Thực tế, những hành vi bị pháp luật Việt Nam coi là cạnh tranh khơng lành
mạnh thuộc một trong bốn nhóm hành vi sau đây theo hệ thống pháp luật của Hoa
Kỳ:
Đầu tiên, hành vi cản trở hoạt động kinh doanh thông thường. Các hành vi
cản trở kinh doanh thông thường thuộc sự điều chỉnh của các Luật tại các bang khác
nhau trên lãnh thổ Hoa Kỳ.
Thứ hai, hành vi xâm phạm nhãn hiệu hoặc bản quyền. Các hành vi này
thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật giảm chất lượng thương hiệu liên bang 1996 và
Đạo luật Lanham.
Thứ ba, quảng cáo so sánh gây nhầm lẫn hoặc gian dối. Các hành vi này
thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật Lanham.
Thứ tư, hành vi marketing hoặc quảng cáo gây nhầm lẫn hay gian dối, dẫn
tới thiệt hại cho người tiêu dung nói chung.
Ba hành vi vi phạm cạnh tranh lành mạnh đầu tiên được giải quyết thuộc
lĩnh vực luật tư. Đối với hành vi thứ tư, theo Mục 5 Đạo luật về Ủy ban thương mại
liên bang, hành vi này thuộc sự quản lý của ủy ban. Tại Mỹ, hành vi quảng cáo hay

marketing cung cấp thông tin thiếu trung thực hay gây nhầm lẫn, dẫn tới thiệt hại cho
3Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, tr.72
4
Hoàng Thị Thu Trang (2011), “Quy định chung về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa
Kỳ”, Cục quản lý cạnh tranh, truy cập ngày 04/7/2018, từ cơ sở dữ liệu:
/>

người thường được gọi là là “hành vi thương mại gian dối khơng lành mạnh”5.
Trên thực tế, mỗi nước có một quy định cụ thể cho từng hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Bên cạnh những nước vừa đưa ra định nghĩa khái quát vừa đưa ra
cả những quy định từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh cụ thể, ví dụ như Nhật
Bản6. Và cũng có những nước xác định cạnh tranh không lành mạnh dựa trên cơ sở
án lệ như Pháp7. Ta có thể thấy rằng, dù cách thức quy định cạnh tranh không lành
mạnh như thế nào đi chăng nữa các nước đều thống nhất rằng, bản chất cạnh tranh
không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh không đẹp, trái pháp luật cạnh tranh và
đi ngược lại truyền thống hoặc đạo đức kinh doanh. Ngoài ra, để xác định một hành
vi là hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh cịn phải dựa vào truyền thống, đạo đức
kinh doanh được quan niệm trong từng giai đoạn phát triển khác nhau.
Theo Luật Cạnh tranh năm 2018, tại Khoản 6 Điều 3 thì hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh là “hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung
thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”.
Bên cạnh quy định khái quát về cạnh tranh khơng lành mạnh, Luật Cạnh tranh 2018
cịn liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cụ thể. Có thể khẳng định rằng,
quan niệm và cách thức ghi nhận về cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam về cơ bản là phù hợp với quan niệm và cách thức quy định của
pháp luật các nước. Tuy nhiên, Pháp luật cạnh tranh Việt Nam có phần giản lược hơn
khi chỉ đề cập đến khái niệm “chuẩn mực trong kinh doanh”, gây khó khăn cho việc
xem xét hành vi cạnh tranh không lành mạnh bởi trên thực tế, nền kinh tế thị trường

tại nước ta mới hình thành, các quan hệ kinh doanh hiện nay chưa đủ thời gian để trở
thành tập quán và được chấp nhận rộng rãi. Tầng lớp thương nhân của Việt Nam
cũng chưa đủ đơng và mạnh để có thể đặt ra những tiêu chuẩn chung thống nhất hoặc
5 Hoàng Thị Thu Trang (2011), “Quy định chung về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa
Kỳ”, Cục Quản lý cạnh tranh, truy cập ngày 04/7/2018, từ cơ sở dữ liệu:
/>6 Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công thương (2007), Luật chống độc quyền Nhật Bản và kinh nghiệm
thực thi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 256-257
7
Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr.107


chưa tìm được những hướng dẫn đóng vai trị quy tắc đạo đức cho một ngành kinh
doanh. Bên cạnh đó, do việc thừa nhận án lệ ở Việt Nam còn hạn chế dẫn đến sự khó
khăn trong việc vận dụng pháp luật của các cơ quan tài phán ở nước ta, nhất là trong
trường hợp chỉ có những quy định mang tính nguyên tắc như trường hợp về các
chuẩn mực đạo đức kinh doanh này. Các cơ quan công quyền cũng không đủ hiểu
biết thực tế để thay cho thương nhân đặt ra các quy tắc đạo đức trong một ngành kinh
doanh cụ thể. Do đó, quy định thiếu cụ thể đối với một nội dung có vai trị định vị
như vậy sẽ gây trở ngại lớn cho các hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt
Nam.
Hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng có vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của thị trường ngân hàng nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
Cũng như những chủ thể kinh doanh khác, các tổ chức tín dụng phải ganh đua, kình
địch với các nhà kinh doanh khác trên thị trường để giành cùng một loại tài nguyên
sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình, phải cạnh tranh để giành, giữ
và vươn lên trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh, các ngân hàng thương mại có
thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để giành ưu thế không cơng
bằng trên thị trường, địi hỏi những hành vi này cần phải được loại bỏ nhằm tạo lập
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia thị

trường.
Về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng cũng giống như hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh của các
doanh nghiệp khác trên thị trường. Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh có nhiều rủi ro, có ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách kinh tế vĩ mơ của
Chính phủ địi hỏi việc nhìn nhận, đánh giá đúng hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là rất quan trọng.
Trước đây, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng được hiểu là các hành vi bất hợp pháp trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Khi luật được ban hành thì thuật ngữ cạnh tranh khơng lành mạnh được sử dụng
chính thức và nhà lập pháp tiếp cận hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh dưới góc độ


là hành vi tiêu cực cần nghiêm cấm. Sự thay đổi trong cách tiếp cận hành vi cạnh
tranh không lành mạnh từ bất hợp pháp sang hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
do trước đây khi Luật Cạnh tranh chưa được ban hành, các quy định pháp luật về
cạnh tranh được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật Thương
mại, Pháp lệnh Quảng cao... Sự thay đổi trong quan niệm này là phù hợp với xu
hướng chung của các nước về nhận diện, xác định hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh nói chung và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các lĩnh vực đặc thù
nói riêng. Theo quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này của Ngân hàng Nhà nước thì
hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh
của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà thực hiện các hành vi
trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây tổn hại đến việc
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và cá nhân khác. Từ đó, có thể rút ra định nghĩa hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng như sau: Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi của các tổ chức, cá nhân có liên quan

trong hoạt động ngân hàng trái với những chuẩn mực thông thường của đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức tín dụng khác cũng như gây thiệt hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, an tồn của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Trên thực tế, để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh tức là thực hiện hành vi
nhằm mục đích khơng lành mạnh, các chủ thể kinh doanh đã “hi sinh mục tiêu lợi
nhuận” thì về bản chất các hành vi cạnh tranh khơng vì mục đích lợi nhuận vẫn được
coi là không lành mạnh. Bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những
thủ pháp, những phương thức thực hiện hành vi cạnh tranh với tính chất là khơng
cơng bằng, không lành mạnh, trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh có khả năng gây hại tới quyền lợi đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Điểm
khác biệt cơ bản giữa cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng với


các lĩnh vực khác đó là đối tượng bị hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm
là các tổ chức tín dụng, người tiêu dùng; hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng gắn liền với các dịch vụ ngân hàng mà tổ chức tín dụng được
phép cung ứng.
Như vậy, có thể thấy bản chất của cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng là hành vi của các tổ chức tín dụng phát sinh trong hoạt động ngân
hàng, trái pháp luật cạnh tranh, trái với các chuẩn mực đạo đức, tập quán kinh doanh
ngân hàng, gây thiệt hại hoặc có khả năng thiệt hại cho tổ chức tín dụng là đối thủ
cạnh tranh trên thị trường liên quan; xâm phạm quyền lợi người sử dụng dịch vụ
ngân hàng một cách khơng chính đáng thơng qua việc lạm dụng quyền quyết định
cấp tín dụng hoặc gây cản trở khách hàng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, khơng cung
cấp đầy đủ, chính xác thơng tin liên quan đến dịch vụ ngân hàng nhằm thu lợi hoặc
thu hút khách hàng về phía mình. Cạnh tranh khơng lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng là các hành vi cụ thể, đơn phương của tổ chức tín dụng nhằm mục đích cạnh
tranh, có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối thủ cạnh tranh,
làm rối loạn hoạt động bình thường của tổ chức tín dụng bị xâm phạm, từ đó gián

tiếp ảnh hưởng đến chức năng cung ứng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, môi
trường kinh doanh ngân hàng.
1.1.2.

Nhận diện các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong lĩnh vực






o



o



ngân hàng
1.1.2.1.Phát sinh trong hoạt động ngân hàng.
Đặc điểm đầu tiên để nhận diện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng chính là những hành vi này phát sinh tại các hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại. Hoạt động ngân
hàng gắn với chủ thể thực hiện hoạt động ngân hàng là các tổ chức tín dụng hoặc
ngân hàng thương mại. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hoạt động
ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp
vụ sau:



Một là nhận tiền gửi;
Hai là cấp tín dụng;
Ba là cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản;
Hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng, ngoài những đặc điểm chung của
dịch vụ như tính trừu tượng khó đánh giá chất lượng thì dịch vụ ngân hàng cịn có
những nét đặc thù riêng là địi hỏi tính chun nghiệp cao, có sự am hiểu về quy
trình, nghiệp vụ ; mức độ lệ thuộc giữa các chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng cao
hơn được thể hiện qua các mối quan hệ trên thị trường liên ngân hàng và sự tương
đồng trong quy trình, nghiệp vụ ngân hàng. Chính vì những điểm khác biệt trên nên
trong cạnh tranh, các tổ chức tín dụng có thể lạm dụng những đặc thù trong hoạt
động cung ứng dịch vụ ngân hàng và cố tình đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng
khơng tốt nhằm hạ uy tín của đối thủ cạnh tranh để lơi kéo khách hàng hoặc có thể dễ
dàng thực hiện các hành vi lừa dối khách hàng.
Chẳng hạn như trong hoạt động nhận tiền gửi, các tổ chức tín dụng nắm
được tâm lý chỉ quan tâm đến lãi suất của khách hàng nên đã thực hiện các hành vi
lôi kéo khách hàng về phía mình bằng chính sách lãi suất hấp dẫn, trái với quy định
trần lãi suất huy động của Ngân hàng Nhà nước dẫn đến nguồn tiền gửi chạy từ ngân
hàng có lãi suất thấp sang ngân hàng có chính sách lãi suất cao làm cho các ngân
hàng tn thủ quy định về lãi suất lại khơng có nguồn vốn ổn định để kinh doanh;
gian dối trong chính sách khuyến mại nhằm thu hút tiền gửi của đối thủ cạnh tranh;
gièm pha hoặc nói xấu các ngân hàng thương mại khác huy động tiền gửi không
đúng sự thật; lợi dụng chính sách của Nhà nước để đẩy lãi suất huy động lên cao...
Trong hoạt động cấp tín dụng, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu liên
quan đến việc ngân hàng thương mại áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng khi
tham gia giao dịch cấp tín dụng.
Các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong hoạt động cấp tín dụng có thể
là: Lợi dụng việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để gièm pha, nói xấu ngân
hàng thương mại khác; áp đặt các mức phí khơng chính đáng khi khách hàng muốn
được cấp tín dụng như phí thu xếp vốn, phí thẩm định tài sản, phí quản lý tài sản thế



chấp, phí tư vấn tài chính, gửi lại một phần tiền vay với lãi suất thấp, phí trả nợ trước
hạn. Trong hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh này cũng chủ yếu liên quan đến
việc gây cản trở việc sử dụng dịch vụ thanh toán giữa tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán và khách hàng và gièm pha, nói xấu hoặc cản trở khách hàng tiếp cận dịch
vụ thanh toán của đối thủ cạnh tranh.
Qua đây, ta có thể thấy rằng những biểu hiện của cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng diễn ra trên tất cả các mặt hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
của các tổ chức tín dụng chủ yếu liên quan đến hành vi cản trở việc tiếp cận dịch vụ
ngân hàng của khách hàng hoặc áp đặt điều kiện gây bất lợi cho khách hàng; gây rối
hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thơng qua các thủ đoạn nói xấu, gièm
pha về chất lượng dịch vụ ngân hàng, phản ánh không đúng về tình hình tài chính, dư
nợ tín dụng, mức độ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng của đối thủ cạnh tranh.;
lợi dụng tình trạng khơng am hiểu về quy trình, nghiệp vụ ngân hàng để lừa dối hoặc
lơi kéo khách hàng một cách khơng chính đáng từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến việc
luân chuyển nguồn vốn trên thị trường.
1.1.2.2.

Hành vi trái pháp luật

Các hành vi vi phạm cạnh tranh nói chung cũng như trong lĩnh vựa hoạt
động ngân hàng nói riêng là các hành vi cụ thể trái pháp luật cạnh tranh, pháp luật
ngân hàng, đi ngược với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh.
Để xác định một hành vi cạnh tranh trái các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh, người ta dựa vào hai căn cứ8:
Một là, các căn cứ luật định, nghĩa là các hành vi được coi là cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và như vậy,
trong trường hợp này, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được đồng nhất với hành

vi bất hợp pháp;
Hai là, các căn cứ dựa vào tập quán kinh doanh, đạo đức kinh doanh đã được
8 Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh khơng lành mạnh ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.126-127


thừa nhận trong cộng đồng kinh doanh.
Trong Luật Cạnh tranh mới nhất năm 2018 của Việt Nam, các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh bị cấm được quy định tại chương VI Điều 45. Thực tiễn giải
quyết các vụ việc cạnh tranh được giải quyết ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, khi
xác định tính khơng lành mạnh đối với hành vi cạnh tranh của các chủ thể bị điều tra
xử lý là dựa trên các quy định pháp luật. Đối với tổ chức tín dụng, khi xem xét hành
vi đạo đức trong kinh doanh cần phải làm rõ mục đích, động cơ của hành vi mới có
thể xác định được hành vi đó có phù hợp với đạo đức kinh doanh hay không. Thực tế
cho thấy, khi đứng trước những cơ hội kinh doanh, tổ chức tín dụng dễ bị tác động
của lợi nhuận, sự thôi thúc của lịng tham dẫn đến việc tổ chức tín dụng, người quản
trị, điều hành, cán bộ, nhân viên ngân hàng thực hiện hành vi trái với đạo đức kinh
doanh, xâm phạm quyền lợi của khách hàng. Bất cứ khi nào tổ chức tín dụng đi
chệch chức năng hoặc lạm dụng chức năng của mình để trục lợi một cách bất chính
gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh; gây cản trở hoặc áp đặt các điều kiện bất lợi cho
việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng một cách không công bằng, bình đẳng... thì được coi
là trái với chuẩn mực thơng thường về đạo đức kinh doanh trong hoạt động ngân
hàng.
Cần căn cứ vào động cơ, mục đích thực hiện hành vi trên cơ sở pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật ngân hàng và chuẩn mực đạo đức kinh
doanh ngân hàng để xác định tính khơng lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, xâm
phạm đến quyền lợi của đối thủ cạnh tranh.
1.1.2.3.

Ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng


Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng là đối thủ cạnh tranh
hoặc người tiêu dùng, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các chủ thể trong
đời sống xã hội. Thiệt hại ở đây như ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi
trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh
tranh trên thị trường.
Hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm vì những thơng tin khơng tốt sẽ ảnh


hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng bị hành vi cạnh tranh không lành
mạnh xâm hại. Hành vi xâm phạm đến quyền lợi của đối thủ cạnh tranh là khả năng
gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh như làm giảm lượng khách hàng, khả năng sinh
lời, uy tín trên thị trường... dẫn đến khả năng làm ảnh hưởng tới các chỉ tiêu bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng bị hành vi cạnh tranh không lành
mạnh xâm hại; người gửi tiền đồng loạt rút tiền gửi do tác động của các thủ đoạn
cạnh tranh không lành mạnh, đe dọa khả năng thanh khoản của tổ chức tín dụng bị
hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh xâm hại...
Bên cạnh đó, các hành vi của tổ chức tín dụng xâm phạm tới quyền lợi của
người tiêu dùng như như hành vi sử dụng tiền huy động vốn vào mục đích khác;
khơng thực hiện các cam kết với người gửi tiền, nhất là thực hiện các cam kết từ các
đợt khuyến mại,... Người tiêu dùng là người gửi tiền, người đi vay hay người sử
dụng các dịch vụ ngân hàng khác.
1.1.2.4.

Mức độ ảnh hưởng lớn.

So với các lĩnh vực khác, mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng bao giờ cũng lớn hơn. Lý do là hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh ẩn chứa nhiều rủi ro, ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống

tài chính tiền tệ quốc gia và tác động tới nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Tổ
chức tín dụng là một trung gian tài chính nên hoạt động ngân hàng liên quan đến
nhiều đối tượng, có ảnh hưởng với quy mơ và phạm vi rộng lớn, do đó, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng cũng có mức
độ ảnh hưởng ở phạm vi rộng lớn hơn so với những lĩnh vực khác. Mức độ độ ảnh
hưởng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng trên các
khía cạnh sau:
Một là ảnh hưởng tới chức năng cung ứng vốn cho đời sống kinh tế xã hội chức năng truyền thống và quan trọng nhất của tổ chức tín dụng trên thị trường.
Hai là suy giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, tổ chức
tín dụng do khách hàng bị áp đặt các điều kiện bất lợi hoặc gặp khó khăn trong tiếp
cận dịch vụ ngân hàng hoặc bị hiểu lầm do không được cung cấp thông tin đầy đủ


liên quan đến các dịch vụ ngân hàng, các chương trình khuyến mại...
Ba là kỷ luật, trật tự thị trường ngân hàng khơng được giữ vững và do đó
khó xây dựng được nền tảng đạo đức kinh doanh trong hoạt động ngân hàng.
Bốn là khơng khuyến khích được tổ chức tín dụng phát huy tính sáng tạo
trong việc cung ứng dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp và hiệu quả kinh tế cao.
1.2.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hành theo

pháp luật Việt Nam
1.2.1.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng

và đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng theo Pháp luật Việt Nam
1.2.1.1.


Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng bao gồm hoạt động cạnh tranh trong khuyến mại, cạnh tranh trong quảng cáo,
cạnh tranh trong xâm phạm bí mật kinh doanh và các vấn đề cạnh tranh khác như:
lạm dụng cơ chế lãi suất trong cạnh tranh, phân biệt đối xử của hiệp hội, hành vi gây
rối kinh doanh của các tổ chức tín dụng khác,...
- C ạ nh tranh trong khuy ế n m ạ i:
Hoạt động khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức tín
dụng. Trong cuộc chiến lãi suất, nhiều ngân hàng đã đưa ra các chương trình khuyến
mãi như bốc thăm trúng thưởng hoặc tặng quà nhằm thu hút người gửi tiền. Mặc dù
vậy, có nhiều những hoạt động khuyến mại có thể bị coi là cạnh tranh không lành
mạnh và bị pháp luật cấm. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
khuyến mại bị ngăn cấm được quy định tại điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018, bao
gồm:
Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng. Các tổ chức tín
dụng, các chi nhánh ngân hàng tổ chức hoạt động khuyến mại nhằm thu hút khách
hàng chú ý đến các dịch vụ của mình. Cách thức khuyến mại thơng qua việc dành
cho khách hàng những giải thưởng lớn, hấp dẫn được đưa ra dựa trên tâm lý mong
muốn có được giải thưởng của khách hàng. Tuy nhiên, thực tế khách hàng khơng có


được cơ hội nhận được những phần thưởng dùng để khuyến mại hoặc những phần
thưởng đó khơng đúng như chương trình khuyến mại đã đề ra. Ví dụ như tổ chức
khuyến mãi khơng được phép, khơng cơng khai, khơng có sự hiện diện của đại diện
Sở thương mại, tổ chức khuyến mãi mà những người trúng thưởng toàn là người nhà
của nhân viên ngân hàng. Như vậy, trong các chương trình khuyến mại này đã có sự
gian dối về giải thưởng.
Thứ hai, khuyến mại không trung thực gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để

lừa dối khách hàng. Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại
không đúng về dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai
lệch mà sử dụng dịch vụ đó. Việc khuyến mại khơng trung thực này tác động đến tâm
lý chú trọng vật chất của người dùng, khách hàng khiến họ tiêu thụ nhiều hơn dịch
vụ của ngân hàng đó. Đồng thời, việc khuyến mại sai lệch này cũng làm tác động xấu
đến đối thủ cạnh tranh. Điều này là do việc xuất hiện tâm lý so sánh các dịch vụ của
doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại với dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, thơng tin khuyến mại sai lệch cịn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích chính đáng của khách hàng nếu như họ không nắm bắt được chính xác, thực chất
của thơng tin đưa ra khuyến mại. Ví dụ như việc khuyến mại phát hành thẻ thanh
tốn miễn phí nhưng khơng giải thích rõ cho khách hàng khiến họ tưởng lầm thẻ tín
dụng.
Thứ ba, phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Ví dụ như các chi
nhánh đưa ra các mức thưởng khác nhau. Nhà làm luật đã quy định hành vi này
thuộc hành vi cấm trong Luật cạnh tranh. Trong một chương trình khuyến mại
chung, các tổ chức đã đưa ra chương trình khuyến mại nhưng khơng khách quan,
cơng bằng, phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau. Hành vi phân biệt đối xử là hành vi ưu ái khách hàng này
hơn khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì
phải dành cho họ những lợi ích như nhau.
Hay như cung ứng dịch vụ trong chương trình khuyến mại với giá rẻ hơn giá


thành với thời gian vượt quá số ngày quy định. Đây có thể là hiện tượng bán phá giá
dịch vụ, nếu kéo dài trong một thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng có ít khả năng tài chính hơn.
- Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
Quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh có thể là hành vi quảng cáo
sai sự thật về mình. Đối với một tổ chức kinh doanh thơng thường, hành vi này có

thể gây nhầm lẫn và dẫn đến hậu quả không nhỏ đối với một bộ phận khách hàng.
Tuy nhiên, hậu quả của quảng cáo sai sự thật của một tổ chức tín dụng sẽ lớn hơn
nhiều bởi lẽ số lượng khách hàng lớn hơn, phạm vi ảnh hưởng lớn hơn và cao hơn
hết là có thể dẫn đến sự mất niềm tin của khách hàng vào cả hệ thống ngân hàng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, hành vi quảng cáo sai sự thật có thể được thể hiện như tổ
chức tín dụng quảng cáo sai sự thật về khả năng tài chính, số lượng chi nhánh, mạng
lưới phục vụ, chất lượng và số lượng dịch vụ,... Quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng
lành mạnh cũng có thể là hành vi so sánh dịch vụ mình cung cấp với dịch vụ của các
tổ chức tín dụng khác theo hướng làm giảm uy tín của tổ chức tín dụng khác, gây
nhầm lẫn cho khách hàng để nhằm làm giảm lượng khách hàng của các tổ chức tín
dụng này.
Bên cạnh đó, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh còn là
việc bắt chước sản phẩm quảng cáo của một tổ chức tín dụng khác. Việc bắt chước
như vậy sẽ làm cho khách hàng nhầm lẫn về dịch vụ mình cung cấp là dịch vụ mà
khách hàng đã biết và tín nhiệm trước đó do tổ chức tín dụng khác cung cấp.
- Xâm phạm bí mậ t kinh doanh của tổ chức tín dụng:
Khoản 1 Điều 45 quy định về xâm phạm thơng tin bí mật trong kinh doanh.
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:
Một là tiếp cận, thu thập thơng tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống
lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thơng tin đó;
Hai là tiết lộ, sử dụng thơng tin bí mật trong kinh doanh mà khơng được
phép của chủ sở hữu thơng tin đó.
Theo quy định này, bí mật kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm


×