Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.81 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGÔ VIỆT BẮC

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


íf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGÔ VIỆT BẮC

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU
••

Chun ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐÌNH HUY

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS Nguyễn Đình Huy. Các tài liệu sử dụng trong Luận văn này có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn theo quy định. Kết quả nghiên cứu là do chính tơi đạt được thơng qua
q trình thực hiện đề tài. Tôi cam đoan sẽ tự chịu trách nhiệm về các tranh chấp phát sinh
về quyền tác giả đến cơng trình nghiên cứu này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGƠ VIỆT BẮC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS năm 2005

Bộ luật dân sự năm 2005 số 06/2005/ L - CTN có
hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2006

BLDS năm 2015

Bộ luật dân sự năm 2015 số 91/2015/QH 13 có
hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2017

HĐXX


Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC...........................................................................................TRANG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mang ý nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên, có thể dễ dàng nhận thấy, xác lập
hợp đồng là quan hệ xã hội mà bất cứ ai và dường như là hằng ngày, đều phải tham
gia. Hợp đồng không chỉ tồn tại trên giấy tờ với những điều khoản phức tạp mà nó
cịn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như một thỏa thuận ngoài chợ,
một thỏa thuận mua bán hàng hóa trong các cửa hàng tiện lợi,... do vậy đã có học giả

nhận định “hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ
chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trị
quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ
bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội”. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với
việc bất cứ quan hệ nào được xem là thỏa thuận giữa các bên đều được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật, với tư cách là công cụ giới hạn “sự tự do quá đáng”,
bảo vệ lợi ích của bên yếu thế, từ đó đảm bảo lợi ích chung cho xã hội, cần phải đặt
ra quy định chung cho những thỏa thuận đó. Pháp luật phải tôn trọng đúng chỗ và
giới hạn đúng chỗ đối với việc vận hành của xã hội nói chung và hợp đồng nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay yếu tố thỏa thuận trong giao kết Hợp
đồng được đề cao. Tất cả các Hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không thể
suy luận ngược lại: Mọi sự thỏa thuận của các bên đều là Hợp đồng. Chỉ được coi là
Hợp đồng những thỏa thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng
thuận đích thực giữa các bên.
Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do vậy sự ưng thuận ở đây phải là sự
ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Các Hợp đồng được giao
kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc là khơng có sự ưng
thuận đích thực. Những trường hợp có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức thì dù có sự ưng
thuận cũng khơng được coi là Hợp đồng, tức là có sự vơ hiệu của Hợp đồng. Như
vậy, một sự thỏa thuận không thể hiện ý chí thực của các bên thì khơng phát sinh các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên. Trên cơ sở đó, pháp luật cần suy xét cẩn


7

trọng về những vấn đề được thỏa thuận. Với vai trị và tầm ảnh hưởng của nó đến đời
sống, giao lưu dân sự, hợp đồng đã nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của
các chuyên gia, các nhà làm luật, đặc biệt là vấn đề hợp đồng vô hiệu. Khi một hợp
đồng vơ hiệu tức hợp đồng đó khơng có hiệu lực kể từ thời điểm hợp đồng đó xác
lập, không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Mặc dù

khi một hợp đồng nào đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện
hay đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ như thỏa thuận trong hợp đồng nhưng
nếu hợp đồng đó bị vơ hiệu thì mọi thỏa thuận đều không phải là quyền và nghĩa vụ
được pháp luật bảo hộ. Hợp đồng vô hiệu sẽ không làm phát sinh hậu quả mà các bên
mong muốn. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hồn trả cho nhau những gì đã nhận, điều này dễ gây thiệt hại cho các bên tham gia
quan hệ dân sự, gây ảnh hưởng đến sự ổn định trong giao lưu dân sự. Vì vậy, việc
tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu là một vấn đề
quan trọng và hết sức cần thiết. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng vơ hiệu được hồn
thiện và phù hợp với thực tiễn hơn thì việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong hợp
đồng, góp phần ổn định và thúc đẩy các giao lưu dân sự ngày càng phát triển.
Tuy vậy, việc xác định hợp đồng vô hiệu là một vấn đề phức tạp cả về lý luận
lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật. Trước đây Bộ luật dân sự 2005 được thơng qua
nhưng vẫn cịn lộ rõ nhiều bất cập trong vấn đề này, đến Bộ luật dân sự 2015 tuy đã
khắc phục được nhiều lỗ hổng pháp lý song vẫn chưa hồn thiện được đầy đủ, vì vậy
vẫn cịn nhiều bất cập phát sinh trong quá trình áp dụng thực tiễn. Vấn đề xác định
hợp đồng vô hiệu trong nhiều trường hợp như vô hiệu do nhầm lẫn, lừa dối, vi phạm
quy định về hình thức hay do khơng đáp ứng điều kiện năng lực hành vi chủ thể giao
kết vẫn cịn một vài thiếu sót và chưa rõ ràng, đồng thời thiếu sự hướng dẫn cụ thể,
chưa phù hợp với thực tiễn phức tạp hiện nay. Những bất cập trong các quy định về
hợp đồng vô hiệu trong Bộ luật dân sự 2015 tuy đã khắc phục được nhiều vấn đề so
với Bộ luật dân sự 2005, tuy nhiên vẫn cịn một số thiếu sót cần được nghiên cứu làm
rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện một cách triệt để.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển mở rộng ra quốc tế hiện nay, pháp luật


8

Việt Nam cũng cần có một số điều chỉnh về quy định hợp đồng vơ hiệu tương thích
với quy định của các quốc gia phát triển trên thế giới, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc

những điểm tiến bộ của pháp luật hợp đồng các nước trên thế giới giúp cho pháp luật
Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các
quốc gia trên thế giới.
Từ thực tế trên, việc chỉ ra bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn của quy định
hợp đồng vô hiệu và nghiên cứu đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này là hoạt động có tính cấp thiết trong thời điểm hiện tại. Đó cũng là lý do tác giả
đã lựa chọn đề tài “Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý” làm đề tài nghiên cứu
Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về vấn đề hợp đồng vô hiệu trong quy định của pháp luật
Việt Nam đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, chuyên gia pháp lý
dưới những góc độ khác nhau, được thể hiện qua các luận án tiến sĩ, sách chun
khảo, cơng trình nghiên cứu khoa học và nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp
chí. Về luận án tiến sĩ, thạc sĩ liên quan đến vấn đề hợp đồng vơ hiệu có đề tài
Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM;
Nguyễn Bá Đông (2013), Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vơ hiệu - thực trạng và
hướng hồn thiện, luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM. Về sách chun
khảo, cơng trình nghiên cứu có liên quan tới khía cạnh hợp đồng vơ hiệu, có quyển
Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 1,
xuất bản lần thứ bảy - NXB Hồng Đức, Hà Nội; Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ
(2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Công an Nhân Dân, Hà
Nội. Bên cạnh đó, cịn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí như: Chu Hải
Đăng (2017), Một số điểm mới trong chế định hợp đồng của BLDS năm 2015, Tạp
chí Luật sư Việt Nam, Liên Đồn Luật sư Việt Nam số 7, trang 39 - 40; Dương Anh
Sơn (2011), Quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn và vấn đề nâng
cao vai trò giải thích pháp luật của thẩm phán, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 (62),


9


trang 23-30;... Những cơng trình khoa học trên là tài liệu vơ cùng q báu giúp tác
giả có thêm được nhiều thơng tin hữu ích phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề về lý luận và thực
tiễn của quy định hiện hành về hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý.
Trên cơ sở phát huy tối đa quyền tự do thỏa thuận trong giao kết hợp đồng và
nhìn nhận vai trị, ưu điểm của quy định về hợp đồng, tiến hành đề xuất phương
hướng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng vô hiệu và
hậu quả pháp lý. Góp phần hồn thiện pháp luật hợp đồng, thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hợp đồng vô hiệu do khơng tn thủ
điều kiện hình thức theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Nghiên cứu các học thuyết về quyền tự do hợp đồng và giới hạn tự do hợp
đồng liên quan trực tiếp đến quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng và hạn chế
quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng.
Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc quy
định về vấn đề hình thức hợp đồng và nghiên cứu thực trạng quy định Việt Nam, đề
xuất các phương hướng góp phần hồn thiện pháp luật trong nước về các vấn đề của
hợp đồng và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Bao gồm các vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật Việt Nam về vấn đề hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý.


10


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở việc phân
tích thêm một số bản án của Toà án liên quan đến việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu
trên địa bàn cả nước.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, so sánh đối
chiếu các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 so với Bộ luật dân sự 2015 từ thời
điểm có hiệu lực cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, trong xuyên suốt quá trình nghiên cứu, tác giả đã
vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi Chương của đề tài tác giả đã sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp, cụ thể:
Chương 1: Kết hợp phương pháp phân tích và phương pháp so sánh, đối chiếu
các học thuyết, quan điểm lý luận của các học giả, pháp luật trong và ngoài nước về
quyền tự do hợp đồng và giới hạn tự do hợp đồng để đưa ra nguyên nhân và ý nghĩa
của quy định về hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý.
Chương 2: Phương pháp phân tích câu chữ các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Trên cơ sở so sánh, tổng hợp ưu
điểm của pháp luật Việt Nam và các nước về vấn đề hình thức hợp đồng đưa ra đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Kết cấu của đề tài
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu được đặt ra, tác giả đã có cách tiếp cận theo
“chiều dọc”. Theo đó ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung và quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu và



11

hậu quả pháp lý của hợp đồng vơ hiệu
Chương
2: hồn
Thực thiện
trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu và
kiến
nghị


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU
1.1.
1.1.1.

Hợp đồng vơ hiệu
Khái niệm hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng là một chế định pháp lý quan trọng hàng đầu trong hệ thống pháp
luật về kinh tế - dân sự. Với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu của giao dịch, hợp
đồng ngày càng khẳng định rõ vai trị của nó trong việc thúc đẩy sự phát triển của
các mối quan hệ mang tính tài sản trong sinh hoạt cũng như trong các hoạt động kinh
doanh, thương mại. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật
ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng ở nhiều quốc gia hiện
nay là việc không mấy dễ dàng. Nhiều quốc gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng”
(contractus) hình thành từ động từ “contrachere” trong tiếng La - tinh, có nghĩa là
ràng buộc và xuất hiện lần đầu ở La Mã vào khoảng thế kỷ V- IV trước Công
nguyên1.

Ở Việt Nam, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ về hợp
đồng như: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, tờ giao ước, chấp nhận... Theo Từ điển
Tiếng Việt, “hợp đồng” có nghĩa là sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên
quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia1 2.
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, pháp luật về hợp đồng đã có sự
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi ban hành BLDS năm 2015 thay thế BLDS
2005 và BLDS năm 1995. Chế định về hợp đồng đã có nhiều sự thay đổi khá toàn
diện, thể hiện rõ các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận rộng rãi trên thế giới.
Hợp đồng theo BLDS năm 2015 đó là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Quy định này có sự thay
đổi so với BLDS năm 2005 “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sư”. Nhìn chung, không chỉ là
1 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong BLDS Việt Nam”, NXB Tư pháp, tr365.
2Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXb. Khoa học xã hội, tr489.


sự thay đổi về thuật ngữ đơn thuần mà theo cách quy định như BLDS năm 2015 thì
cách hiểu về hợp đồng có sự tiến bộ đáng kể. Bởi lẽ, hợp đồng vừa thể hiện sự ngắn
gọn, súc tích vừa mang tính khái quát cao được hiểu là bao gồm tất cả các loại hợp
đồng theo nghĩa rộng (hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế, hợp
đồng chuyển giao công nghệ..chứ không chỉ là các hợp đồng dân sự theo nghĩa đơn
thuần3. Quy định này tạo nên sự thống nhất, tránh sự chồng chéo của nội dung các
văn bản và cũng thể hiện được sự bao quát của BLDS là đạo luật gốc của hệ thống
luật tư.
Vô hiệu là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý, trong
thực tiễn áp dụng và cả trong pháp luật thực định. Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế năm 1989 có đề cập đến các trường hợp “Hợp đồng kinh tế vô hiệu”, BLDS 2005
lại nhắc đến các khái niệm “Giao dịch dân sự”, “Hợp đồng dân sự vô hiệu” và đến
BLDS 2015 cũng nhắc đến thuật ngữ này. Tuy nhiên, cho đến nay các văn bản pháp
luật chưa có giải thích như thế nào là “vô hiệu”. Theo nghĩa thông thường, vô hiệu không có hiệu lực, mất tác dụng. Cịn theo Từ điển Luật học thì vơ hiệu “những văn

bản, quyết định khơng có hiệu lực pháp luật, khơng có giá trị thực thi” 4. Theo cách
hiểu này, hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng không tuân theo quy định của
pháp luật và do đó khơng làm phát sinh hậu quả pháp lý từ hợp đồng.
Ở nước ta, hợp đồng vô hiệu dưới góc độ pháp lý và phương pháp tiếp cận,
quy định về hợp đồng vô hiệu trong BLDS năm 2015 chịu ảnh hưởng bởi các triết lý
pháp lý chung cơ bản trong xây dựng BLDS đó là đảm bảo BLDS là luật của tôn
trọng, bảo vệ quyền dân sự; luật của các quan hệ thị trường và phù hợp với tập quán,
thông lệ quốc tế; bảo đảm được hai giá trị căn bản nhất của xã hội kinh tế là chủ thể
bình đẳng, tự do - tự nguyện trong quan hệ tư; nhà nước, cơ quan nhà nước khi tham
gia quan hệ bình đẳng với các chủ thể khác; hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà
nước vào các quan hệ tư. Xét về kết cấu, do bản chất pháp lý của hợp đồng chính là
hành vi pháp lý dân sự hay còn gọi là sự tuyên bố ý chí (giao dịch dân sự) và do cấu
3Chu Hải Đăng (2017), Một số điểm mới trong chế định hợp đồng của BLDS năm 2015, Báo Luật sư số
7/2017, tr.45.
4Nguyễn Hữu Quỳnh chủ biên (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội, tr.569.


trúc của BLDS cho nên bên cạnh quy định liên quan tại Phần thứ 2 “Nghĩa vụ và hợp
đồng” thì quy định chung về hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô
hiệu (Điều 116 - Điều 133, Phần thứ nhất “ Quy định chung”) cũng là những căn cứ
pháp lý cơ bản trong điều chỉnh hợp đồng, hợp đồng vô hiệu.
Trong quy định về hợp đồng vơ hiệu, BLDS và các luật khác có liên quan của
Việt Nam khơng có một giải thích cụ thể nào về “hợp đồng vô hiệu”. Tuy nhiên, qua
quy định tại Điều 407 BLDS về hợp đồng vô hiệu, Điều 122 BLDS về việc giao dịch
dân sự khơng có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của BLDS thì
vơ hiệu, trừ trường hợp BLDS có quy định khác và qua các quy định về công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền dân sự (Điều 2 BLDS năm 2015), nguyên tắc giới
hạn cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3 BLDS năm 2015), tự bảo vệ quyền dân sự
(Điều 13 BLDS năm 2015)..., đường lối giải quyết các trường hợp vơ hiệu cụ thể thì
dưới góc độ khái niệm có thể đưa ra các nhận định sau đây:

Thứ nhất, việc xem xét vô hiệu của hợp đồng gắn liền với xác định việc xác
lập hợp đồng có tn thủ hay khơng tn thủ các điều kiện có hiệu lực được luật
định5. Nếu hiểu theo nghĩa khách quan thì nó thể hiện thái độ pháp lý của nhà nước
phủ nhận hiệu lực của một hợp đồng được xác lập khi không đáp ứng một hoặc các
điều kiện mà theo luật định hợp đồng buộc phải có để bảo đảm, có nghĩa là các nhà
làm luật xem nó như chưa bao giờ tồn tại (kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai).
Theo nghĩa chủ quan, sự vô hiệu của hợp đồng không làm phát sinh hậu quả pháp lý
về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự như theo mong muốn
của các chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng5 6
Thứ hai, bằng việc quy định giao dịch dân sự khi khơng có một trong các điều
kiện có hiệu lực vơ hiệu trừ trường hợp BLDS có quy định khác. Điều đó, cho thấy
các nhà làm luật Việt Nam đã chính thức ghi nhận việc khơng tn thủ điều kiện có
hiệu lực hợp đồng có thể bị tun vơ hiệu hoặc khơng bị tun vơ hiệu. Điều đó có
nghĩa, BLDS năm 2015 đã ghi nhận một cách rõ ràng hơn về sự tồn tại của hợp đồng
5Xem Điều 117 BLDS năm 2015.
6Giáo trình quy định chung về luật dân sự Trường ĐH Luật Tp.HCM


vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối, mặc dù để nhận biết một cách đầy
đủ cũng cần phải thông báo qua các dấu hiệu pháp lý thể hiện ở các quy định giải
quyết hợp đồng vô hiệu cụ thể hoặc thông qua các lý thuyết trong khoa học pháp lý
dân sự.
Tóm lại, qua các phân tích ở trên, khi tiếp cận khái niệm về hợp đồng vơ hiệu
có nhiều cách hiểu khác nhau. Song, theo tác giả dù dưới cách hiểu nào thì mỗi quan
điểm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Trong phạm vi nghiên cứu pháp
lý, tác giả xin đưa ra một khái niệm tương đối về hợp đồng vô hiệu: “Hợp đồng vô
hiệu là hợp đồng được ký kết giữa các bên khơng có hiệu lực, khơng có giá trị pháp
lý kể từ thời điểm giao kết do hợp đồng không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Và bản chất của một hợp đồng vô hiệu chứa đựng những vi phạm pháp luật ngay từ
đầu làm cho hợp đồng không phát sinh hiệu lực pháp luật”.

1.1.2.

Đặc điểm của hợp đồng vơ hiệu

Từ khái niệm nêu trên có thể thấy một hợp đồng vơ hiệu có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu không được pháp luật thừa nhận
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên và về nguyên tắc sẽ được Nhà nước và
pháp luật tôn trọng, bảo đảm được thực hiện. Tuy nhiên không phải mọi sự thỏa
thuận đều được công nhận và bảo vệ. Pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ những thỏa
thuận không trái với quy định của pháp luật. Một hợp đồng vơ hiệu khi nó khơng
tn thủ các quy định của pháp luật, vượt ra ngoài giới hạn luật định, xâm phạm đến
các quan hệ xã hội, các lợi ích được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Vì thế, nó khơng
được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện.
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không có giá trị pháp lý, khơng
ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên.
Hợp đồng là hình thức pháp lý quan trọng thể hiện ý chí của các bên giao kết,
là nơi ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể, do đó nó là căn cứ pháp lý
quan trọng làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Hợp đồng bị vô hiệu thì khơng phát sinh hiệu lực cho nên những thỏa thuận ràng


buộc trách nhiệm giữa các bên theo đó cũng sẽ khơng có giá trị pháp lý.
Thứ ba, thời điểm xác lập sự vô hiệu của hợp đồng là thời điểm hợp đồng
được ký kết
Bản chất của hợp đồng vô hiệu là chứa đựng những khiếm khuyết, những vi
phạm pháp luật ngay từ khi hợp đồng được xác lập. Do đó, thời điểm xác định những
sự vơ hiệu được tính kể từ khi thời điểm đăng ký hợp đồng là hợp lý. Nếu xác định
tại những thời điểm sau khi hợp đồng đã được xác lập tức là pháp luật đã thừa nhận
hiệu lực của hợp đồng trước đó, thừa nhận những vi phạm pháp luật dẫn đến hợp
đồng bị vô hiệu. Như vậy, khơng bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật,

khơng bảo vệ được các lợi ích bị xâm phạm bởi một hợp đồng vô hiệu.
Thứ tư, hợp đồng vô hiệu được xem như chưa tồn tại theo luật định
' •I
(J



••
Mặc dù hợp đồng đã được giao kết và có thể đã được đưa ra thực hiện nhưng
sự tồn tại của hợp đồng lúc đó chỉ là trên thực tế. Pháp luật không công nhận những
hợp đồng này ngay cả khi các bên đã thừa nhận. Về nguyên tắc, một hợp đồng vơ
hiệu thì khơng thể thực hiện được, nếu hợp đồng đã được thực hiện thì các bên phải
hồn trả cho nhau những gì đã nhận, khơi phục lại tình trạng ban đầu như khi các bên
chưa giao kết hợp đồng.
1.1.3.

Phân loại hợp đồng vô hiệu

Như đã phân tích ở trên, một hợp đồng có hiệu lực là hợp đồng đó đáp ứng
tồn bộ các quy định tại Điều 117 BLDS (điều kiện về năng lực pháp luật, năng lực
hành vi của chủ thể tham gia xác lập giao dịch; điều kiện về tự nguyện; điều kiện về
mục đích và nội dung về hình thức). Do đó, nếu khơng có một trong các điều kiện
được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vơ hiệu, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
Khi một hợp đồng vô hiệu, tùy từng trường hợp cụ thể mà hợp đồng đó có
làm phát sinh hậu quả cho các bên hay khơng, nếu có ở mức độ nào, trách nhiệm của
các bên khi xác lập, thực hiện giao dịch đó ra sao. Chính vì vậy, việc phân loại hợp
đồng vơ hiệu có ý nghĩa trong việc nghiên cứu một cách toàn diện những nội dung cụ



thể về giao dịch mà các chủ thể đã ký kết.
1.1.3.1.

Dựa vào thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố sự vơ hiệu

Thời hiệu u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vô hiệu là thời hạn luật
định mà khi hết thời hạn đó nếu các bên khơng có u cầu Tịa án tun bố giao dịch
dân sự vơ hiệu thì giao dịch đó có hiệu lực pháp luật. Chế định về hợp đồng cũng
dựa trên quy định này để phân thành: hợp đồng bị hạn chế về thời hiệu yêu
A rp X r .

r-.

1 A /X *1

• /X *1

J. A

1 1 'X

1’1

1 A A.-IX ’-I’/X

/X

A rp X

cầu Tịa án tun bố vơ hiệu; hợp đồng khơng bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu Tòa án

tuyên bố vô hiệu.
(1) Theo Điều 132 BLDS, thời hiệu khởi kiện u cầu Tịa án tun bố giao
dịch dân sự vơ hiệu là 2 năm đối với giao dịch dân sự do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125), giao
dịch dân sự được xác lập bị nhầm lẫn (Điều 126), giao dịch dân sự được xác lập bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127), giao dịch dân sự do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128) và giao dịch dân sự khơng tuân
thủ quy định về hình thức (Điều 129). Như vậy, các trường hợp nói trên, những vi
phạm khiến cho giao dịch vô hiệu là những vi phạm không nghiêm trọng. Do đó,
pháp luật định ra một khoảng thời gian là 02 năm để các bên yêu cầu Tòa án tuyên
bố, nếu hết thời hiệu quy định nói trên mà các bên khơng u cầu Tịa án tun vơ
hiệu thì giao dịch đó có hiệu lực.
(2) Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái
đạo đức xã hội (Điều 123), giao dịch dân sự vơ hiệu do giả tạo (Điều 124) thì thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vơ hiệu là khơng bị hạn chế. Như vậy,
có thể thấy các vi phạm được quy định tại Điều 123, 124 mang tính chất nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước cũng như trật tự xã hội
cho nên bất cứ chủ thể nào, tại thời điểm nào cũng có quyền u cầu Tịa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu.
1.1.3.2.

Dựa vào phạm vi phần nội dung bị vô hiệu


Trên thực tế, phạm vi phần nội dung bị vi phạm để dẫn tới vô hiệu của các
hợp đồng là khác nhau phụ thuộc vào điều kiện nào đó trong số các điều kiện nêu tại
Khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015. Do đó, nếu căn cứ vào phạm vi nội dung vơ
hiệu thì được phân chia: hợp đồng vơ hiệu tồn bộ; hợp đồng vơ hiệu từng phần.
(1) Hợp đồng vơ hiệu tồn bộ là tồn bộ nội dung của giao dịch bị vơ hiệu,

hoặc chỉ có một phần nội dung bị vô hiệu nhưng phần này lại ảnh hưởng đến hiệu lực
của tồn bộ giao dịch.
Ví dụ: trường hợp giao dịch vơ hiệu do mục đích và nội dung vi phạm điều
cấm của luật, do giả tạo mà người xác lập giao dịch này tại thời điểm không có nhận
thức, khơng làm chủ được hành vi của mình.
(2) Hợp đồng vô hiệu từng phần là hợp đồng khi một phần nội dung của giao
dịch này bị vô hiệu nhưng khơng ảnh hưởng đến phần cịn lại của giao dịch.
Ví dụ: Ơng A sinh sống ở Quận 4, th nhà của bà B tại Quận 1 để làm văn
phòng kinh doanh. Trong điều khoản hợp đồng thuê, hai bên có thỏa thuận Tịa án
nhân dân Quận 2 là Tịa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng. Như vậy,
trong trường hợp này, điều khoản này được xem là khơng có giá trị pháp lý do khơng
tn thủ các quy định về thẩm quyền xét xử theo quy định BLTTDS năm 2015 tuy
nhiên những nội dung khác vẫn có giá trị bình thường.
1.1.3.3.

Dựa vào phương diện tố tụng

Ngun nhân dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng là sự vi phạm một hoặc một số
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 117. Tuy nhiên, dựa vào phương
diện tố tụng mà giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành giao dịch dân sự vô hiệu
đương nhiên (vô hiệu tuyệt đối) và giao dịch dân sự vơ hiệu khi có u cầu (giao
dịch vơ hiệu tương đối).
(1) Hợp đồng vô hiệu đương nhiên là hợp đồng đó có vi phạm nghiêm trọng một
hoặc một số điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Đối với những loại hợp đồng
này không áp dụng thời hiệu khởi kiện u cầu Tịa án tun bố vơ hiệu. Ví
dụ: những giao dịch mà mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,


trái đạo đức xã hội hoặc được xác lập do giả tạo;
(2) Hợp đồng vơ hiệu khi có u cầu là hợp đồng có vi phạm một hoặc một số

điều kiện có hiệu lực của giao dịch tại Điều 117. Tuy nhiên, do các vi phạm
này khơng mang tính chất nghiêm trọng, khơng ảnh hưởng đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích cơng cộng, trật tự xã hội nên các giao dịch này chỉ có thể bị
Tịa án tun bố vơ hiệu trên cơ sở có u cầu do các chủ thể có liên quan yêu
cầu.
1.1.3.4.

Các trường hợp hợp đồng vơ hiệu

Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp giao dịch vơ hiệu vì lý do khác nhau,
hậu quả pháp lý phát sinh khi giao dịch này vô hiệu cũng không giống nhau trong tất
cả các trường hợp. Do vậy, việc nhận diện các trường hợp vô hiệu là điều hết sức cần
thiết.
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu do vi phạm về điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch là “mục đích và nội dung
của giao dịch khơng vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Tuy
nhiên, quy định này mang “định tính” dễ có những cách hiểu khác nhau hoặc lạm
dụng trong giải thích pháp luật hoặc thi hành pháp luật. Để khắc phục vấn đề này, so
với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã có những nguyên tắc rõ ràng hơn để giải
thích nội hàm, phạm vi của điều cấm và trái đạo đức xã hội. Tại Điều 123 BLDS năm
2015 quy định “điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định”. Trong đó, để tránh việc lạm dụng điều cấm
trong điều chỉnh hợp đồng thuộc lĩnh vực chuyên ngành, BLDS quy định “điều cấm
của luật” thay cho “điều cấm của pháp luật” theo BLDS năm 2005. Để đảm bảo
một cách tốt nhất, cũng như sự thống nhất trong việc xác định phạm vi, mục đích quy
định, áp dụng điều cấm thì tại Khoản 2 Điều 2 BLDS năm 2015 quy định “Quyền
dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng; để tránh lạm dụng điều cấm trong bảo vệ lợi ích cơng, nhất là các



lợi ích liên quan đến nhà nước”. BLDS quy định “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình
đẳng, khơng được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử”... các luật khác có liên
quan cũng dựa trên nguyên tắc cơ bản, quy định chung này để cụ thể hóa trong các
quy định riêng biệt của mình. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại ở một số luật chuyên
ngành khác có liên quan vẫn chưa kịp đồng bộ, thống nhất với các nguyên tắc chung
của BLDS năm 2015 về các quy định về áp dụng điều cấm trong hợp đồng 7. Ngồi
ra, một số luật cịn có sự “nhầm lẫn” khi áp dụng điều cấm vào các quan hệ hợp đồng
mà đáng lẽ phải giải quyết theo nguyên tắc áp dụng cho hợp đồng vô hiệu tương đối8.
Mặc dù Điều 123 BLDS có giải thích về đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Song,
đây vẫn là điều kiện có tính chất chung chung, mang “định tính” cao. Do đó, để nhận
diện đúng, thống nhất trong tuyên bố hợp đồng vô hiệu do trái đạo đức xã hội thì vai
trị của Tịa án trong cơng tác giải thích pháp luật, xây dựng án lệ và vai trò của
Thẩm phán trong áp dụng án lệ rất quan trọng 9. Để góp phần “định lượng hóa”, có
nhận thức thống nhất hơn trong giải thích và áp dụng pháp luật, một số luật chuyên
ngành cũng đã cụ thể hóa về “đạo đức xã hội” trong các trường hợp cụ thể: Cấm lợi
dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại
đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam (Khoản 5 Điều 29 BLDS); các bên trong
hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Khoản 4 Điều 38 BLDS), cấm thực hiện
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục
đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vơ tính (điểm g Khoản 2 Điều
7 Luật Thương mại 2005 quy định “các bên có quyền tự do thỏa thuận khơng được trái với các quy định của
pháp luật” (Điều 11.1); Luật Nhà ở năm 2014 cấm “Thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển nhượng hợp
đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy
quyền quản lý nhà ở không đúng quy định của Luật này”; Bộ luật lao động năm 2012 quy định hợp đồng lao
động vơ hiệu tồn bộ khi công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động vơ hiệu tồn bộ khi công
việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm ( Điều 50.1)

8Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 tại Khoản 4 Điều 12 quy định “cấm lừa dối trong việc lập, thực hiện
hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng dịch vụ chuyển giao công nghệ, nội dung công nghệ trong hợp
đồng
9 Xem thêm Nguyễn Hồng Hải, Một số tác động tích cực của cơng tác phát triển án lệ của TANDTC trong 03
năm qua đối với thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật dân sự.


5 Luật HNGĐ năm 2014).
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu do giả tạo
Về cơ bản giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 khơng có sự khác biệt
lớn trong nhận diện và đường lối giải quyết đối với hợp đồng vơ hiệu do giả tạo, theo
đó tại Điều 124 BLDS năm 2015 quy định “khi các bên xác lập giao dịch dân sự
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả
tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của BLDS hoặc luật khác có liên quan; trường
hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì
giao dịch dân sự đó vơ hiệu”. Điểm khác biệt giữa hai quy định trên là BLDS năm
2015 quy định vơ hiệu do giả tạo mang tính hệ thống “các luật khác có liên quan”,
bao quát hơn khi thừa nhận những quy định riêng của luật khác có liên quan.
Ví dụ: Điều 70 Luật Thương mại 2005 quy định cấm thương nhân mơi giới
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa sử dụng giá giả tạo khi mơi giới cho khách
hàng; Điều 12 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 cấm giả tạo trong việc tạo lập,
thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng dịch vụ chuyển giao công
nghệ, nội dung công nghệ trong hợp đồng, hồ sơ dự án đầu tư ...
Như vậy, giao dịch giả tạo được hiểu là một giao dịch được xác lập trên cơ sở
hành vi gian dối nhằm cố tình che giấu một sự thật, một giao dịch kh ác - giao dịch
các bên thực sự mong muốn tham gia (hay còn gọi là giao dịch bị che giấu). yếu tố
giả tạo ở đây được biểu hiện thông qua dấu hiệu các bên thỏa thuận với nhau để tạo
nên sự thiếu thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của các bên xác lập giao dịch.
Hay nói cách khác, đây là những giao dịch mà các bên tự nguyện tham gia nhưng

nhằm mục đích của giao dịch được thể hiện khơng phù hợp với mục đích mà các bên
thật sự quan tâm, mong muốn đạt được. Khi các bên xác lập giao dịch giả tạo, thì
giao dịch đó vơ hiệu, cịn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch bị che giấu vô hiệu theo luật định. Khi nói đến giao dịch giả tạo, chúng ta cần
lưu ý rằng giao dịch bị che giấu phải được các bên xác lập đồng thời với giao dịch


giả tạo và việc chứng minh sự tồn tại của giao dịch bị che giấu thực tế là rất khó
khăn, đặc biệt chứng minh ý chí thực của các bên khi xác lập giao dịch mà khơng
phân biệt được hình thức thể hiện của ý chí đó. Trong trường hợp xác lập giao dịch
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vơ hiệu. Từ lý
luận và thực tiễn, có thể tổng hợp các trường hợp dẫn đến giao dịch giả tạo:
Một là, giả tạo tính chất của hợp đồng: Đây là trường hợp giao dịch giả tạo
(giao dịch che giấu) được thể hiện dưới tính chất của một loại giao dịch, nhưng giao
dịch đích thực mà các bên mong muốn tham gia (giao dịch bị che giấu) lại có tính
chất của một loại giao dịch dân sự khác;
Hai là, giả tạo sự tồn tại của một giao dịch khác: Đây là trường hợp mà trong
giao dịch đích thực các bên thỏa thuận với nhau rằng hợp đồng giả tạo coi như không
tồn tại;
Ba là, giả tạo về đối tượng của giao dịch: Đây là trường hợp giao dịch nhằm
che giấu một số nội dung nhất định liên quan đến đối tượng của giao dịch bị che
giấu;
Bốn là, giả tạo về chủ thể xác lập giao dịch: Đây là trường hợp các bên đứng
tên xác lập giao dịch dân sự giả tạo không phải là người xác lập giao dịch.
Có thể nói, mặc dù giao dịch giả tạo có thể có nhiều loại khác nhau nhưng đều
có những điểm chung, đó là sự thơng đồng, nhất trí của các bên khi xác lập hợp đồng
nhằm mục đích tạo nên sự nhận thức sai lầm của người khác đối với sự việc; tồn tại
cùng lúc hai giao dịch, tuy nhiên, những giao dịch giả tạo này cũng có những điểm
khác biệt như yếu tố giả tạo, giao dịch bị che giấu và mục đích xác lập giao dịch giả
tạo... ý chí giả tạo tồn tại ở các chủ thể là dấu hiệu đặc trưng của giao dịch giả tạo.

Thứ ba, hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện






•1



Trong trường hợp này, tại Khoản 1 Điều 125 BLDS năm 2015 quy định “Khi


giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó,
Tịa án tun bố giao dịch đó vơ hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này
phải do đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý”. Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những chủ thể khơng có hoặc có
nhưng không đầy đủ nhận thức khi thực hiện hành vi. Các hành vi mà họ thực hiện
nếu khơng có sự giám sát, quản lý của người đại diện có thể gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích cho chính bản thân họ và những người xung quanh. Đặc biệt, việc
họ tự xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự mà khơng có sự đồng ý của người đại
diện có thể dẫn đến những thiệt hại cho chính họ hoặc người đại diện. Vì vậy, quy
định liên quan đến việc tuyên bố giao dịch dân sự mà những chủ thể này xác lập,
thực hiện là cần thiết. Có thể thấy rằng giao dịch dân sự do các chủ thể này xác lập,

thực hiện mà khơng có sự đồng ý của người đại diện là giao dịch được xác lập mà vi
phạm điều kiện về năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều
117 BLDS này. Song, giao dịch đó khơng mặc nhiên vơ hiệu mà nó chỉ vơ hiệu khi
đảm bảo có các điều kiện:
(1) Giao dịch đó phải do người đại diện xác lập, thực hiện hoặc đồng ý;
(2) Phải có yêu cầu của người đại diện đề nghị Tòa án tuyên bố vô hiệu;
(3) Yêu cầu tuyên bố vô hiệu được thực hiện trong thời hiệu 02 năm theo quy
định tại Điểm a Khoản 1 Điều 132 Bộ luật này.
Một trong những điểm mới của BLDS năm 2015 đó là quy định những giao
dịch do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện sẽ không vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người đó. Ví dụ: những nhu


cầu: ăn, uống, ở, mặc, học tập. đây là những nhu cầu mà họ thực hiện “cần” và có thể
tự mình xác lập, có giá trị nhỏ;
(2) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người
được đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.
Quy định này của BLDS năm 2015 là quy định hoàn toàn mới. Theo Điều 21,
22, 130 BLDS năm 2005, cá nhân dưới sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
sẽ không được xác lập bất cứ giao dịch nào, mọi giao dịch của những người này đều
phải do người đại diện xác lập và thực hiện mà khơng có ngoại lệ nào, dẫn đến một
tình trạng bất hợp lý, đó là ngay cả những giao dịch chỉ có mục đích mang lại quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, họ cũng khơng được tham gia. Tuy nhiên, quy định mới
này còn bất cập một số vấn đề về cách diễn giải “giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh
quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên... với người đã xác lập,

thực hiện giao dịch với họ”, liên từ “với” trong một câu khiến cho nội dung của điểm
b Khoản 2 Điều 125 BLDS năm 2015 chưa thực sự rõ ràng và qua cách diễn đạt đó
có 2 cách hiểu như sau:
(i) .Điều luật muốn nhấn mạnh rằng để có hiệu lực thì mục đích của giao dịch
phải nhằm xác lập quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi và giao dịch đó chỉ có hiệu lực với những người đã trực tiếp xác
lập, thực hiện với người này, mà không có liên quan đến người thứ ba.
(ii) Để được cơng nhận giá trị hiệu lực của giao dịch đó phải đồng thời xác lập
quyền, miễn nghĩa vụ cho cả người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà xác lập
quyền, miễn nghĩa vụ cho cả chủ thể tham gia vào giao dịch với họ.
(iii)

Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau

khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.


Theo quy định này, những giao dịch do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thể
có hiệu lực nếu khi người xác lập hồn thiện năng lực chủ thể, khôi phục năng lực
hành vi của mình. Một câu hỏi đặt ra: trong thời gian người xác lập chưa có năng lực
hoặc chưa được khơi phục năng lực, thì người giám hộ, người đại diện, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan có thể yêu cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu,
nếu người đại diện được phép yêu cầu và giao dịch này bị tuyên vô hiệu, vậy khi chủ
thể xác lập giao dịch đã thành niên hoặc khôi phục năng lực hành vi mà muốn thừa
nhận thì giao dịch đó có phát sinh hiệu lực trên thực tế nữa hay không. Nếu khơng thì
quy định này sẽ trở thành thừa, bởi lẽ đâu biết khi nào người mất năng lực hành vi
mới khôi phục lại năng lực, chủ thể xác lập giao dịch dân sự với họ phải chờ đến khi

nào.
Hơn nữa, về đường lối giải quyết, BLDS năm 2005 tiếp cận vấn đề theo
hướng “chỉ cần người đại diện có u cầu thì Tịa án sẽ tun bố hợp đồng vơ hiệu”
mà khơng có bất kỳ ngoại lệ nào trên phương tiện lợi ích và ý chí của người được đại
diện (chủ thể được xác lập hợp đồng trên thực tế). Điều đó có nghĩa là các nhà làm
luật chỉ bảo vệ người đại diện mà không bảo vệ người được đại diện và điều đó vơ
hình chung đã làm “biến tướng” trường hợp vô hiệu này thành tương đối với người
đại diện và tuyệt đối với người được đại diện - chủ thể xác lập hợp đồng trên thực tế
(vơ hiệu mặc nhiên, khơng phụ thuộc vào ý chí và lợi ích chính đáng của họ phụ
thuộc vào yêu cầu của người đại diện) 10. Ngược lại với cách tiếp cận này, BLDS năm
2015 giải quyết trường hợp vô hiệu này trên cơ sở bảo vệ người được đại diện, tơn
trọng lợi ích tư, ý chí của họ. Theo đó, khi người đại diện có yêu cầu tuyên bố vơ
hiệu hợp đồng thì Tịa án sẽ xem xét và có thể cơng nhận hợp đồng có hiệu lực nếu
hợp đồng đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người chưa đủ 06 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc hợp đồng chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ
miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thực, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành
10 Đỗ văn Đại, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, tr 357.


×