Tải bản đầy đủ (.docx) (146 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong thương mại (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.81 KB, 146 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
--------------------

ĐOÀN THỊ KIM CƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
•••
ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ
••
ĐƯỢC HƯỞNG TRONG THƯƠNG MẠI
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

-----------ĐOÀN THỊ KIM CƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
•••
ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ
••
ĐƯỢC HƯỞNG TRONG THƯƠNG MẠI
••


Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••
GVHD: PGS.TS BÀNH QUỐC TUẤN


TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


5

LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ này, tôi đã nghiên cứu dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bành Quốc Tuấn và có tham khảo một số tài liệu
liên quan.
Tôi xin cam đoan đề tài này là do chính tơi thực hiện, đảm bảo tính trung thực
và tuân thủ các quy định về trích dẫn, có chú thích những thơng tin tài liệu tham
khảo. Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
rp L -

-•2

Tác giả

Đồn Thị Kim Cương


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Chữ viết
tắt

Tiếng Anh

CISG

United Nations Convention on
Contracts for the International
Sale of Goods

Tiếng Việt
Công ước của Liên hợp quốc
1980 về hợp đồng mua bán
hàng
hóa quốc tế

BLDS

Bộ luật Dân sự

LTM

Luật Thương mại

PECL

PICC


Principles of European
Contract
Law
Principles of International
Commercial Contracts

Nguyên tắc luật hợp đồng
chung
châu Âu
Bộ nguyên tắc UNIDROIT về
hợp đồng thương mại quốc tế


MỤC LỤC
••
1.3....................................................................................................................
1.3.1
Sự cần thiết và định hướng hồn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................
PHỤ LỤC....................................................................................................................


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động sản xuất kinh doanh
thương mại từ đó cũng phát triển mạnh mẽ ở mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói

chung. Sự phát triển tất yếu này đặt ra nhu cầu về việc pháp luật các quốc gia phải
hoàn thiện quy định điều chỉnh về lĩnh vực thương mại, đặc biệt là về hợp đồng
thương mại, một hình thức pháp lý cao nhất của các giao dịch thương mại được xác
lập. Sự thỏa thuận trong hợp đồng thương mại suy cho cùng là để cân bằng lợi ích và
chia sẽ rủi ro giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Thế nhưng, lợi ích ln có nguy
cơ bị đe dọa bởi hành vi vi phạm hợp đồng, vì vậy mà trách nhiệm pháp lý phát sinh
do vi phạm hợp đồng là một vấn đề cần được quan tâm để bảo vệ quyền và lợi ích
cho bên bị vi phạm.
Trong số các chế tài do vi phạm hợp đồng được đặt ra vì mục đích điều chỉnh,
ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm thì chế tài được áp dụng nhiều nhất phải kể đến
là buộc bồi thường thiệt hại, bởi chức năng của bồi thường thiệt hại là bù đắp những
tổn thất của bên bị vi phạm do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Nhưng thực tế cho
thấy, vẫn còn nhiều bất cập trong quy định pháp luật và việc áp dụng đối với chế tài
buộc bồi thường thiệt hại này. Đặc biệt, đối với trường hợp thiệt hại là khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ được hưởng (loss of profit) thì cơ quan tài phán lẫn các bên trong quan
hệ hợp đồng cịn gặp rất nhiều khó khăn cả trong việc xác định thiệt hại, chứng minh
thiệt hại lẫn việc thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng để đưa ra phán quyết.
Thiết nghĩ, để giải quyết vấn đề này, cơ quan tài phán lẫn các bên trong quan
hệ hợp đồng cần nắm rõ quy định pháp luật trong nước đồng thời cũng cần tham
khảo quy định pháp luật quốc tế về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng trong thương mại. Trong những nỗ lực đáng kể nhằm tạo hành
lang pháp lý vững chắc cho hoạt động thương mại, Việt Nam ngoài việc hoàn thiện
pháp luật thương mại trong nước cũng đã tích cực tham gia các điều ước quốc tế
song phương và đa phương về thương mại, đáng chú ý là sự kiện Việt Nam gia nhập
WTO và Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp


9

quốc (“CISG”). Việc nghiên cứu các quy định quốc tế về bồi thường thiệt hại nói

chung và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng nói
riêng trong thương mại nhằm mục đích hồn thiện pháp luật quốc gia cũng nhận
được sự quan tâm của các học giả, nhà nghiên cứu trong nước, nhưng với số lượng
bài nghiên cứu cịn khá hạn chế.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả đã lựa
chọn thực hiện đề tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng trong thương mại” làm đề tài luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại với tính chất quan trọng của nó
đã được rất nhiều học giả, luật gia, các nhà kinh tế và đông đảo sinh viên nghiên cứu.
Tuy nhiên, đối với nội dung cụ thể là pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản
lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng thì chưa được nhiều học giả nghiên cứu. Một số
cơng trình nghiên cứu, bài báo khoa học liên quan đến đề tài mà tác giả tìm hiểu
được:
2.1.

Việt Nam

Các tác giả Nguyễn Thế Đức Tâm, Phạm Ánh Dương có bài phân tích về
“Bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo công ước Viên 1980” đăng trên tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Số 4 (360), tr. 2734. Bài viết đã nghiên cứu về các quy định của Công ước viên 1980 đối với bồi
thường khoản lợi bị bỏ lỡ, cụ thể là nêu ra khái niệm, vấn đề chứng minh trong thực
tiễn tài phán, từ đó đưa ra một số kiến nghị cho cơ quan tài pháp Việt Nam khi áp
dụng Công ước viên 1980 liên quan đến bồi thường khoản lợi bị bỏ lỡ.
Các tác giả Trần Việt Dũng và Phạm Thị Hiền cũng có bài phân tích về “Bồi
thường thiệt hại phát sinh trong tương lai theo quy định của Công ước Viên 1980”,
được đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Số 2 (358), tr. 69-76. Bài viết phân tích các khía cạnh pháp lý về thiệt hại phát
sinh trong tương lai theo quy định của Công ước Viên 1980.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các bài viết trên chỉ là khoản lợi bị bỏ lỡ



10

hoặc thiệt hại phát sinh trong tương lai theo Công ước viên 1980 chứ không đi sâu
nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và của các tổ chức quốc tế khác.
Ngoài ra, tác giải cũng lựa chọn nghiên cứu một số sách của các tác giả Lê
Văn Tranh, như cuốn Chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo Luật Thương
mại Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2017 và Luận giải về chế tài phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà
Nội năm 2018, và các giáo trình của các trường đại học, như Giáo trình Luật
Thương mại Việt Nam - Tập II, NXB Tư pháp, Hà Nội của Trường đại học Luật Hà
Nội; Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, NXB Hồng Đức - Hội
luật gia Việt Nam của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Giáo trình
Luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí
Minh của Trường Đại học Kinh tế - Luật. Các sách và giáo trình cũng có những trình
bày khái qt về chế tài buộc bồi thường thiệt hại, có liên hệ với pháp luật của các
quốc gia và tổ chức quốc tế thế giới về vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về
bồi thường đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng chỉ được nhắc đến một
cách khái quát nhất như là một trong những thiệt hại được xem xét bồi thường khi
xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
2.2.

Nước ngoài

Trong số các nghiên cứu của các học giả nước ngồi mà tác giả tham khảo có
liên quan đến vấn đề quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong thương mại, có
thể kể đến cơng trình nghiên cứu của John Y. Gotanda về cuốn sách Damages in Lieu
of Performance Because of Breach of Contract, Villanova University School of Law
Public Law and Legal Theory, Working Paper No.2006-8. Nghiên cứu đã chỉ ra một

cách tổng quan về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, và đặc biệt đã có xem
xét khá tồn diện quy định pháp luật của các quốc gia và hệ thống pháp luật trên thế
giới về vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Tác giả Charles Calleros (2006), Punitive damages, liquidated damages and
Clauses Penale in contract actions: A comparative analysis of the American
common law and the French Code Civil, Brook. J. Int’l L. Vol 32. Cơng trình nghiên


11

cứu đã có những so sánh quy định pháp luật về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
ấn định trước tại Mỹ và Luật dân sự Pháp, cũng như rút ra một số bài học từ việc so
sánh trên.
Ở mỗi nghiên cứu đều có những khía cạnh riêng và những đóng góp nhất định
và là nguồn tham khảo quan trọng cho đề tài của tác giả. Mong rằng với những nội
dung nghiên cứu đúc kết được, tác giả có thể góp một phần nhỏ vào hệ thống các
nghiên cứu đã có, bổ sung và hồn thiện hơn, đặc biệt là có thể chỉ ra một cách khái
quát về quy định pháp luật thế giới về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi
đáng lẽ được hưởng trong mối tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam, chỉ ra
một số bất cập tồn tại và phương hướng điều chỉnh.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này nhằm mục đích đưa ra cơ sở lý luận một cách tổng quan và rõ ràng
đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu các tình huống từ thực tiễn để chỉ ra những bất
cập và nêu lên ý kiến đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật và áp dụng pháp
luật đối với chế tài bồi thường thiệt hại nói chung và phạm vi bồi thường đối với
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng nói riêng. Đó cũng chính là mục tiêu tổng
quát của đề tài. Nhằm thực hiện mục tiêu chung này, các mục tiêu cụ thể cần đạt
được:
i) Tổng quan pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
và bồi thường đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng;

ii) Phân tích quy định pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng pháp luật khi
yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng;
iii) Đưa ra ý kiến đóng góp để hồn thiện quy định và hướng áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, cụ thể là khái niệm khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng, nguyên tắc áp dụng và căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường


12

đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, cách xác định và yêu cầu chứng
minh thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung vào nghiên cứu pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng mà khơng nói đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Đồng thời, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng ở đây chỉ nói đến hợp đồng
thương mại chứ khơng nói hết hợp đồng dân sự nói chung. Ngoài ra, đề tài cũng giới
hạn trong nội dung bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được
hưởng chứ không nghiên cứu tất cả phạm vi bồi thường của chế tài bồi thường thiệt
hại cũng như không nghiên cứu tất cả các chế tài trong thương mại.

Việc nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
trong thương mại. Đồng thời có nghiên cứu các quy định của các quốc gia trên thế
giới và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là quy định của Công ước viên 1980 và Bộ
nguyên tắc UNIDROIT về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng trong mối tương quan so sáng với pháp luật Việt Nam nhằm rút ra điểm
khác biệt, tiến bộ và bài học kinh nghiệm. Một số tình huống được phân tích trong đề
tài được lựa chọn từ các bản án của các Tòa án Việt Nam áp dụng Luật Thương mại
Việt Nam và các án lệ cơ quan tài phán của các quốc gia trên thế giới mà áp dụng
Công ước viên 1980.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả kết hợp những phương pháp cụ thể là:
Phương pháp lịch sử: được áp dụng nhằm hệ thống các quy định pháp luật
liên quan qua các thời kỳ, đồng thời làm rõ những điểm mới tiến bộ hoặc bất cập của
quy định sau so với quy định trước.
Phương pháp so sánh: được áp dụng nhằm so sánh tìm ra điểm giống và khác
giữa các quy định pháp luật trong nước với nhau (ví dụ LTM 2005 với BLDS 2015);
và quy định pháp luật giữa các nhóm quốc gia, hệ thống pháp luật; giữa các công ước


13

và các bộ nguyên tắc về hợp đồng của các tổ chức quốc tế.
Phương pháp phân tích: được áp dụng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề khái
niệm, đặc điểm, bản chất, vai trò và ý nghĩa của đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra,
phương pháp này cũng được áp dụng khi phân tích thực trạng cũng như khi đề xuất
giải pháp.
Phương pháp tổng hợp: được áp dụng nhằm đúc kết lại nội dung nghiên cứu,
đưa ra quan điểm khái quát, tồn diện và đề xuất giải pháp.
Thơng qua việc phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, đề tài

khóa luận mong rằng bảo đảm được tính kế thừa, tính tồn diện và tính ứng dụng
cao.
6. Bố cục của luận văn
Đề tài khóa luận gồm phần mở đầu và hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng trong thương mại

Chươngthương
thiệt
hại
2: đối
Thực
với
trạng
khoản
pháp
lợi
luật
trực
điều
tiếp
chỉnh
đáng
vấn
lẽ
đề bồi
được
hưởng
thường
trong

mại

giải
pháp
góp
phần
hồn
thiện
pháp
luật


CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN
LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƯỢC HƯỞNG TRONG THƯƠNG MẠI
1.1Khái niệm, đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong thương mại
1.1.1

Khái niệm bồi thường thiệt hại trong thương mại

Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống
trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, khơng thể vì lợi ích của
mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải
chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc
bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Như vậy, có thể
hiểu: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó
thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác
phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.1
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân

thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Cơ sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ
rất khác nhau, nên việc xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp
dụng pháp luật một cách đúng đắn.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà
theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận theo hợp đồng gây ra thiệt
hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây
ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh
trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
1Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr 147.


đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Xét về quá trình hình thành và bản chất của hợp đồng thương mại, từ khi xã
hội bắt đầu có sự phân cơng lao động, của cải bắt đầu dư thừa và xuất hiện hình thức
trao đổi hàng hóa tạo tiền đề cho sự ra đời của hợp đồng. Theo tiến trình phát triển
tất yếu của giao lưu hàng hóa, hợp đồng và quy chế pháp lý của nó hình thành và
phát triển ngày càng hồn thiện, giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các
quan hệ tài sản. Hợp đồng là sự khái qt một cách tồn diện các hình thức giao lưu
dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Hợp đồng dù thể hiện dưới hình thức nào, bởi ngơn ngữ nào cũng thể hiện bản
chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi
và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý. 2 Hợp đồng dân sự là một khái niệm chỉ
hình thức pháp lý trong quan hệ dân sự nói chung, trong đó chủ thể hợp đồng có thể

là các cá nhân hoặc tổ chức có thể có hoặc khơng có tư cách pháp nhân, có mục đích
sinh lợi hoặc khơng có mục đích sinh lợi. Hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể
của hợp đồng dân sự. Do đó, hợp đồng thương mại đều là những giao dịch có bản
chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các bên, cùng
hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung khi tham gia giao kết hợp đồng.
Trong lĩnh vực thương mại, khi một bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng
thương mại có thể phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Bồi thường thiệt hại trong thương
mại là một loại trách nhiệm pháp lý được pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế
giới quy định, là trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu
hậu quả bất lợi về vật chất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra.
1.1.2

Đặc điểm bồi thường thiệt hại trong thương mại

1.1.2.1.

Chủ thể áp dụng trong bồi thường thiệt hại

Khác với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ thể áp dụng trong bồi
thường thiệt hại trong quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói
2Nguyễn Viết Tý & Nguyễn Thị Dung (biên soạn, 2017), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam - Tập II, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr. 09.


riêng chỉ có thể là các bên trong quan hệ hợp đồng. Cụ thể, khi xảy ra hành vi vi
phạm hợp đồng, bên có hành vi vi phạm gọi là bên vi phạm, bên có thiệt hại do hành
vi vi phạm của bên vi phạm gây ra gọi là bên bị vi phạm. Bên bị vi phạm có quyền
chọn áp dụng hoặc không áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Đây là một quyền tự
định đoạt. Trong khi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các bên liên quan có thể là
bên yêu cầu áp dụng bồi thường thiệt hại hoặc bị áp dụng bồi thường thiệt hại. Chẳng

hạn, chủ sở hữu của nguồn nguy hiểm cao độ là bên phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cũng như người đại diện theo pháp luật, người giám
hộ của người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại thay cho người họ đại diện hoặc giám hộ.
1.1.2.2.

Chức năng của bồi thường thiệt hại

Chức năng của bồi thường thiệt hại có thể khơng giống nhau theo quy định
của từng hệ thống pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung chức năng quan trọng
được nhiều hệ thống pháp luật và học giả công nhận là bồi thường thiệt hại với tư
cách là chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi
phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên
bị vi phạm.

3

Đặc biệt, theo hệ thống Common Law thì quan điểm này khá thống

nhất và rõ ràng rằng, mục đích của những thiệt hại đó khơng phải là để trừng phạt
bên vi phạm, mà là để đặt bên chịu thiệt hại trong vị thế tương tự như khi hợp đồng
được thực hiện, tức bù đắp thiệt hại bằng một khoản tính tốn được bằng 4
tiền.4
Về mặt lý thuyết, bồi thường thiệt hại là làm cho hành vi vi phạm hợp đồng
của bên kia trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm. Sự trừng phạt
không nên và không thể được coi là một chức năng của bồi thường thiệt hại vì sự cần
thiết phân biệt giữa nó với chế tài phạt vi phạm cũng như để hạn chế một số tiêu cực
mà chế tài bồi thường thiệt hại với ý nghĩa trừng phạt mang lại. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với các hệ thống pháp luật có cơng nhận chế tài phạt vi phạm
3Phan Huy Hồng (2014), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nhà xuất bản Hồng Đức

- Hội luật gia Việt Nam, tr 428.
4John Y. Gotanda (2006), Damages in Lieu of Performance Because of Breach of Contract, Villanova
University School of Law Public Law and Legal Theory, Working Paper No.2006-8, tr 5.


như là một chế tài độc lập so với bồi thường thiệt hại như Việt Nam, thì mục đích
trừng phạt (nếu cần) đã được thể hiện trong phạt vi phạm. Do đó, khơng nên để bồi
thường thiệt hại cũng mang yếu tố trừng phạt này.
Thứ hai, nếu các bên ấn định trước mức bồi thường thiệt hại khi chưa phát
sinh thiệt hại, mức ấn định trước đó có thể quá cao hoặc quá thấp so với thiệt hại
thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu. Điều này dẫn đến việc khơng đảm bảo tính
cơng bằng và hiệu quả kinh tế trong hoạt động thương mại, đặc biệt khi vị thế của
các chủ thể trong quan hệ hợp đồng không được cân xứng và bên yếu thế sẽ khó
được bảo vệ.
1.1.2.3.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nội dung quan trọng khi
xác định có hay khơng nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố theo quy định. Tùy từng quốc gia hay tổ chức
quốc tế mà quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể
khơng giống nhau. Chẳng hạn, quy định tại một số các nước theo hệ thống Civil Law
thường quy định yếu tố lỗi là một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, trong khi hầu hết quy định của các nước khác
thì khơng, pháp luật Việt Nam thì có vẻ khơng thống nhất giữa các văn bản quy phạm
pháp luật khi quy định về vấn đề này. Nhìn chung một số căn cứ phổ biến làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mà hầu hết các nguồn
luật đều thừa nhận có thể kể đến, bao gồm:
Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng

Có hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cần để bên bị vi phạm có thể yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Điều kiện tiên quyết này có thể nói là được ghi nhận hoặc
thừa nhận ở hầu hết các nguồn luật trên thế giới khi quy định về nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Đồng thời, hành vi vi phạm ở đây khơng phân biệt vi phạm nghĩa vụ chính
hay phụ, cơ bản hay không cơ bản. Chẳng hạn, LTM 2005 quy định tại Điều 3.12 “Vi
phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật


này”. Như vậy, vi phạm hợp đồng có thể thể hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động. Hành vi vi phạm hợp đồng dưới dạng hành động có thể là hành vi của
một bên tuy có thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng thực hiện khơng đúng thời gian,
khơng đầy đủ hoặc không đúng nội dung. Chẳng hạn hành vi giao hàng không đúng
chất lượng, không đúng thời hạn, địa điểm v.v... Trong khi đó, hành vi vi phạm hợp
đồng dưới dạng khơng hành động có thể là việc một bên bỏ mặc, khơng thực hiện
nghĩa vụ của mình như thỏa thuận. Chẳng hạn bên bán không giao hàng, khơng cung
cấp dịch vụ hoặc bên mua khơng thanh tốn tiền v.v.5
Nếu như về nội hàm khái niệm hành vi vi phạm hợp đồng như trên nhìn
chung có sự thống nhất giữa các quy định thì vấn đề thời hạn xảy ra vi phạm vẫn còn
nhiều tranh cãi về quan điểm cũng như sự khác biệt trong quy định pháp luật các
quốc gia. Vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, hay vi phạm
hợp đồng trước thời hạn (anticipatory breach) là: trước khi đến hạn thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng theo thỏa thuận, nếu bên có quyền biết được rằng nghĩa vụ sẽ
khơng được thực hiện hoặc có căn cứ để nghi ngờ rằng, nghĩa vụ sẽ khơng thể thực
hiện, thì có thể thực hiện ngay các quyền hoặc một số quyền mà thông thường chỉ
được dành cho các trường hợp nghĩa vụ đã không được thực hiện trên thực tế. 6 Trong
khi loại vi phạm này đã được pháp luật nhiều quốc gia điều chỉnh như Anh, Mỹ và
các nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law cũng như được quy định khá cụ thể
tại CISC thì pháp luật Việt Nam, đặc biệt là LTM 2005 khơng có quy định một cách

trực tiếp. Theo quan điểm của một số học giả, trong trường hợp vi phạm hợp đồng
trước thời hạn dẫn đến hủy bỏ hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại và ngược lại, nếu hợp đồng vẫn tiếp tục thì bên bị vi phạm khơng
được yêu cầu bồi thường thiệt hại. 7
Thứ hai, có thiệt hại xảy ra
Nếu như có hành vi vi phạm là điều kiện cần thì có thiệt hại là một trong
5Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại Việt Nam ,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, Tr 161-162.
6Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ & Dương Anh Sơn (2011), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc
tế, NXB Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 102-104.
7Djakhongir Saidov (2008), The Law of Damages in International Sales: The CISG and other International
Instruments, Hart Publishing, pp 24-25.


những điều kiện đủ để có thể áp dụng bồi thường thiệt hại. Theo đó, có hành vi vi
phạm nhưng khơng có thiệt hại thì khơng phải chịu bồi thường thiệt hại, bởi thiệt hại
không phải luôn luôn tồn tại khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Điều kiện này đươc
ghi nhận trong pháp luật hầu hết các quốc gia cũng như các văn bản pháp luật quốc
tế, trên tinh thần: có thiệt hại thì mới có bồi thường.
Tính thực tế hay tính tồn tại của thiệt hại nghĩa là thiệt hại đã xảy ra hoặc rõ
ràng, chắn chắn là xảy ra khơng phải thiệt hại dự đốn hay thiếu tính xác thực.
Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại
Giả sử xác định có hành vi vi phạm hợp đồng và có thiệt hại xảy ra thì cũng
chưa thể khẳng định có hay khơng trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà địi hỏi phải
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra đó. Một thiệt hại
có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, vì vậy để xác định bên vi phạm có phải chịu
trách nhiệm cho thiệt hại đó hay khơng cần chứng minh được thiệt hại là hậu quả
trực tiếp của hành vi vi phạm mà không phải do nguyên nhân khác. Cũng do đó, thiệt
hại phải xảy ra sau hành vi vi phạm về mặt thời gian, khơng thể có hậu quả xảy ra
trước nguyên nhân.

Như vậy, để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thương mại thì
phải đáp ứng đồng thời các điều kiện là có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, có
thiệt hại xảy ra là nguyên nhân trực tiếp của hành vi vi phạm đó.
1.1.2.4.

Phạm vi bồi thường thiệt hại

Về loại tổn thất được bồi thường mà hầu hết các nguồn luật đều ghi nhận khi
xác định thiệt hại là tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được
hưởng.
Thứ nhất, tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu
Luật Thương mại Việt Nam không có điều khoản giải thích cụ thể về tổn thất
này. Tuy nhiên, thông qua thực tế áp dụng và quy định của các quốc gia và văn bản
quốc tế, có thể hiểu tổn thất thực tế, trực tiếp là sự sụt giảm về tài sản hay về vật chất
mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, bao gồm: 8
8Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ & Dương Anh Sơn (2011), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc
tế, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 89-90.


1) Hàng hóa bị mất mát hay bị hư hỏng.
2) Thiệt hại phát sinh bao gồm các chi phí mà bênh bị vi phạm phải bỏ ra để hạn
chế, khắc phục tổn thất mà lẽ ra chi phí này khơng phát sinh nếu khơng có
hành vi vi phạm, Chẳng hạn, bên bị vi phạm phải mất chi phí lưu kho, phải
tìm đối tác khác để mua hàng do bên vi phạm không nhận hàng v.v...
3) Thiệt hại từ khoản tiền chịu phạt hoặc bồi thường/ đền bù mà bên bị vi phạm
phải chi trả cho bên thứ ba (đối tác) do vi phạm nghĩa vụ, mà việc vi phạm đó
là hậu quả từ hành vi vi phạm của bên vi phạm.
Trong đó, tính “thực tế” nghĩa là thiệt hại đã xảy ra và tính “trực tiếp” nghĩa là
thiệt hại phát sinh trực tiếp từ hành vi vi phạm của bên vi phạm.9
Thứ hai, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu

khơng có hành vi vi phạm
Là một giá trị tăng thêm, hay khoản lợi đáng lẽ bên bị vi phạm có được trong
điều kiện bình thường, nếu khơng có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. 10
Ngoài ra, đối với phạm vi thiệt hại được bồi thường khi có hành vi vi phạm
hợp đồng, một số nguồn pháp luật về thương mại cho thấy có những quy định chi tiết
hơn và phạm vi bồi thường rộng hơn. Chẳng hạn, bồi thường đối với thiệt hại là tổn
thất tinh thần theo quy định của PICC và PECL. Điều này là khá hợp lý trong một số
trường hợp mà đối tượng của hợp đồng bị vi phạm có liên quan trực tiếp đến giá trị
tinh thần. Chẳng hạn, hợp đồng với các ca sĩ nổi tiếng, cầu thủ bóng đá hay các vận
động viên thể thao khác.
1.1.2.5.

Nguyên tắc trong bồi thường thiệt hại

Luật Thương mại Việt Nam khơng có điều khoản cụ thể ghi nhận về nguyên
tắc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, thơng qua các điều khoản riêng biệt của nó như
Điều 305 LTM 2005 kết hợp CISG tại Điều 74 và 77 đã chỉ ra một số nguyên tắc nền
tảng, bao gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại
Nguyên tắc này có thể là dựa trên mục đích của bồi thường thiệt hại là bù đắp
9Phan Huy Hồng (2014), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nhà xuất bản Hồng Đức
- Hội luật gia Việt Nam, tr 434.
10
Xem cụ thể trang 16.


tổn thất, để lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại có thể trở về vị trí mà lẽ ra họ đã đạt
được nếu khơng có hành vi vi phạm. Do đó, để khơi phục lại giá trị vật chất lẽ ra bên
bị vi phạm đạt được nếu nghĩa vụ được thực hiện thì phải bồi thường tồn bộ thiệt
hại.

Đồng thời, sự đền bù này không được vượt quá phạm vi cần thiết để khắc
phục tổn thất, tức bên bị vi phạm không thể được lợi hơn do việc bồi thường thiệt
hại. Cụ thể, như đã đề cấp về PICC tại Điều 7.2.2 mục 1 đã quy định việc tính đến
mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được với
mục đích làm cho việc bồi thường thiệt hại không được làm lợi cho bên có quyền.
Thứ hai, ngun tắc khơng bồi thường đối với các thiệt hại có thể hạn chế
được
Xuất phát từ nguyên tắc thiện chí, trung thực trong quan hệ hợp đồng thương
mại, pháp luật hầu hết các nước trong đó có Việt Nam đều quy định bên bị thiệt hại
có nghĩa vụ phải áp dụng các biện pháp để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra, hay nói
cách khác là áp dụng biện pháp hợp lý để ngăn chặn thiệt hại.
Theo đó, việc bên bị vi phạm có khả năng hạn chế tổn thất nhưng lại khơng
thực hiện các biện pháp để hạn chế tổn thất cho thấy sự thiếu thiện chí của họ trong
quan hệ hợp đồng thương mại. Ngồi ra, ở góc độ kinh tế, nếu khơng buộc các bên
có thiệt hại phải hạn chế thiệt hại khi họ có khả năng hạn chế đồng nghĩa việc buộc
bên kia phải gánh chịu mọi thiệt hại xảy ra. Điều này khơng đảm bảo tính cơng bằng
và nhân văn trong quan hệ thương mại. Nguyên tắc này giúp hạn chế được tình trạng
lợi dụng cơ hội để trục lợi từ phía bên có quyền. 11
Tuy nhiên, việc hạn chế tổn thất cũng phải được lưu ý là:
Thứ nhất, biện pháp áp dụng để hạn chế tổn thất phải là biện pháp hợp lý. Bên
bị vi phạm không thể áp dụng một biện pháp mà theo họ là có thể hạn chế tổn thất
nhưng thực tế lại làm tổn thất nghiêm trong hơn. Trong những trường hợp như vậy,
bên bị vi phạm không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với khoản thiệt hại lớn
hơn đó và chi phí áp dụng biện pháp hạn chế bởi tính “không hợp lý” của biện pháp
11
Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại Việt
Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, Tr 209.


mà họ áp dụng.

Thứ hai, nếu bên vi phạm thực hiện hành vi vi phạm do cố ý thì liệu họ có
quyền viện dẫn đến việc bên bị thiệt hại không áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn
chế thiệt hại hay không. Theo quan điểm của một số học giả thì bên vi phạm khơng
thể viện dẫn ngun tắc này bởi lẽ chính họ đã vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung
thực trong việc thực hiện hợp đồng thương mại.12
Thứ ba, nguyên tắc chỉ bồi thường đối với các thiệt hại có thể tiên liệu được
CISG đã nêu tại Điều 74 cụ thể rằng thiệt hại phải là những tổn thất mà bên vi
phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc phải dự đoán trước được trong thời điểm
ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra đối với vi phạm hợp đồng đó. PICC
cũng có những quy định cụ thể về tính dự đốn trước của thiệt hại ở Điều
7.4.4

rằng bên có nghĩa vụ chỉ chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại mà

mình đã dự đốn trước hoặc đã có thể dự đoán trước một cách hợp lý, vào thời
điểm giao kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra từ việc khơng thực
hiện.
Ngun tắc này nêu ra thuyết “tính dự đốn trước của thiệt hại”, tức là khơng
phải mọi thiệt hại là hậu quả của hành vi vi phạm đều được bồi thường tồn bộ, mà
nó cịn phụ thuộc vào việc thiệt hại đó có được bên vi phạm dự đoán/ tiên liệu trước
một cách hợp lý khi giao kết hợp đồng khơng. Tiên liệu được hay dự đốn được là
khả năng của bên vi phạm thấy được tổn thất có khả năng xảy ra chứ khơng phải là
thực sự biết trước tổn thất chắc chắn xảy ra.
Luật Thương mại Việt Nam khơng có điều khoản cụ thể quy định về nguyên
tắc bồi thường đối với các thiệt hại có thể tiên liệu được này. Điều 302 có quy định
về tính trực tiếp, thực tế của thiệt hại nhưng cũng khơng nói rõ về tính dự đốn trước.
Trong khi đó, pháp luật một số ít quốc gia như Pháp (Điều 1151 BLDS) quy định
phạm vi bồi thường không bị giới hạn bởi mức thiệt hại được bên vi phạm dự liệu
trước khi ký kết hợp đồng nếu như vi phạm là cố ý. Một số học giả cho rằng quy
định như vậy là hợp lý để duy trì trật tự kinh doanh thương mai.13

12
Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ & Dương Anh Sơn (2011), Giáo trình Luật hợp đồng thương
mại quốc tế, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 94-95.
13
Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ & Dương Anh Sơn (2011), Giáo trình Luật hợp đồng thương


1.2Khái niệm, đặc điểm của bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng trong thương mại
1.2.1

Khái niệm khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong thương

mại
Như đã đề cập, những thiệt hại phổ biến cần được xác định khi có hành vi vi
phạm hợp đồng là tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên
vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm. Việc xác định các thiệt hại này không hề là một vấn đề
đơn giản, đặc biệt là đối với khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm hay còn gọi là khoản lợi bị bỏ lỡ theo CISG.
Bởi lẽ, khơng có một cách thức cụ thể nào để xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng này được quy định trong các nguồn luật.
Khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành
vi vi phạm là một giá trị tăng thêm, hay khoản lợi đáng lẽ bên bị vi phạm có được
trong điều kiện bình thường, nếu khơng có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi
phạm.14 Theo một cách giải thích khác, khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm là khoản lợi mà bên bị vi phạm chưa có trên thực tế,
nhưng nếu không xảy ra hành vi vi phạm và căn cứ theo mục đích mà bên bị vi phạm
đặt ra đối với hợp đồng đó cũng như các mối quan hệ hợp đồng mà bên bị vi phạm
đã hoặc có thể thiết lập với bên thứ ba khi khoản lợi đó là có thể đạt được.15

Chẳng hạn, trong một số trường hợp như: khi bên bán vi phạm nghĩa vụ giao
hàng làm bên mua mất đi khoản lợi nhuận từ việc bán lại hàng hóa đó cho bên thứ ba
(đã được xác định bằng hợp đồng mua bán chính thức); hoặc khi bên mua vi phạm
nghĩa vụ nhận hàng hoặc thanh tốn làm bên bán khơng thể thu được khoản lợi
nhuận từ hợp đồng mua bán với bên mua; khi bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng
không đúng chất lượng hoặc thời hạn mà hàng hóa đó là nguyên liệu hoặc máy móc
trong dây chuyền sản xuất hàng hóa thành phẩm của bên mua khiến bên mua khơng
mại quốc tế, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 91.
14
Djakhongir Saidov (2008), The Law of Damages in International Sales: The CISG and other
International Instruments, Hart Publishing, pp 54-65.
15
Phan Huy Hồng (2014), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nhà xuất bản Hồng
Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr 434.


thể sản xuất hàng hóa.
Cần phân biệt khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và tổn thất thực tế, trực
tiếp để tránh nhầm lẫn:
Xét tình huống bên bán A có giao kết hợp đồng mua bán với bên mua B mua
3000 kg hạt cà phê thô để rang xay và bán lại cho đối tác C. Hợp đồng thỏa thuận giá
mỗi kg cà phê là 50.000 đồng, dự kiến bán lại 70.000 đồng/ kg cho đối tác (Hợp
đồng với C đã được ký kết ngay sau đó).
Đến thời hạn bên bán B không giao đủ hàng mà chỉ giao được 1000 kg hạt cà
phê. Do đó, A khơng đủ hàng để giao cho C và cũng khơng tìm mua được hàng đúng
chất lượng trong thời gian gấp. A phải chịu thiệt hại đối với việc giao thiếu hàng, bao
gồm: chịu phạt hợp đồng với đối tác 11.200.000 đồng; thiệt hại đối với lợi nhuận dự
tính của A cho 2000 kg (giả sử chi phí sản xuất cà phê rang xay và các chi phí khác
của bên B là 10.000 đồng/kg) là 20.000.000 đồng;
A kiện B ra Tịa án có thẩm quyền tại Việt Nam yêu cầu: bồi thường thiệt hại

đối với giá trị mà A phải chịu phạt 11.200.000 đồng; thiệt hại đối với lợi nhuận dự
tính của A cho 2000 kg là 20.000.000 đồng.
Ta thấy trong tình huống trên, 20.000.000 đồng mà A yêu cầu B bồi thường
thiệt hại là khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Bởi lẽ, nếu khơng có hành vi vi phạm hợp
đồng là giao thiếu hàng của B thì A đã khơng vi phạm hợp đồng với C và thu được số
tiền bán hàng tương đương 140.000.000 đồng, sau khi trừ giá mua ban đầu và chi phí
sản xuất thành phẩm thì A sẽ có lợi nhuận 20.000.000 đồng.
Cũng trong trường hợp trên, nếu A tìm được nhà cung cấp thay thế để mua
2000 kg hạt cà phê với giá 55.000 đồng/kg và không vi phạm nghĩa vụ với C. Thì
thiệt hại là khoảng tiền chênh lệch giữa giá hàng thay thế và giá mua ban đầu bằng
5.000 đồng là thiệt hại thực tế chứ khơng phải khoản lợi đáng lẽ được hưởng vì A
không mất lợi nhuận do không bán được hàng cho C trong trường hợp này.
1.2.2

Khái niệm bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ

được hưởng trong thương mại
Bồi thường thiệt hại trong thương mại là một loại trách nhiệm pháp lý được
pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới quy định, là trách nhiệm của bên vi


phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất do hành vi vi
phạm hợp đồng của mình gây ra, nhằm đảm bảo cho bên bị vi phạm có được vị thế
kinh tế ngang bằng với vị thế kinh tế mà họ có được nếu khơng có hành vi vi phạm
hợp đồng. Trong đó, giá trị tổn thất mà bên vi phạm phải bồi thường bao gồm cả
khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng, giá trị này trong một số
hệ thống pháp luật quốc gia không được ghi nhận.
Như đã đề cập về khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, bồi thường thiệt hại
đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là việc bên vi phạm hợp đồng thương
mại phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất bằng với khoản giá trị tăng thêm mà

bên bị vi phạm lẽ ra đã có được như là lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng nếu khơng
có hành vi vi phạm.
LTM 2005 quy định về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi đáng lẽ được
hưởng tại khoản 2 Điều 302. Đồng thời, BLDS 2015 cũng có điều khoản quy định
tương tự tại khoản 2 Điều 419 “Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại
cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền cịn
có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do khơng hồn thành
nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà
hợp đồng mang lại”.
1.2.3

Đặc điểm của bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng

lẽ được hưởng trong thương mại
Tương tự các đặc điểm chung của chế tài bồi thường thiệt hại, bồi thường
thiệt hại đối với khoản lợi đáng lẽ được hưởng cũng có cùng các đặc điểm về chủ thể
áp dụng, căn cứ phát sinh v.v... và cần nhấn mạnh một số điểm nổi bậc, bao gồm:
Thứ nhất, về nghĩa vụ chứng mình khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và
tính “trực tiếp” đáng lẽ được hưởng
Vấn đề đáng lưu ý là chứng minh đối với khoản lợi đáng lẽ được hưởng thơng
thường khơng dể và có khả năng bị từ chối nếu nó khơng rõ ràng và chắc chắn.
Tính “trực tiếp” đáng lẽ được hưởng nghĩa là, khoản lợi này phải gắn với việc
thực hiện hợp đồng mà đang bị vi phạm chứ không phải một hợp đồng nào khác và
một cách rõ ràng hợp lý rằng nếu khơng có hành vi vi phạm thì bên bị vi phạm hồn


×