Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Thẩm quyền của hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.12 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ LÀNH

THẨM QUYỀN CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TẠI PHIÊN TỊA DÂN SỰ CẤP SƠ THẨM
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ LÀNH

THẨM QUYỀN CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TẠI PHIÊN TỊA DÂN SỰ CẤP SƠ THẨM
••

Ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 801031583

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ VŨ NAM


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ

TRẦN THỊ LÀNH


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
STT

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

01

TAND

Tòa án nhân dân

02

HĐXX


Hội đồng xét xử

03

HTND

Hội thẩm nhân dân

04

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

05

Luật TCTAND

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5
3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 8
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI THẨM NHÂN
DÂN TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM............................................... 9
1.1. Khái quát về hội thẩm nhân dân.............................................................. 9
1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân ............................................................. 9
1.1.2. Vai trò của Hội thẩm nhân trong hoạt động xét xử của Tòa án ...........
10
1.1.3. Nguyên tắc chi phối hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân tại phiên
tòa dân sự sơ thẩm............................................................................................
14
1.1.3.1. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia
14
1.1.3.2. Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .................... 17


1.1.3.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số ........... 22
1.1.4. Phân biệt Hội thẩm nhân dân với Bồi thẩm đoàn ................................ 23
1.2. Thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ...... 28
1.2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên
tòa dân sự sơ thẩm.......................................................................................... 28
1.2.2. Sự cần thiết phải quy định Tịa án xét xử phải có Hội thẩm nhân dân
tham gia ......................................................................................................... 32
1.3. Lịch sử quy định pháp luật việt nam về hội thẩm nhân dân từ năm 1945
đến nay .......................................................................................................... 34
Bức tranh khái quát về lịch sử pháp luật tố tụng dân sự quy định về vị trí, vai
trò của Thẩm phán và Hội thẩm ở Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945

đến nay được khắc họa bởi bốn giai đoạn tiêu biểu: ..................................... 34
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ............................................... 35
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1992 ............................................... 37
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2004 ............................................... 39
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay ......................................................... 40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................. 41
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN
CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TỈNH KIÊN GIANG VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ............................................................................................. 42
2.1. Thực trạng các quy định về thẩm quyền của hội thẩm nhân dân tại phiên
tòa dân sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử tại tỉnh kiên giang .......................... 42
2.1.1. Khái quát về hoạt động của Hội thẩm nhân dân trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang 42
2.1.2. Thực trạng các quy định về Hội thẩm nhân dân tác động đến thẩm


quyền của Hội thẩm tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ......................................... 51
2.1.2.1. Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành Hội thẩm nhân dân .
51
2.1.2.2. Quy định về nhiệm vụ của Hội thẩm nhân dân...............................53
2.1.2.3. Quy định về trách nhiệm công vụ của Hội thẩm nhân dân............. 57
2.1.2.4. Quy định về chế độ chính sách đối với Hội thẩm nhân dân ........... 59
2.2. Kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định về hội thẩm nhân dân nhằm
đảm bảo thực hiện thẩm quyền của hội thẩm tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ... 60
2.2.1. Yêu cầu và định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về Hội thẩm
nhân dân nhằm đảm bảo thực hiện thẩm quyền của Hội thẩm khi tham gia các
phiên tòa dân sự sơ thẩm................................................................................ 60
2.2.2. Kiến nghị góp phần hồn thiện các quy định về Hội thẩm nhân dân
nhằm đảm bảo thực hiện thẩm quyền của Hội thẩm khi tham gia phiên tòa dân

sự sơ thẩm....................................................................................................... 64
2.2.2.1. Quy định về tiêu chuẩn kiến thức pháp luật của Hội thẩm.............. 64
2.2.2.2. Quy định về số lượng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm .
65
2.2.2.3. Quy định về phân công Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử
vụ án dân sự....................................................................................................66
2.2.2.4. Quy định về trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân........................... 68
2.2.2.5. Quy định về đảm bảo chế độ chính sách cho Hội thẩm nhân dân .. 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................. 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 2 Hiến pháp nước ta đã khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tịa án là cơ quan
quyền lực của Nhà nước, thực hiện chức năng bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân. Chính bằng hoạt động
xét xử, Tịa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Trong hoạt động xét xử của Tịa án thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là
người chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình mà khơng một ai, hay một cơ
quan, tổ chức nào được quyền can thiệp. Khoản 1, Điều 103 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và khoản 1, Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm

phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”. Các quy định trên cho thấy Hội thẩm
nhân dân có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng, đảm bảo sự tham gia một cách có hiệu
quả của nhân dân vào cơng tác quản lý nhà nước nói chung và hoạt động của Tịa án
nói riêng. Hội thẩm nhân dân bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử đã
khẳng định vai trò giám sát của nhân dân đối với Tòa án, đảm bảo thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp, giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án
diễn ra cơng bằng, chính xác và khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân
dân tại các phiên tòa hiện nay còn khá mờ nhạt, Hội thẩm chưa phát huy hết vai trị,
trách nhiệm của mình khi tham gia xét xử. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng chủ yếu do những hạn chế, bất cập về mặt pháp lý cũng như thực
tiễn hoạt động của Hội thẩm đã làm cho đội ngũ này chưa phát huy được hết vai trị,
trách nhiệm của mình.
Tiếp cập đối tượng nghiên cứu là Hội thẩm nhân dân, cùng nhận thức và thực


2

tiễn thực hiện công tác kiểm sát tại địa phương, việc nghiên cứu các quy định pháp
luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm có ý
nghĩa quan trọng nhằm tìm ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật,
cũng như những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó tìm
giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt
động của Hội thẩm tại các phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn đề tài
“Thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm là vấn đề
không mới, nhưng trước yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay,

vấn đề này thường xuyên được các nhà quản lý, nhà khoa học và người làm thực tiễn
công tác pháp luật quan tâm. Trong vòng 20 năm trở lại đây, có thể kể đến một số
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Về sách chuyên khảo:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay do nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Sản
làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những kiến nghị về cơ chế
tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, kiện
toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.
- Về luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ luật học:
Luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Thị Huyền: Phiên tòa sơ thẩm dân sự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. Luận án làm rõ những
vấn đề lý luận cơ bản về phiên tòa sơ thẩm dân sự, nội dung các quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về phiên tòa sơ thẩm dân sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án
Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hồn thiện và thực hiện
pháp luật Việt Nam về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Ở khía cạnh nghiên cứu của tác giả,
luận án cung cấp những thông tin pháp lý quan trọng liên quan đến các hoạt động tố


3

tụng tại phiên tòa sơ thẩm và vai trò của các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm, là
cơ sở để tác giả kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm
quyền của Hội thẩm nhân dân.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Nhung San: Nguyên tắc khi xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự, Đại học Luật Hà Nội, năm 2011. Luận văn làm rõ nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và thực tiễn áp dụng
nguyên tắc của ngành tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tịa án nói
riêng, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện

hơn quy định của pháp luật về vấn đề này.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Huệ: Nâng cao vai trò của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về vị
trí, vai trị của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự; đồng
thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó, qua
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân trong xét xử vụ án hình sự.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vương Minh Tâm: Địa vị pháp lý của
Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự, Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, năm 2016. Luận văn
nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của Hội
đồng xét xử sơ thẩm dân sự và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, từ đó chỉ ra những
hạn chế, bất cập của pháp luật và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện.
- V ề bài báo, t ạ p chí:
Bài viết của tác giả Trần Thị Thu Hằng: “Một số kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Tịa
án nhân dân, số 15, năm 2018. Trên cơ sở khẳng định sự cần thiết phải cải cách, đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tịa án nhân dân nói chung và của Hội thẩm nhân dân
nói riêng, bài viết đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của


4

Hội thẩm, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội thẩm, đảm bảo chất lượng
và hiệu quả công tác xét xử của Tòa án nhân dân.
Bài viết của tác giả La Thị Quế: “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội thẩm nhân dân”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 17, năm 2018. Bài viết
nêu khái quát cơ sở pháp lý về vị trí, vai trị của Hội thẩm nhân dân và chỉ ra những
bất cập trong tổ chức, hoạt động của Hội thẩm, từ đó đề xuất một số giải pháp góp

phần đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội thẩm nhân dân.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đề cập đến nội dung cơ bản đó là,
khẳng định ý nghĩa, địa vị pháp lý, cũng như vai trò, trách nhiệm của Thẩm phán và
Hội thẩm trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật,
thực tiễn áp dụng tại một số địa phương, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập và đề
xuất các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân
dân khi tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên
cứu về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của hệ thống Tòa án một cách chung chung mà chưa triển khai nghiên cứu về thẩm
quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm một cách độc lập,
cũng như chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học cụ thể nào đánh giá lý luận và
tổng kết thực tiễn về vấn đề này. Do đó, trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã
nghiên cứu trước đây và quá trình nghiên cứu thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Kiên Giang, tác giả hướng vào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện các quy
định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân
sự cấp sơ thẩm, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật và
đề xuất kiến nghị hồn thiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật dân

sự và tố tụng dân sự về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp
sơ thẩm qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Kiên Giang, tác giả chỉ ra những hạn chế, bất
cập trong quy định pháp luật, cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp


5


dụng pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tịa dân sự cấp sơ
thẩm, từ đó kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công
tác của Hội thẩm nhân dân, đảm bảo chất lượng và hiệu quả công tác xét xử của Tòa
án nhân dân tại các phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm, qua đó bảo đảm việc giải quyết các
vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp giai đoạn
hiện nay.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể

như sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Hội thẩm
nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm;
- Phân tích, đánh giá những mặt tích cực, cũng như hạn chế trong công tác
của Hội thẩm nhân dân khi tham gia các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Kiên Giang;
- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền
của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về về thẩm quyền của Hội thẩm

nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm, cụ thể:
- Các quan điểm khoa học về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa

dân sự cấp sơ thẩm;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân
trong quá trình tham gia xét xử vụ án dân sự sơ thẩm;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên
tòa dân sự cấp sơ thẩm qua thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân


6

hai cấp tỉnh Kiên Giang;
- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền
của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử tại các phiên tòa dân sự sơ thẩm.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu dưới góc độ pháp luật các quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
và các văn bản pháp luật khác có quy định về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại
phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm. Những nội dung nghiên cứu trong các lĩnh vực khác
như chính trị, văn hóa, xã hội... được đề cập trong luận văn chỉ mang tính chất tham
khảo để có góc nhìn bao quát và toàn diện về nội dung nghiên cứu.
Về thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm
quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm qua thực tiễn xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Kiên Giang sau khi Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 được triển khai thực hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của luận văn được tác giả nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ đó có góc nhìn tổng
quan, khái quát và mang tính kế thừa những giá trị khoa học trước đây có liên quan

đến đề tài nghiên cứu.
Cụ thể, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích các khái niệm, các quan
điểm khoa học và các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân
tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm;
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh quy định của pháp luật Việt
Nam về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm qua các
thời kỳ; so sánh giữa quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân
tại phiên tòa dân sự sơ thẩm với thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm và so sánh giữa quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng quy


7

định pháp luật qua cơng tác xét xử của Tịa án địa phương;
- Phương pháp chứng minh: được sử dụng để khẳng định những vấn đề tác giả
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân
tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm;
- Phương pháp khảo sát: được sử dụng để thu thập thông tin từ thực tiễn công
tác xét xử của địa phương và các vấn đề có liên quan.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện cả về cơ sở lý luận và thực tiễn
hoạt động tố tụng của Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự
sơ thẩm để chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật và sự cần
thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thẩm quyền của Hội thẩm nhân
dân tại phiên tòa dân sự cấp sơ thẩm.
Đề tài đã đưa ra những đề xuất kiến nghị theo hướng hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tịa dân sự cấp sơ thẩm, góp phần nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”.
Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm
hiểu pháp luật của các sinh viên ở các trường đại học và những ai quan tâm đến đề tài
này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa dân sự
sơ thẩm.
Chương 2: Thực trạng các quy định về thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân tại
phiên tòa dân sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Kiên Giang và kiến nghị hoàn


8

thiện.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái quát về hội thẩm nhân dân
1.1.1.

Khái niệm Hội thẩm nhân dân
Theo Từ điển tiếng Việt, “Hội thẩm nhân dân” (HTND) được hiểu là “người


do Hội đồng nhân dân bầu ra trong một thời gian nhất định c ng với Thẩm phán làm
nhiệm vụ xét xử các vụ án xảy ra ở địa phương”. Qua nội dung khái niệm trên có thể
thấy, HTND là người được Hội đồng nhân dân bầu theo nhiệm kỳ để thực hiện
nhiệm vụ của họ cùng với Thẩm phán xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tồ án.
Theo từ điển Luật học thì HTND là “Người được bầu hoặc cử theo quy định
của pháp luật đề làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” .
Khái niệm này giống với khái niệm HTND được quy định tại khoản 2, Điều 1 Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2011). Như vậy, có thể hiểu HTND là những người được bầu lên từ nhân dân để
tham gia xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Ở nước ta, Hội thẩm Tòa án nhân dân (TAND) gồm có HTND và Hội thẩm
quân nhân, trong đó HTND gồm HTND tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và HTND tham gia xét xử
các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc
tỉnh.1
Về tiêu chuẩn Hội thẩm, Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
(Luật TCTAND) đã cụ thể hóa các tiêu chí bầu chọn Hội thẩm. Theo đó, Hội thẩm
phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh
thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích
2011).

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, có kiến thức pháp luật, có
1 Khoản 2, Điều 2 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm


vốn hiểu biết xã hội và có sức khỏe đảm bảo hồn thành nhiệm vụ được giao.
Có thể nói, bản chất của việc ghi nhận sự tham gia của Hội thẩm vào quá trình
xét xử của TAND là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”2, góp phần đảm bảo
nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án;

đồng thời thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân. HTND là người đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động
xét xử của Tịa án, đồng thời thơng qua Hội thẩm để kiểm tra hoạt động đó. Do đó,
những người được bầu làm Hội thẩm phải là những người có uy tín trong xã hội, có
lối sống, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ pháp lý và gương mẫu trong lao động,
công tác. Nhân dân sẽ tin cậy vào sự công minh và vô tư của Hội thẩm, và chính sự
tham gia xét xử của họ sẽ góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Tịa án, được nhân
dân tin cậy và ủng hộ. Nói cách khác, việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong
quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và cơng tác xét xử của Tịa án nói riêng
chính là một yêu cầu quan trọng của một nhà nước tiến bộ. Chế định HTND chính là
biểu hiện dân chủ của nền tư pháp.
1.1.2. Vai trò của Hội thẩm nhân trong hoạt động xét xử của Tòa án
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định việc xét xử sơ thẩm của TAND có HTND
tham gia, khoản 2, Điều 11 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) đã quy
định: “Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, HTND ngang quyền với
Thẩm phán”. Như vậy, HTND tham gia trực tiếp trong việc đưa ra phán quyết của
Tòa án và cùng với Thẩm phán ra những bản án và quyết định đúng pháp luật, hợp
lý, hợp tình. Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nhắc nhở: “Trong cơng tác xét xử án không những phải công bằng,
liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ giới hạn hoạt động của
mình trong khung Tịa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân..
Tuy nhiên, để đưa ra được phán quyết đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp
luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, điều này đòi hỏi những
2Trương Hịa Bình (2012), “Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân”,
/>etails=1&item_id=22917920. truy cập ngày 07/12/2018.


người làm cơng tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ
chun mơn và nghiệp vụ vững vàng, đồng thời phải có kiến thức và vốn hiểu biết
cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế quy định HTND tham gia phiên

tịa sơ thẩm là sự bổ sung cần thiết để các phán quyết của Tịa án khơng chỉ đúng
pháp luật mà cịn được xã hội đồng tình. Bởi lẽ, Hội thẩm là đại diện cho các giới,
các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp nên Hội thẩm có thể phản ánh một cách
khách quan về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ
không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy. Do đó, việc cụ thể hố các quy định
về HTND trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án sẽ góp phần nâng cao vị
thế, vai trị của Hội thẩm trong cơng tác xét xử của Tịa án.
Trước hết, chế định Hội thẩm đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào các công
việc quản lý Nhà nước và xã hội, đảm bảo quyền giám sát của nhân dân đối với các
hoạt động của cơ quan Nhà nước. Thực chất của quy định HTND tham gia vào công
tác xét xử tại Tòa án là việc thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân bằng dân
chủ trực tiếp, đóng góp tiếng nói của nhân dân vào q trình giải quyết các vụ án tại
cơ quan Tòa án, do đó khi xét xử, phải đảm bảo nguyên tắc HTND ngang quyền với
Thẩm phán, mọi quyết định của Hội đồng xét xử (HĐXX) được đưa ra bàn bạc và
biểu quyết theo đa số.
Thứ hai, dưới góc độ xã hội, sự tham gia của HTND trong hoạt động xét xử án
đảm bảo các phán quyết của Tịa chính xác, cơng bằng, dân chủ, phản ánh đúng tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ Hội thẩm là những người sinh sống trong các
cụm dân cư, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, có kinh nghiệm hoạt động xã hội
và vốn kiến thức thực tế phong phú, do đó tiếng nói của HTND là sự phản ánh tinh
thần pháp luật, “hơi thở” của đời sống nhân dân vào trong các phán quyết của Tòa
án, bổ sung những kiến thức xã hội cho đội ngũ Thẩm phán vốn chỉ chuyên sâu trong
cơng tác pháp luật, mà ít có kinh nghiệm thực tiễn, qua đó các vụ án có HTND tham
gia được giải quyết thấu tình đạt lý, giúp cho cơng tác xét xử đúng pháp luật và phản
ánh đúng bản chất sự việc.
Thứ ba, HTND là những người có trình độ, năng lực, có vốn hiểu biết phong


phú về đa ngành nghề, lĩnh vực, lại có mối quan hệ rộng với mọi tầng lớp dân cư,
nên đây là lực lượng quan trọng góp phần tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật,

giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Thông qua phản ánh của các vị
Hội thẩm, cơ quan Tòa án cũng nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ của nhân
dân, từ đó có sự cân nhắc, thận trọng khi giải quyết từng vấn đề mâu thuẫn, tranh
chấp trong nhân dân, bởi kết quả của những phán quyết, quyết định của Tịa có thể
nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng gay gắt,
nếu như bản án tuyên mất đi tinh thần thượng tôn pháp luật, mất đi ý chí của nhân
dân. Q trình thơng tin hai chiều giữa cơ quan Tòa án và nhân dân, trong đó các vị
Hội thẩm là “trung gian” truyền tải, nếu phản ánh đúng, đầy đủ và chính xác các
thông tin sẽ càng làm cho mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân
dân ngày càng gắn bó mật thiết, thể hiện đúng bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Thứ tư, thực hiện chế độ HTND chính là một hình thức thực hiện đảm bảo
tính dân chủ, thu hút đơng đảo những người lao động tham gia một cách bình đẳng
và ngày càng rộng rãi vào công việc quản lý của Nhà nước và của xã hội. Dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, quản lý không phải là công việc riêng của các cơ quan quản lý
nhà nước và người quản lý chuyên nghiệp, mà là sự nghiệp của nhân dân. Nhân dân


thông qua đơn vị đại diện bầu ra HTND TAND địa phương theo sự giới thiệu của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.3
Việc quy định đảm bảo tính dân chủ chân chính thật sự của nhân dân trong chế
định HTND không những thể hiện qua việc bầu hoặc cử HTND mà khi khơng cịn
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì HTND cịn bị bãi nhiệm. Theo quy định
tại Điều 90 Luật TCTAND năm 2014 thì Hội thẩm có thể được miễn vì lý do sức
khỏe hoặc lý do khác. Hội thẩm bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất, đạo đức
hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khơng cịn xứng đáng làm HTND.
Chính bằng chế độ HTND tham gia xét xử mà những lợi ích thiết thực và
trách nhiệm của nhân dân đối với công việc của Nhà nước và xã hội được tụ lại,
quyện chặt trong một thể thống nhất là Tòa án, hoạt động của TAND là một bộ phận
hoạt động nhà nước vì Tịa án là cơ quan nhà nước. HTND tham gia vào hoạt động

xét xử của Tòa án là biểu hiện của việc nhân dân thực hiện quyền lực của mình tham
gia trực tiếp vào quản lý cơng việc của Nhà nước và của xã hội, sự tham gia của
HTND vào hoạt động xét xử của Tòa án không phải là để hạn chế sự lạm quyền của
Thẩm phán mà chính là cùng Thẩm phán chuyên nghiệp kết hợp hài hịa giữa sự tinh
thơng pháp lý, thao tác nghề nghiệp của Thẩm phán với kiến thức kinh nghiệm sống,
nhận thức của các tầng lớp nhân dân mà vị HTND là đại diện để xem xét giải quyết
vụ án đúng pháp luật, thấu tình đạt lý, hợp lịng dân. Trong hoạt động xét xử của Tòa
án cái được xem là cơ bản nhất là đưa ra bản án chính xác và đúng pháp luật. Như
vậy nên mọi quyết định của Tịa án khơng được tác động đến quyền, lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và của công dân, khơng ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà
nước, đến dư luận quần chúng.
Một khía cạnh khác thể hiện tính dân chủ của chế định HTND bằng việc quy
định HTND tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những cơ sở tạo
điều kiện cho cơng dân thể hiện ý chí và thực hiện quyền làm chủ của mình, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và tham gia quản lý nhà nước là nhân tố
3Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa X, ngày 09/6/2000 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1998, trong đó bỏ quy định về xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đồng thời chung
thẩm. Luật này có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Như vậy kể từ thời điểm này, HTND chỉ tham gia xét xử sơ
thẩm ở TAND địa phương.


đảm bảo thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực nhân dân, đảm
bảo công bằng xã hội.
Do đó việc thiết lập và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện thông
qua đại diện nhân dân là HTND như là một hình thức nhân dân trực tiếp tham gia
vào công việc của Nhà nước hoặc cử đại diện đại diện thay mặt mình đảm nhiệm
công việc của Nhà nước.
1.1.3.

Nguyên tắc chi phối hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân tại


phiên tòa dân sự sơ thẩm
Khi Tòa án mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, mọi vấn đề của vụ
án đều được đưa ra xem xét, đánh giá để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
đương sự. Vì vậy, hoạt động xét xử của HTND tại phiên tòa phải đáp ứng các nguyên
tắc của pháp luật tố tụng dân sự. Xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn quan trọng
nhất của quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tại giai đoạn này Tồ án với tính cách là
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện công việc xét xử vụ án và giải quyết những vấn
đề cơ bản của vụ án như xác định các vấn đề người khởi kiện yêu cầu giải quyết, xác
định quan hệ pháp luật tranh chấp, yêu cầu phản tố, nguyên nhân tranh chấp, căn cứ
điều luật cần áp dụng... Do đó, với vai trị và tầm quan trọng của mình trong cơng tác
xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, hoạt động xét xử của HTND phải dựa trên những
nguyên tắc nhất định.
1.1.3.1.

Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham

gia
Ở các nước khác nhau, hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia cơng tác xét
xử của Tồ án là khác nhau. Các nước thuộc hệ thống luật Anh - Mỹ (Common Law)
thì có chế định về Bồi thẩm đồn, còn một số nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu
lục địa (Civil Law), thì HĐXX có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm
phán không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và HTND.4
Ở nước ta, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia dựa trên
4Luật Dương Gia (2015), “Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia”,
truy cập ngày:
27/4/2018.


tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Ngay từ buổi đầu độc lập và thành lập Nhà nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định Nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Do đó HTND khi tham gia xét xử, họ vừa là người giám sát hoạt động xét xử
của Tòa án, đồng thời họ trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Khoản 1, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của
TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Cụ thể hóa
nguyên tắc trên, khoản 1, Điều 11 BLTTDS năm 2014 quy định: “Việc xét xử các vụ
án dân sự có HTND tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử
theo thủ tục rút gọn”.
Quy định việc xét xử sở thẩm của Tịa án đã có HTND tham gia đã có từ rất
lâu, ngay từ những ngày thành lập TAND. Đây là một nguyên tắc mang tính dân chủ
đại diện trong tố tụng dân sự. Hội thẩm được bầu lên từ các tầng lớp nhân dân, do đó
họ là người đại diện cho các tầng lớp nhân dân trong việc xem xét và giải quyết vụ
án dân sự, nhằm bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ không phải là
những người được đào tạo về pháp luật, họ khơng có những kỹ năng chun nghiệp
như Thẩm phán, nhưng họ có cái nhìn và cảm nhận khách quan của một người lao
động bình thường trên cơ sở suy xét cái đúng, cái sai, hợp lý và hợp pháp để biểu
quyết về một vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của đương sự. Người ta muốn có
tiếng nói của người khơng am hiểu về pháp luật, không bị ràng buộc bởi những quy
định cứng nhắc của pháp luật nhưng có cái nhìn khách quan, vơ tư về sự việc. Từ đó,
BLTTDS đã ghi nhận nguyên tắc HTND tham gia xét xử vụ án dân sự thành những
quy định cụ thể: Một là, HTND là người tiến hành tố tụng 5. Như vậy, HTND tham
gia xét xử vụ án dân sự với tư cách là người tiến hành tố tụng dân sự. Hai là, HTND
là thành viên HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự 6. Cụ thể, thành phần của HĐXX sơ thẩm
vụ án dân sự bao gồm một Thẩm phán và hai HTND, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn. Ngoài ra, trong trường hợp vụ án đó phức tạp hoặc đặc biệt thì có thể có
hai Thẩm phán và ba HTND. Quy định nêu trên nhằm bảo đảm quyền làm chủ của
5Điểm a, khoản 2, Điều 46 BLTTDS năm 2015.
6Điều 63 BLTTDS năm 2015.



nhân dân, bảo đảm sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử.
BLTTDS ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có HTND tham gia
xuất phát từ thực tiễn, đó là để đảm bảo hoạt động xét xử diễn ra thuận lợi, khách
quan trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật. Vì các vụ việc trong tố tụng dân sự là
các vụ việc xảy ra trong nhân dân, liên quan đến nhân dân là chủ yếu, do đó có sự
tham gia của HTND là để đảm bảo thuận lợi, khách quan cho hoạt động xét xử.
Mặt khác, HTND là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức,
cơ sở sản xuất, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến
thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy các vị Hội
thẩm hiểu rõ tình hình, hồn cảnh, ngun nhân của các vụ án. Trong một số trường
hợp, HTND còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm
lý xã hội... Các kiến thức thực tiễn sinh động đó của đội ngũ Hội thẩm sẽ rất có ích
trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán về những lĩnh vực mà
Thẩm phán không chuyên sâu, giúp cho công tác xét xử đúng đắn, nhất là những vụ
việc dân sự mà đương sự là người dân tộc thiểu số hay vụ việc liên quan đến những
phong tục, tập quán của họ.
Về nội dung, HTND chỉ tham gia xét xử các vụ án dân sự cịn đối với việc
dân sự thì HTND khơng tham gia. Điều đó là hồn tồn ph hợp bởi tính chất của vụ
án dân sự là các tranh chấp, mâu thuẫn mang tính phức tạp hơn, quyền và lợi ích của
các đương sự ảnh hướng lớn hơn, nên sự tham gia của HTND là đảm bảo sự tham gia
của người dân vào việc xét xử của Tòa án, tăng cường tính cơng khai, minh bạch.
Mặt khác, việc tham gia của HTND giúp cho Tòa án xét xử khơng chỉ đúng
pháp luật mà cịn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. HTND có đời sống chung
trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng,
nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm HTND, Hội
thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với
vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập
quán địa phương, HTND sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết



trong q trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng
tình ủng hộ.
1.1.3.2. Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Trong Nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong những đặc
trưng cơ bản. Tầm quan trọng của tư pháp độc lập từ lâu đã được ghi nhận trong các
văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Tại Điều 10 Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế
năm 1948 (UDHR) ghi nhận, mọi người đều có “quyền được xét xử cơng bằng và
cơng khai bởi một Tịa án độc lập và khách quan”. Điều 14 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) thì mọi người có “quyền được xét xử
cơng bằng, cơng khai bởi một Tịa án có thẩm quyền, độc lập, công minh được thiết
lập theo pháp luật”.7 Ở nước ta, tính độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
từ lâu đã là một nguyên tắc hiến định (được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) và được cụ thể hóa trong các đạo luật quan trọng
như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật
rp Á 1 r rp X r 1 /X 1 /X
Tổ chức Tòa án nhân dân.
Khoản 2, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 12 BLTTDS năm 2015, quy
định: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Đây là
một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này
được hiểu là: Thẩm phán và HTND chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật, căn cứ
vào các chứng cứ hợp pháp để xét xử và tuyên bản án trên cơ sở kết quả tranh tụng
tại phiên tịa một cách dân chủ, cơng khai, khách quan. Khơng một cá nhân, cơ quan,
tổ chức nào có quyền can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và Hội thẩm khi xét
xử.
Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm là tổng hợp các phương tiện, biện
pháp về xã hội, về pháp luật, về kinh tế, về tổ chức nhằm hạn chế và ngăn chặn
7Trần Thị Thu Hằng (2018), “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”, truy cập ngày 08/12/2018.



×