Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.07 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH NHUNG

THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH NHUNG

THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN QUANG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn về đề tài “Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật




Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu cá nhân của tơi trong thời gian qua. Mọi thơng tin trích
dẫn trong luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng và được phép cơng bố. Tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm nếu có sự khơng trung thực trong thơng tin sử dụng trong nội dung đề
tài nghiên cứu này.
TÁC GIẢ

NGUYỄN THỊ QUỲNH NHUNG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Viết Tắt

Diễn Giải

1

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

2

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005


3

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015

4

Luật đấu giá tài sản 2016

5

Nghị định 163

6

Nghị định 11-2012

7

Nghị định 102

8

Thông tư 08-2018

9

Thông tư liên tịch 16-2014


1
0
11

Luật đấu giá tài sản số 01/2016/QH14 ngày
17/11/2016
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012:
Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày
01/9/2017:
Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018
Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTPBTNMT-NHNN:

Thơng tư 39

Thơng tư số 39/2016.TT-NHNN

TCTD

Tổ chức tín dụng:


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC Trang

1.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về biện pháp bảo đảm là thế chấp

quyền

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

70


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đã có những điều chỉnh đáng kể, theo đó các biện pháp bảo đảm được thay
đổi góc nhìn từ khía cạnh bản chất tài sản bảo đảm theo hướng chuyển giao tài sản
bảo đảm trong giao dịch dân sự, đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm cho phù hợp
thực tế giao dịch của cuộc sống trong thời đại tiếp nhận và chuyển giao công nghệ.
Hoạt động cho vay của các TCTD, do vậy cũng thường xuyên được cập nhật
và điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi về hình thức cho vay và các biện pháp bảo
đảm. Trong đó, quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm đã có những thay
đổi đáng kể về tài sản thế chấp trong đó có quyền tài sản nói chung và quyền địi nợ
nói riêng.
Tuy nhiên, quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm là thế chấp quyền đòi nợ
hiện hành vẫn còn nhiều bất cập với thực tế, chưa phù hợp trong thực tiễn áp dụng
nên cần được nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn. Bên nhận thế chấp, bên thế chấp quyền
đòi nợ cũng như bên có nghĩa vụ đều chịu những rủi ro pháp lý trong mối quan hệ
giao dịch có tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
Nhiều nghiên cứu luật học, bài báo khoa học của nhiều tác giả đã bình luận,
phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật đối với thế chấp quyền đòi nợ. Tuy

nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đều đặt đối tượng nghiên cứu trên cơ sở pháp lý
chưa được điều chỉnh, thay đổi. Vì lẽ trên, tác giả luận văn chọn tiếp tục nghiên cứu
đề tài về thế chấp quyền đòi nợ trên cơ sở pháp lý đã thay đổi và được điều chỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài này có thể đề cập một số bài viết của các nhà nghiên
cứu:
- Đỗ Văn Đại (2014), “Bản án số 78: thế chấp quyền tài sản là quyền đòi nợ”
trong Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam, bản án
và bình luận bản án, tập 1”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.


7

Trong nội dung bình luận bản án về việc địi nợ vay qua hợp đồng tín dụng có
tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, tác giả bàn về việc xác lập biện pháp thế chấp
quyền đòi nợ, xử lý thế chấp quyền đòi nợ. Dựa trên cơ sở pháp lý là BLDS 2005 và
Nghị định 163, tác giả đã phân tích, đánh giá việc chấp nhận bảo đảm bằng quyền
đòi nợ, bản chất của biện pháp bảo đảm bằng quyền địi nợ, hình thức của bảo đảm
bằng quyền địi nợ, phạm vi bảo đảm của quyền đòi nợ, về sự đồng ý của người có
nghĩa vụ trả nợ, việc thơng báo cho người có nghĩa vụ trả nợ. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích, đánh giá về yêu cầu trực tiếp bên có nghĩa vụ, thời điểm thực hiện nghĩa
vụ, quyền đối kháng của người có nghĩa vụ trong trường hợp xử lý thế chấp quyền
đòi nợ .
Hiện cơ sở pháp lý của biện pháp bảo đảm bằng quyền đòi nợ là BLDS 2005
đã được thay thế bằng BLDS 2015 và Nghị định 163 đã hết hiệu lực một phần, được
sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 11-2012. Do vậy, việc tiếp tục phân tích, đánh giá
biện pháp bảo đảm bằng quyền địi nợ trong mơi trường pháp lý đã được điều chỉnh
là điều nên làm.
Nguyễn Trường Giang, Bùi Đức Giang, “Đi tìm triết lý thế chấp quyền tài sản
trong pháp luật Việt Nam”, tạp chí Ngân hàng số 7/2012.

Tác giả chủ yếu phân tích thế chấp quyền địi nợ trên cơ sở pháp lý của điều
22 Nghị định 163. Theo đó, tác giả tập trung bàn về quy định chưa rõ ràng về tính
đối kháng với bên có nghĩa vụ trả nợ trong nội dung quy định cung cấp thơng tin của
nghị định 163. Quyền địi nợ với bản chất là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
được phân tích dưới góc độ của quyền tài sản. Biện pháp thế chấp quyền địi nợ được
phân tích chung trong thế chấp quyền tài sản.
Bùi Đức Giang, (2013),”Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ”,
tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5 (301), trang 43-49
Tác giả tập trung phân tích quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là
quyền đòi nợ được quy định tại Nghị định 163, đối chiếu với các quy định tại BLDS
2005. Theo đó, tác giả phân tích các vấn đề liên quan về (1) Nguyên tắc chung về


8

phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, (2) Quyền đòi nợ được thế chấp
đến hạn trước nghĩa vụ được bảo đảm, (3) Nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn trước
quyền đòi nợ được thế chấp, (4) Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp.
Tác giả đã làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật về nguyên tắc
xử lý tài sản bảo đảm thông qua cơ chế bán đấu giá tài sản bảo đảm đối với trường
hợp tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Đồng thời, tác giả cũng phân tích những bất
cập của pháp luật trong các trường hợp thời điểm đến hạn nghĩa vụ được bảo đảm và
thời điểm đến hạn của quyền đòi nợ được thế chấp khác nhau, trường hợp xử lý lãi
phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp.
Bùi Đức Giang, (2012),”Quyền ưu tiên thanh tốn của bên nhận thế chấp
quyền địi nợ”, tạp chí Ngân hàng số 17 tháng 9/2012.
Trong bài viết này tác giả chủ yếu phân tích xung đột lợi ích của các bên tham
gia trong q trình xác lập giao dịch sử dụng biện pháp bảo đảm là quyền đòi nợ và
khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Cơ sở pháp lý của lý luận là BLDS 2005
và các quy định pháp luật liên quan

Vấn đề đặt ra là liệu việc thay đổi, điều chỉnh của nội dung pháp lý mới,
những tồn tại của những quy định pháp luật đối với biện pháp bảo đảm là thế chấp
quyền địi nợ có được điều chỉnh, thay đổi theo hướng phù hợp hơn không. Do vậy,
sẽ khơng vơ ích nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề cũ trên bình diện pháp lý mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Làm rõ những vấn đề về quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam đối
với biện pháp bảo đảm thế chấp quyền đòi nợ;
- Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thế
chấp quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay của các TCTD, phân tích những rủi ro
pháp lý và những khó khăn, bất cập khi áp dụng thế chấp quyền đòi nợ.


9

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật
hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về thế chấp
quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay của các TCTD;
- Kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện quy định của pháp luật về thế chấp quyền
đòi nợ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Việc xác lập biện pháp bảo đảm là thế chấp quyền đòi nợ được quy
định như thế nào trong pháp luật hiện hành của Việt Nam? Có bất cập về pháp lý nào
trong những quy định này không?
Câu hỏi 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm là
quyền đòi nợ tạo ra những hệ quả pháp lý cũng như rủi ro nào cho bên nhận thế chấp
quyền đòi nợ là các TCTD?
5. Giả thuyết nghiên cứu

(1) Các khoảng trống pháp lý của biện pháp bảo đảm là thế chấp quyền địi
nợ, hình thức, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo đảm này (nếu có).
(2) Rủi ro pháp lý cho bên nhận thế chấp quyền đòi nợ là TCTD.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về biện
pháp bảo đảm là thế chấp quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay của các TCTD.
Thông qua phân tích, đánh giá các chế định pháp luật hiện hành về thế chấp quyền
đòi nợ, tác giả kỳ vọng làm rõ những bất cập, những khoảng trống pháp luật về thế
chấp quyền địi nợ. Qua đó, tác giả mong góp một chút ý kiến trong q trình điều
chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật về thế chấp quyền địi nợ nhằm hồn thiện hơn
mơi trường pháp luật Việt Nam.


10

6.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên
quan đến thế chấp quyền đòi nợ; cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật liên
quan đến hoạt động cho vay của TCTD có thực hiện biện pháp bảo đảm là quyền địi
nợ, tìm hiểu các rủi ro pháp lý trong việc thực hiện biện pháp bảo đảm thế chấp
quyền đòi nợ
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, ở chương 1 tác giả chủ yếu sử dụng phương
pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp lịch sử nhằm làm rõ cơ sở lý luận chung của
đối tượng nghiên cứu; ở chương 2 tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
8. Kết cấu đề tài
Luận văn gồm có 02 chương sau:
Chương 1: Khái quát về biện pháp bảo đảm thế chấp quyền địi nợ.

Chương
kiến
nghị
2: hồn
Thực
thiện
trạng pháp luật
luật,về
thực
biện
tiễn
pháp
ápbảo
dụng
đảm
vàlà
một
thế
số
chấp
quyền
địi nợ.


CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THẾ CHẤP QUYỀN ĐỊI NỢ
1.1.
1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm quyền địi nợ

Khái niệm quyền đòi nợ.

Quyền đòi nợ được hiểu là "việc bên có quyền (gọi là chủ nợ) yêu cầu bên có
nghĩa vụ (gọi là người mắc nợ) trả cho mình một số tiền”10. Theo cách hiểu này
quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự về trả tiền
Trong lý thuyết vật quyền, quyền đòi nợ là quyền đối nhân, là quyền chống lại
hành vi của một người, gọi là người có nghĩa vụ11. Theo đó, quyền đòi nợ được thiết
lập bởi mối quan hệ giữa hai chủ thể là chủ nợ, người có quyền và người mắc nợ,
người có nghĩa vụ, gọi là trái quyền. Trong mối quan hệ giữa chủ nợ và người mắc
nợ, quyền đối nhân phát sinh hiệu lực có tính đối kháng tuyệt đối, nghĩa là chủ nợ chỉ
có quyền yêu cầu người mắc nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà khơng có quyền u
cầu người khác. Trái quyền được thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện, giao dịch
tự nguyện, người có nghĩa vụ tự nguyện hợp tác trả nợ, chủ nợ thực hiện quyền yêu
cầu người mắc nợ trả nợ. Chủ nợ không được tự động thu giữ tài sản của người mắc
nợ để trừ nợ.12
Trong quy định của luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ khơng có quy định
định nghĩa quyền địi nợ. Quyền địi nợ chỉ được liệt kê là một loại quyền tài sản
trong BLDS 1995, BLDS 200513 và các văn bản dưới luật. BLDS 2015 chỉ đề cập
đến quyền đòi nợ tại khoản 2 điều 450 về mua bán quyền tài sản. Từ quy định này,
BLDS 2015 gián tiếp xác định quyền đòi nợ là một quyền tài sản. Đối chiếu quy định
về quyền tài sản tại điều 115 BLDS 2015, ta có thể hiểu quyền địi nợ là một quyền
10
Nguyễn Ngọc Điện, giáo trình luật dân sự tập 2, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2018, tr 378.
11
Nguyễn Ngọc Điện (2009), Giáo trình Luật La Mã, Trường Đại học Cần Thơ, Nhà XB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.Tr 12..
12
Nguyễn Ngọc Điện (2005), “ Cần xây dựng lại khái niệm “Quyền tài sản” trong luật dân sự”,
tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2005; Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 2, Trường

Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, Tr 228.
13

Khoản 2 Điều 442 BLDS 1995, Điều 322 BLDS 2005.


tài sản khác.
Dưới góc độ lý thuyết vật quyền, các nhà nghiên cứu xác định quyền tài sản là
một khái niệm pháp lý của tài sản. Theo đó, tài sản được nhận biết là vật hoặc quyền.
Theo tiêu chí vật lý, tài sản là vật, có thể nhận biết bằng giác quan thì là vật hữu
hình, ngược lại là vật vơ hình. Theo góc độ là quyền tài sản, tài sản là quyền, quyền
được thực hiện trực tiếp trên một vật hữu hình mà khơng cần sự hỗ trợ của một
người nào khác gọi là quyền đối vật, quyền được thực hiện chống lại một người gọi
là quyền đối nhân. Trong đó, quyền chủ nợ được xem là quyền đối nhân điển hình.
Theo quy định của luật dân sự Pháp năm 1827, tài sản là một quyền hưởng
dụng và định đoạt đối với một vật có tính cách tuyệt đối miễn không vi phạm điều
cấm của pháp luật.14 Luật dân sự Pháp phân loại tài sản gồm hai loại, động sản và bất
động sản.15 Trong đó, tài sản là động sản do tính chất của nó hoặc do quy định của
pháp luật.16 Quyền tài sản trong luật pháp Anh - Mỹ (hệ thống thông luật - Common
Law) trong nội hàm khái niệm tài sản, bao gồm tài sản hữu hình (corporeal) và tài
sản vơ hình (incorporeal) và tài sản là một quyền.17
Khác với các loại tài sản khác, quyền tài sản khơng có hình thái vật chất như
các loại tài sản khác (vật, tiền, giấy tờ có giá). Học thuyết pháp lý chia động sản
thành 3 nhóm là động sản tự nhiên, động sản do bản chất kinh tế và động sản vơ
hình.18 Theo sự phân nhóm này thì quyền tài sản là động sản vơ hình.
Là quyền tài sản, theo phương pháp loại suy ta có thể xem quyền đòi nợ là
động sản theo quy định tại khoản 2 điều 107 BLDS 2015. Dưới góc độ pháp luật về
14
Điều 544 The Code Napoleon 1827 “Property is the right of enjoying and disposing of
things in the most absolute manner, provided they are not used in the way prohibited by the laws or statutes”.

15
Điều 516 The Code Napoleon 1827 “All property is moveable or immoveable.”
16
Điều 527 The Code Napoleon 1827 “Property is moveable in its nature or by the
determination of the law.”
17
Samantha Hepburn (2001), Principles of property law 2nd, Cavendish Publishing, New
South Wales, Australia “Property is used in the law in various senses to describe a range of legal and equitable
estates and interests, corporeal and incorporeal. Distinct corporeal and incorporeal property rights in relation to
the one object may exist concurrently and be held by different parties.”
“Property describes the relationship between an individual and an object or resource; it does not refer
to the object itself. The property relationship confers a legally enforceable right or, more accurately, a bundle
of rights entitling the holder to control an object or resource.”
18
Nguyễn Ngọc Điện, giáo trình luật dân sự tập 1, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2018, tr 237.


tài sản, quyền đòi nợ là một loại tài sản. Trong đó, quyền địi nợ là động sản vơ hình
mà người có quyền khơng được phép thực hiện một quyền gì đặc biệt trên một tài
sản đặc định.19 Quyền địi nợ được quy định trong Luật dân sự của Cộng hịa Pháp là
động sản vơ hình.20 Biện pháp bảo đảm cầm cố quyền đòi nợ được phân loại là biện
pháp bảo đảm đối vật (biện pháp bảo đảm đối nhân chỉ gồm bảo lãnh, bảo lãnh độc
lập và thư bảo trợ). Khái niệm động sản vơ hình hay tài sản vơ hình cho tới nay
khơng tồn tại trong pháp luật dân sự Việt Nam.
Dưới góc độ của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, nhiều quan điểm pháp luật
xem quyền đòi nợ là một quyền phát sinh từ hợp đồng giống như các quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng khác (quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt
hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn,
hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, vv...) được luật

pháp quy định. Quyền đòi nợ được hiểu là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực
hiện một cơng việc, cụ thể là phải thanh tốn một khoản tiền cho bên có quyền tại
một thời điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Quyền đòi nợ có thể được
thanh tốn khi bên có quyền u cầu hay khi phát sinh một sự kiện tương lai nhất
định mà các bên đã thỏa thuận.21 Về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu cho rằng quyền
đòi nợ là một quyền yêu cầu (Đỗ Văn Đại, 2014)22. Nói khác hơn, quyền địi nợ
mang tính chất hỗn hợp, vừa là một mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là
một loại tài sản (Bùi Đức Giang-2013)23. Do đó, mua bán quyền đòi nợ được xem là
một trường hợp đặc biệt của chuyển giao quyền yêu cầu (Nguyễn Ngọc Điện 2018).24
19
Nguyễn Ngọc Điện, giáo trình luật dân sự tập 1, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2018, tr 237.
20
ĐIỀU 2356 Luật dân sự Cộng hòa Pháp “ Việc cầm cố tài sản vơ hình là quyền địi nợ phải
được xác lập bằng văn bản, nếu khơng sẽ bị vơ hiệu.”
21
Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số
19/2013.
22
Đỗ Văn Đại (2014), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam,
bản án và bình luận bản án, tập 1, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Tr. 771.
23
Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số
19/2013.
24
Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 1, tập 2, Trường Đại học Mở TP. Hồ
Chí
Minh, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, Tr.378.



Về bản chất, quyền đòi nợ được thiết lập bởi mối quan hệ giữa hai chủ thể là
chủ nợ và người mắc nợ, mối quan hệ này thông thường là quan hệ dân sự trong hợp
đồng song vụ. Trong đó, quyền đòi nợ là quyền phát sinh khi một bên có nghĩa vụ
thanh tốn khi đến hạn và một bên có quyền u cầu thanh tốn theo điều khoản
thanh tốn được thỏa thuận giữa các bên tham gia giao dịch.
Do vậy, nội dung quy định tại khoản 4 điều 22 Nghị định 163 25 và khoản 11
điều 1 Nghị định 11-2012 bổ sung điều 22 của Nghị định 163 26 đã xác định việc
chuyển giao quyền đòi nợ là chuyển giao quyền yêu cầu. Theo quy định của BLDS
2015, chuyển giao quyền yêu cầu là một nội dung về nghĩa vụ và hợp đồng, được
quy định tại điều 365 và 368.
Cũng trên tinh thần đó, quy định tại khoản 7 điều 6 Thơng tư 08-2018, quyền
địi nợ được xác định là quyền tài sản theo quy định tại điều 115 BLDS 2015 gồm (i)
quyền đòi nợ, (2i) quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp
vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng
cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với
cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong
dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; (3i) quyền đòi nợ phát
sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh
doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua cơng trình xây dựng giữa tổ chức
với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
trong dự án xây dựng cơng trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động
sản.27
Tuy nhiên, ngoài quy định mua bán quyền tài sản là quyền đòi nợ quy định tại
khoản 2 điều 450 BLDS 2015, khơng có quy định nào của luật Dân sự xác định
25
Khoản 4 Điều 22 Nghị định 163 “4. Trong trường hợp quyền đòi nợ được chuyển giao theo
quy định tại Điều 309 Bộ luật Dân sự thì thứ tự ưu tiên giữa bên nhận chuyển giao quyền đòi nợ và bên nhận
thế chấp quyền đòi nợ được xác định theo thời điểm đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm có thẩm quyền.”
26

khoản 11 điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ““5. Trong trường hợp quyền đòi nợ được
chuyển giao theo quy định tại Điều 313 Bộ luật Dân sự thì các bên khơng phải ký kết lại giao dịch bảo đảm.
Khi thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật thì bên nhận chuyển
giao quyền địi nợ xuất trình hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ để chứng minh sự thay đổi.”
27
Khoản 7 điều 6 Thông tư 08/2018/TT-BTP.


quyền đòi nợ là quyền yêu cầu hay là quyền phát sinh từ hợp đồng. Do vậy, việc
hướng dẫn thực hiện BLDS 2015 của Thơng tư 08-2018 về quyền địi nợ chưa bám
sát quy định của BLDS 2015.
Với quan điểm lý luận xem quyền đòi nợ là quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng, quyền đòi nợ được hiểu là một quyền u cầu mang tính chắc chắn có thể
được thực thi trong khi quyền phát sinh từ hợp đồng là quyền yêu cầu ít chắc chắn
hơn, phụ thuộc vào các tình huống nhất định để chuyển một quyền tiềm năng thành
một quyền có thể thực thi được. Quyền phát sinh từ hợp đồng bao gồm rất nhiều loại
quyền, chẳng hạn như quyền chọn (options), quyền phát sinh từ một hợp đồng cho
thuê tàu biển, quyền phát sinh từ vận đơn, quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ,vv...28
Theo quy định của Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư
Pháp (đã hết hiệu lực ngày 20/4/2011), quyền đòi nợ cịn được phân loại là quyền địi
nợ hiện có hoặc quyền địi nợ hình thành trong tương lai29. Ngồi ra, nội dung khoản
1 điều 22 Nghị định 163 đề cập đến quyền địi nợ hình thành trong tương lai trong
quy định về phạm vi bảo đảm thế chấp quyền địi nợ.
Quyền địi nợ hiện có: Về mặt lý thuyết, cơ sở lý luận để xây dựng khái
niệm tài sản hiện có dựa trên hai yếu tố hình thành tài sản và xác lập quyền sở hữu
tài sản, hay nói cách khác là yếu tố vật lý và yếu tố pháp lý của tài sản. Trong trường
hợp tài sản là tài sản hữu hình, yếu tố vật lý là hình thái vật chất có thể nhận dạng
được. Trong trường hợp tài sản là vật vơ hình (tài sản trí tuệ chẳng hạn) thì yếu tố vật
lý của tài sản là tập hợp các ý niệm xây dựng nên việc nhận dạng, phân biệt với các

tài sản vơ hình khác.30
Theo quy định tại khoản 1 điều 108 BLDS 2015, tài sản hiện có là tài sản đã
28
Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số
19/2013.
29
Điểm d mục 1.1 phần I Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư Pháp Hướng dẫn
về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thơng tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng
thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ. (hết hiệu lực ngày
20/4/2011).
30
Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 1 Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr 246.


hình thành (đủ yếu tố vật lý) và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu tài sản, quyền khác
đối với tài sản (yếu tố pháp lý). Trường hợp quyền địi nợ là quyền địi nợ hiện có thì
quyền địi nợ cũng phải hội tụ đủ 2 yếu tố nêu trên. Quyền địi nợ hình thành do giao
dịch dân sự mà có, khi giao dịch đủ điều kiện có hiệu lực theo điều 117 BLDS 2015.
Quyền địi nợ hình thành trong tương lai: Theo phương pháp suy lý
nghịch, tài sản thiếu một trong 2 yếu tố nêu trên (vật lý, pháp lý) tại thời điểm giao
dịch thì được phân loại là tài sản hình thành trong tương lai.31 Tuy nhiên, đối chiếu
các đặc điểm của Tài sản hình thành trong tương lai theo quy định tại khoản 2 điều
108 BLDS 2015 thì quyền địi nợ hình thành trong tương lai có vẻ như khơng phù
hợp về các tiêu chí xác định .
Theo liệt kê của khoản 2 điều 108 BLDS 2015 thì tài sản hình thành trong
tương lai gồm 2 loại tài sản, loại tài sản chưa hình thành (thiếu yếu tố vật lý) nhưng
đã xác lập quyền sở hữu tại thời điểm giao dịch (điểm a), loại tài sản đã hình thành
nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch (thiếu
yếu tố pháp lý) (điểm b). Với quy định trên của điều 108 BLDS 2015 thì các quy

định về tài sản hình thành trong tương lai của các văn bản dưới luật triển khai BLDS
2005 đã khơng cịn phù hợp.32 Điều đáng nói là các văn bản dưới luật này hiện vẫn
còn hiệu lực thực hiện, gây khá nhiều lúng túng cho việc áp dụng pháp luật trong
một số hoạt động của của các ngành liên quan, trong đó có hoạt động cho vay của
các TCTD.
Theo quy định tại khoản 2 điều 108 BLDS 2015, 33 trong trường hợp quyền
31
Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 1 Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr 247.
32
khoản 2 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 27/01/2007, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày
23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 09 tháng 9 năm 2010 và Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10/4/2012.
33
Khoản 2 điều 108 BLDS 2015 “2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:
a)

Tài sản chưa hình thành;

b) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch”.


địi nợ là quyền địi nợ hình thành trong tương lai thì quyền địi nợ có thể là quyền
địi nợ chưa hình thành hoặc quyền địi nợ đã hình thành nhưng chủ thể xác lập
quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch. Việc dựa vào tiêu chí xác định
quyền địi nợ hình thành trong tương lai theo quy định tại khoản 2 điều 108 BLDS
2015 thật không thể dễ dàng trong thực tế do tài sản hình thành trong tương lai này
thích hợp hơn với các tài sản hữu hình, và theo ý kiến luật gia là “có vẻ khá trùng lặp

và chưa bao quát hết các loại tài sản có thể coi là tài sản tương lai, đặc biệt là các
quyền tài sản.”34
Ở một góc nhìn khác, quyền địi nợ hình thành trong tương lai được xem là
một quyền yêu cầu tương lai. Nội dung quy định tại khoản 4 điều 22 Nghị định 163 35
và khoản 11 điều 1 Nghị định 11-2012 bổ sung điều 22 của Nghị định 163 36 đã xác
định việc chuyển giao quyền đòi nợ là chuyển giao quyền yêu cầu. BLDS 2005 cũng
như BLDS 2015 khơng có quy định nào đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu hình
thành trong tương lai. Quy định tại điều 309, điều 313 BLDS 2005 được thay thế
bằng điều 365, điều 368 BLDS 2015 chỉ quy định đối với việc chuyển giao quyền
yêu cầu hiện hữu. Ý kiến nhà nghiên cứu luật Bùi Đức Giang cho rằng khi chuyển
giao một quyền yêu cầu tương lai thì bên chuyển giao sẽ gặp khó khăn là không thể
thực hiện việc thông báo về việc chuyển giao cho bên có nghĩa vụ quy định tại khoản
2 điều 309 BLDS 2005 trong khi đây lại là điều kiện để đảm bảo tính đối kháng của
giao dịch chuyển giao đối với bên có nghĩa vụ. Quyền địi nợ tương lai là quyền đòi
nợ chưa trở thành tài sản của bên thực hiện giao dịch. Nó có thể cịn chưa phát sinh
do giao dịch hay sự kiện pháp lý có thể làm phát sinh quyền địi nợ này cịn chưa
diễn ra. Đồng thời, một khoản nợ được thỏa thuận thanh toán trong tương lai theo
điều khoản của một hợp đồng đã được ký kết là một quyền đòi nợ hiện tại chứ khơng
34

Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số

19/2013.
35
Khoản 4 Điều 22 Nghị định 163 “4. Trong trường hợp quyền đòi nợ được chuyển giao theo
quy định tại Điều 309 Bộ luật Dân sự thì thứ tự ưu tiên giữa bên nhận chuyển giao quyền đòi nợ và bên nhận
thế chấp quyền đòi nợ được xác định theo thời điểm đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm có thẩm quyền.”
36
khoản 11 điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ““5. Trong trường hợp quyền đòi nợ được

chuyển giao theo quy định tại Điều 313 Bộ luật Dân sự thì các bên khơng phải ký kết lại giao dịch bảo đảm.
Khi thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật thì bên nhận chuyển
giao quyền địi nợ xuất trình hợp đồng chuyển giao quyền địi nợ để chứng minh sự thay đổi.”


phải là một quyền đòi nợ tương lai do giao dịch đã thực hiện. 27 37
Tuy nhiên, việc cho rằng quyền đòi nợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng
nơi doanh nghiệp mở tài khoản và thế chấp tài khoản giao dịch của mình để vay vốn
ngân hàng là một quyền địi nợ tương lai thì chưa hợp lý và dường như mâu thuẫn
với lập luận về sự kiện pháp lý phát sinh quyền địi nợ nêu trên của chính tác giả.
Việc xử lý tài sản bảo đảm không phải là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền đòi nợ
tương lai dù nó cho phép ấn định số dư tài khoản thế chấp (giá trị của quyền đòi nợ)
và chưa diễn ra vào thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Bởi lẽ quyền đòi nợ đã
phát sinh từ hợp đồng dân sự về tiền gửi giữa doanh nghiệp và ngân hàng tại thời
điểm mở tài khoản gửi tiền.
Dưới góc độ là một quyền yêu cầu, nhà nghiên cứu luật Bùi Đức Giang cho
rằng một quyền đòi nợ tương lai là một quyền địi nợ có điều kiện, sự kiện pháp lý
làm phát sinh nghĩa vụ chính là điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng,
ví dụ như quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.38
Tuy nhiên, theo thiển ý người viết thì sự kiện pháp lý khơng làm phát sinh
quyền địi nợ mà đó là điều kiện thực hiện quyền địi nợ. Quyền đòi nợ phát sinh từ
hợp đồng, chẳng hạn như hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nêu trên đã được xác định từ
thời điểm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực và việc thực hiện quyền địi nợ
này được thực hiện trong tương lai khi sự kiện pháp lý phát sinh (trường hợp người
được bảo hiểm chết trong thời hạn quy định trong hợp đồng hoặc thời điểm kết thúc
hợp đồng theo thỏa thuận). và quyền đòi nợ trong trường hợp này vẫn là quyền đòi
nợ hiện có được thực hiện có điều kiện trong tương lai chứ khơng phải là quyền địi
nợ hình thành trong tương lai.
Cũng theo ý kiến các nhà nghiên cứu, “Trong hợp đồng song vụ thì quyền địi
nợ chỉ thực sự phát sinh khi một bên đã hoàn thành toàn bộ hay một phần nghĩa vụ

của mình trước chủ thể phía bên kia. Giá trị của quyền đòi nợ cũng như hiệu lực của
37

Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số

38

Bùi Đức Giang, (2013),”Giao dịch có đối tượng quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng số

19/2013.
19/2013.


nó phụ thuộc vào tính tồn vẹn (khơng tỳ vết) của nghĩa vụ mà họ đã thực hiện.” 39
Điều này cho thấy một số nhà nghiên cứu luật hiện nay tại Việt Nam chỉ thừa nhận
quyền địi nợ hiện có, ở một góc độ nào đó nhiều ý kiến của họ về quyền địi nợ hình
thành trong tương lai do vậy có tính gượng ép và khiên cưỡng.
Điều này càng cho thấy quy định quyền đòi nợ tương lai đưa đến một tình
trạng khá lúng túng khi thực hiện thế chấp hay chuyển giao quyền địi nợ tương lai
do khơng có quy định định nghĩa nào rõ ràng cho quyền tài sản này.
Ngồi ra việc mơ tả quyền địi nợ tương lai theo quy định cũng là một việc
không dễ dàng trong thực tế áp dụng trong việc xác định một đối tượng chưa hình

39
Bùi Đức Giang,Vũ Thị Hồng Yến (2013),'Tính đối kháng của các phương tiện phịng vệ của
bên có nghĩa vụ trả nợ trong giao dịch thế chấp quyền địi nợ”, tạp chí Ngân hàng số 15 tháng 8/2013, tr 6.


20


thành. Khoản 2 điều 276 BLDS 2015 quy định “Đối tượng của nghĩa vụ phải được
xác định”. Khơng có quy định riêng cho việc mơ tả chung về quyền địi nợ hình
thành trong tương lai là tài sản bảo đảm trong giao dịch bảo đảm, vấn đề sẽ được đề
cập cụ thể ở chương 2 của luận văn.
Ngoài ra, nội dung quy định của Thông tư liên tịch 16-2014 về xử lý tài sản
bảo đảm đã quy định một điều khoản riêng về xử lý tài sản hình thành trong tương
lai (điều 8) khác với quy định về xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ (điều 7). Quy
định này chỉ chủ yếu dành cho tài sản hình thành trong tương lai là bất động sản, nhà
ở thương mại hình thành trong tương lai. Điều đó cho thấy các nhà làm luật Việt
Nam vẫn khơng xem quyền địi nợ hình thành trong tương lai là tài sản hình thành
trong tương lai.
31
Đốibàn
chiếu
Luật
dân
sự
Pháp,
ta
thấy
khái
niệm
quyền
địi
nợ
nợ,
trong
đã
đó
được

quyền
đề
địi
cập
nợ
đến
được
trong
xem
nội

tài
dung
sản
cầm

cố
hình.
quyền
Bộ
địi
luật
tương
dân
lai
sự
thì
Pháp
văn
quy

bản
định
cầm
cố
nếu
phải
cầm

cố
thể
quyền
hóa
địi
quyền
nợ

địi
tài
nợ
sản
hoặc
như
thơng

những
tin
thơng
về
người
tin


cho
nghĩa
phép
vụ,

nơi
thể
hóa
thanh
quyền
tốn,
địi
số
nợ
tiền
đó
thanh
thời,
tốn,
quyền
phương
của
người
thức

định
quyền
giá
nhận


thời
cầm
cố
hạn
quyền
thanh
địi
tốn.
nợ
tương
Đồng
vậy,
được
khái
xác
niệm
lập
quyền
ngay
địi
khi
nợ
tương
lai
khơng
đó
hình
phải
thành.


một
Như
khái
niệm
thấy
mới
quyền
trong
địi
nợ
pháp
tương
luật
lai
dân
của
sự.
pháp
Tuy
luật
nhiên,
dân
qua
sự
đối
Pháp
chiều
được
ta

quy
nội
định
dung
khá
BLDS
cụ
2015
thể
hiện


hành
ràng,
của
điều
Việt

Nam.
ta
Trong
chưa
thấy
khi
trong
đó,
các
văn
nợ
hình

bản
dưới
thành
luật
trong
cũng
tương
chưa
lai”
triển

cũng
khai
chưa
khái

niệm
quy
“quyền
định
địi
cụ
thể
đề
nào
luận
về
quyền
liên
địi

quan
nợ
đến
hình
quyền
thành
địi
trong
nợ
hình
tương
thành
lai.
trong
Mọi
vấn
lai
như
đã
nêu
trên
vẫn
chỉ
dừng
lại

cách
hiểu,
cách
suy


31

Điều 2356 và điều 2357 Bộ luật dân sự Pháp.


21

luận của từng cá nhân, do đó vẫn tồn tại khá nhiều khoảng cách trong tiếp cận với
vấn đề này.
1.1.2.

Đặc điểm của quyền đòi nợ.

Là quyền tài sản, quyền đòi nợ có hai đặc điểm của quyền tài sản là (1) trị giá
được bằng tiền và (2) có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự theo quy định của
BLDS 2005.40 Tuy nhiên, đặc điểm của quyền đòi nợ vẫn có những đặc thù riêng do
vừa có tính chất tài sản vừa mang tính chất của nghĩa vụ trong một quan hệ giao dịch
dân sự của quyền đòi nợ.
1.1.2.1. Quyền đòi nợ là một quyền tài sản trị giá được bằng tiền.
Quyền trị giá được bằng tiền được hiểu là quyền địi nợ phải có giá trị kinh tế
nhất định41. Nói khác hơn, quyền trị giá được bằng tiền là khả năng định giá bằng
tiền tệ của quyền đòi nợ. Tính định giá được bằng tiền theo học thuyết pháp lý là một
cách tiếp cận để xác định tài sản dưới hai cách tiếp cận khác nhau - tài sản hoặc là
vật hoặc là quyền, khơng có giá trị kinh tế thì vật hay quyền khơng được xem là tài
sản. Dưới góc độ là vật, tài sản phải thỏa mãn nhu cầu sử dụng của con người và
được định giá bằng tiền trong trao đổi.
Quyền đòi nợ là một quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng. Trong hầu hết giao
dịch, đối tượng của quyền đòi nợ là một khoản tiền. Do đó, giá trị quyền địi nợ
thường được thỏa thuận xác định thông qua hợp đồng, việc định giá quyền đòi nợ

trong trường hợp là tài sản bảo đảm thông qua tổ chức định giá theo quy định tại điều
306 BLDS 2015 có thể khơng phù hợp.
Vấn đề định giá quyền địi nợ như nêu trên có thể dễ dàng đối với quyền địi
nợ hiện có, nhưng với quyền địi nợ hình thành trong tương lai thì khác. Vấn đề xác
định trị giá của quyền địi nợ hình thành trong tương lai do sự không rõ ràng trong
khái niệm và quy định lại là việc gây khó khăn cho các bên trong giao dịch có liên
quan.
40
Điều 181 BLDS 2005.
41
Nguyễn Trường Giang, Bùi Đức Giang, “Đi tìm triết lý thế chấp quyền tài sản trong pháp
luật Việt Nam”, tr 1.


22

1.1.2.2.

Quyền địi nợ có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự.

Quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005 chỉ quy định về khả năng chuyển
giao trong giao dịch dân sự của quyền tài sản. Quyền tài sản theo quy định tại Điều
188 BLDS 1995 là “có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự”. Điều đó cho phép
hiểu luật thừa nhận không phải tất cả quyền tài sản đều có thể chuyển giao trong giao
dịch dân sự. Tương tự, điều 181 BLDS 2005 quy định định nghĩa về quyền tài sản
“có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự” (thay từ “giao lưu” trong BLDS 1995
thành từ “giao dịch”) và sự thừa nhận về khả năng chuyển giao của quyền tài sản là ở
mức tương đối. Tuy nhiên, thay vì quy định chung chung như BLDS 1995, BLDS
2005 liệt kê danh sách cụ thể những quyền tài sản nào được dùng để bảo đảm nghĩa
vụ dân sự.42 Đến BLDS 2015, quyền tài sản chỉ còn quy định đặc điểm là quyền trị

giá được bằng tiền. Điều 115 BLDS 2015 quy định “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Với quy định của điều 115 BLDS 2015,
quyền tài sản vẫn mang đặc điểm có thể được chuyển giao trong giao dịch dân sự mà
không cần xác định lại trong quy định do đã được quy định ở các quy định khác
trong BLDS 2015. Giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. 43 Là quyền tài sản, quyền địi nợ mang đặc điểm có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự.
Quyền có giá trị tài sản được chia làm ba nhóm: (1) quyền tài sản gắn với
nhân thân và khơng thể chuyển giao, ví dụ như quyền được cấp dưỡng; (2) quyền
được chuyển giao có điều kiện, ví dụ như quyền tài sản đối với phần vốn góp công
ty; (3) quyền tài sản được chuyển giao không hạn chế trong giao dịch dân sự.44 Là
một quyền tài sản, quyền địi nợ thuộc nhóm (2) hoặc nhóm (3), nghĩa là quyền địi
nợ có thể là quyền địi nợ có điều kiện hoặc quyền địi nợ được chuyển giao khơng
hạn chế trong giao dịch dân sự. Việc chuyển giao quyền đòi nợ trong giao dịch dân
sự mang một đặc thù riêng. Nó vừa có thể là chuyển giao quyền yêu cầu vừa có thể
42
Điều 322 BLDS 2005.
43
Điều 130 BLDS 1995, điều 121 BLDS 2005, điều 116 BLDS 2015.
443636 Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 2, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, Tr 228.


23

là mua bán quyền đòi nợ theo quy định của pháp luật.
Với việc xem quyền đòi nợ là một quyền u cầu, trường hợp chuyển giao
quyền địi nợ mang tính chất chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 4
điều 22 Nghị định 163 và khoản 11 điều 1 Nghị định 11-2012 sửa đổi bổ sung Nghị

định 163, việc chuyển giao thực hiện theo điều 309, điều 313 BLDS 2005, được thay
thế bằng điều 365, điều 368 BLDS 2015. Việc chuyển giao quyền đòi nợ được thực
hiện theo hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ. Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ
là loại hợp đồng được quy định phải đăng ký tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài
sản.45 Chuyển giao quyền đòi nợ theo quy định của chuyển giao quyền u cầu thì
việc chuyển giao khơng cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ nhưng bên chuyển
giao phải thơng báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản và chuyển giao giấy tờ có
liên quan cho bên thế quyền. Sau khi chuyển giao quyền địi nợ, bên chuyển giao
khơng chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. 46 Ngồi ra,
việc chuyển giao quyền địi nợ mang tính chất chuyển giao toàn bộ bao gồm cả biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của quyền đòi nợ 47. Trong một số trường hợp,
quyền địi nợ được chuyển giao có thể đã đến hạn hoặc chưa đến hạn, hoặc có thể là
quyền địi nợ có điều kiện theo quy định về thực hiện nghĩa vụ có điều kiện.48
Trong trường hợp quyền đòi nợ là tài sản thế chấp được chuyển giao, việc xác
nhận thứ tự ưu tiên giữa bên nhận chuyển giao quyền đòi nợ và bên nhận thế chấp
quyền đòi nợ được xác định theo thời điểm đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền.49 Khi quyền yêu cầu được chuyển giao thì
người có quyền u cầu khơng cịn sở hữu quyền yêu cầu nữa 50 nên chuyển giao
quyền yêu cầu cũng như chuyển giao quyền đòi nợ là chuyển giao quyền sở hữu.
Do đặc điểm (2) nên quyền đòi nợ được phép mua bán. Quyền đòi nợ là
quyền tài sản có thể chuyển giao khơng hạn chế trong giao dịch dân sự, do đó mua
45
Điểm c khoản 2 điều 5 Thông tư 08/2018/TT-BTP.
46
Điều 365, điều 366, điều 367 BLDS 2015.
47
Điều 368 BLDS 2015.
48
Điều 284 BLDS 2015.
49

Khoản 4 điều 22 Nghị định 163.
50
Đỗ Văn Đại (2014), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam,
bản án và bình luận bản án, tập 1, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 771.


24

bán quyền đòi nợ thực chất là chuyển giao quyền yêu cầu. Mua bán quyền đòi nợ
được xem là trường hợp đặc biệt của việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đối tượng
mua bán là quyền đòi nợ và việc chuyển giao mang đầy đủ tính chất của một hợp
đồng mua bán.51.
Mua bán quyền đòi nợ được quy định qua các thời kỳ của các BLDS Việt
Nam lần lượt là tại khoản 2 điều 442 BLDS 1995, khoản 2 điều 449 BLDS 2005 và
khoản 2 điều 450 BLDS 2015 trong nội dung quy định về mua bán quyền tài sản.
Quy định về mua bán quyền tài sản cũng như quyền đòi nợ trong BLDS 2015
được quy định trong nội dung mục hợp đồng mua bán tài sản tại điều 450. Do vậy,
hợp đồng mua bán quyền đòi nợ chịu sự chi phối chung của quy định pháp luật dân
sự về hợp đồng mua bán về giao kết hợp đồng, hiệu lực hợp đồng và các quy định cụ
thể về hợp đồng mua bán tài sản. Hợp đồng mua bán quyền đòi nợ là căn cứ pháp lý
chuyển giao quyền sở hữu quyền đòi nợ. Thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối
với quyền đòi nợ là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu
hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định.52
Trong thực tế hoạt động các TCTD, việc mua bán quyền đòi nợ được áp dụng
trong trường hợp xử lý nợ xấu bằng biện pháp mua bán nợ giữa các TCTD và công
ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) 53, và giữa các TCTD với Công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc TCTD (AMC) hoặc giữa các TCTD và
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ54. Quyền đòi nợ, đối tượng của các hợp
đồng mua bán nợ trong trường hợp này là quyền địi nợ có biện pháp bảo đảm phát
sinh từ nghiệp vụ cho vay.55 Các TCTD trong hoạt động cho vay là bên cho vay đồng

thời là bên nhận thế chấp tài sản bảo đảm đã bán quyền địi nợ của mình cho VMAC,
51
Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật dân sự tập 2, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr 378.
52
Khoản 3 Điều 450 BLDS 2015.
53 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/05/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của
Công ty Quản lý tài sản.
54
Điều 2 Nghị định 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016.
55 Khoản 1 điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN '“Mua, bán nợ là thỏa thuận bằng văn bản về
việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản trả thay trong nghiệp
vụ bảo lãnh, theo đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán
từ bên mua nợ.”


25

AMC hoặc doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. Sau khi chuyển giao
quyền địi nợ thì TCTD chấm dứt quyền sở hữu quyền đòi nợ với khách hàng vay.
Do vậy, việc mua bán nợ giữa TCTD và các chủ thể có chức năng mua bán nợ, thực
chất là chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo
điều 368 BLDS 2015.
Tuy nhiên, một số quan điểm tố tụng của các tòa án lại xem việc mua bán nợ
của các TCTD với VAMC là chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm.Ngồi ra,
quan điểm về căn cứ phát sinh quyền đòi nợ đối với quyền đòi nợ được mua bán
trong cơ quan tố tụng cũng khác nhau. Việc nhận thức khác nhau về chuyển giao
quyền đòi nợ trong giao dịch dân sự thực tế như ví dụ nêu trên có thể đến từ nguyên
nhân các quy định pháp luật liên quan đến quyền đòi nợ còn khá sơ sài và chung
chung.

1.1.3. Điều kiện của tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
1.1.3.1. Điều kiện về tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
Xét về lý thuyết hợp đồng, quyền đòi nợ là quyền đối nhân, là quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ trả tiền của bên có quyền đối với bên có nghĩa vụ trả nợ. Đồng
thời, ở góc độ lý thuyết về tài sản, quyền đòi nợ được xem là một loại tài sản. Luật
pháp dân sự Việt Nam vừa thừa nhận quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu, thừa nhận
giao dịch chuyển giao quyền đòi nợ là chuyển giao quyền yêu cầu,56 vừa thừa nhận
quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản.57 Quyền đòi nợ là quyền tài sản, do vậy
quyền đòi nợ là tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 105 BLDS 2015.
Để trở thành tài sản bảo đảm, quyền đòi nợ phải đáp ứng quy định về tài sản
bảo đảm theo quy định tại điều 295 BLDS 2015. Theo quy định tại điều 295 BLDS
2015 một tài sản là tài sản bảo đảm trong một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được liệt
kê tại điều 292 BLDS 2015 khi đáp ứng hai điều kiện: (i) thuộc quyền sở hữu của
bên bảo đảm (ngoại trừ trường hợp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu). (2i) có
thể được mơ tả chung, nhưng có thể xác định được.
56
57

Khoản 4 điều 22 Nghị định 163, khoản 11 điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CPG.
Điều 450 BLDS 2015.


×