Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Thừa kế thế vị trong pháp luật dân sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.43 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
•••

PHẠM NGUYỄN KIM LONG

THỪA KẾ THẾ VỊ TRONG PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
••••

TP HỒ CHÍ MINH - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
•••

Phạm Nguyễn Kim Long

THỪA KẾ THẾ VỊ TRONG PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự Mã
số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
••••

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY



TP HỒ CHÍ MINH - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi tên là Phạm Nguyễn Kim Long, học viên lớp Cao học Luật khóa 18, chuyên
ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu
của riêng tơi, được thực hiện với sự hướng dẫn của TS Nguyễn Đình Huy. Những
thơng tin tơi đưa ra trong luận văn là trung thực, có trích dẫn nguồn tham khảo đầy đủ.
Những phân tích, kiến nghị được tơi đề xuất dựa trên quá trình tìm hiểu, nghiên cứu
của cá nhân và chưa từng được cơng bố trong các cơng trình trước đó.
Tác giả luận văn

Phạm Nguyễn Kim Long


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
HN&GĐ

Bộ luật Dân sự
Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa
Hơn nhân và gia đình

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TPHCM


Thành phố Hồ Chí Minh

CHXHCN


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ 7
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ 7
1.1.1 Khái niệm về thừa kế thế vị

7

1.1.2 Ý nghĩa của quy định về thừa kế thế vị

8

1.2 CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ THẾ VỊ

11

1.2.1 Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường

11

1.2.1.1 Cháu hưởng di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại 11
1.2.1.2 Chắt hưởng di sản của cụ nội, cụ ngoại

12


1.2.2 Thừa kế thế vị trong một số trường hợp đặc biệt

13

1.2.2.1 Thừa kế thế vị có nhân tố con ni

13

1.2.2.2 Thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ kế

17

1.2.2.3 Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học

18

1.3 ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ THẾ VỊ 21
1.3.1 Người thừa kế thế vị tồn tại vào thời điểm mở thừa kế

22

1.3.2 Người thừa kế thế vị và người được thừa kế thế vị không từ chối nhận di sản

23

1.3.3 Người thừa kế thế vị và người được thừa kế thế vị khơng thuộc trường hợp khơng
có quyền hưởng di sản

25


1.3.4 Người thừa kế thế vị và người được thừa kế thế vị không bị truất quyền hưởng di
sản

27

1.3.5 Người được thế vị và người thừa kế thế vị phải là người cùng huyết thống, trực hệ,
bề dưới của người để lại di sản 28
1.3.6 Người được thế vị chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản 29
1.3.7 Thừa kế thế vị chỉ phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống hoặc ni
dưỡng 29
1.4 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THẾ
VỊ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.4.1 Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1990 31

30


1.4.2 Giai đoạn từ sau năm 1990 đến năm 2005 34
1.5 THỪA KẾ THẾ VỊ THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC

38

1.5.1 Thừa kế thế vị theo pháp luật của Cộng hòa Pháp

38

1.5.2 Thừa kế thế vị theo pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức

39


1.5.3 Thừa kế thế vị theo pháp luật của Hà Lan

40

Kết luận Chương 1 43 CHƯƠNG 2: NHỮNG VƯỚNG MẮC CỦA QUY ĐỊNH VỀ
THỪA KẾ THẾ VỊ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN 44
2.1 CÁC TRƯỜNG HỢP HƯỞNG THỪA KẾ 44
2.1.1 Thừa kế thế vị có nhân tố con ni

44

2.1.2 Thừa kế thế vị của con riêng với cha dượng, mẹ kế

48

2.1.3 Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học

51

2.2 VẤN ĐỀ THỪA KẾ THẾ VỊ KHI KHƠNG CỊN NGƯỜI THUỘC HÀNG
THỪA KẾ THỨ NHẤT 53
2.3 VIỆC MỞ RỘNG THẾ HỆ CON, CHÁU ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ THẾ VỊ
57
2.4 VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ ĐỐI VỚI PHẦN DI SẢN CỦA NGƯỜI THỪA KẾ
NHƯNG KHÔNG CÓ QUYỀN HƯỞNG DI SẢN, TỪ CHỐI QUYỀN HƯỞNG DI
SẢN58
Kết luận Chương 2

63


KẾT LUẬN

64

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật dân sự nói chung và các quan hệ về thừa ke nói riêng xuất hiện từ thời
kỳ sơ khai của xã hội lồi người. Trong đó, quyền sở hữu và quyền thừa ke đã xuất hiện
như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh te, giữa chúng có
mối liên quan ràng buộc, qua lại với nhau 14. Có thể nói sở hữu phản ánh mối quan hệ
giữa các chủ thể với nhau trong việc chiếm giữ những của cải vật chất, từ đó khi chủ thể
chết đi thì có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể đã chết cho chủ thể khác còn sống vừa
mang tính chất xã hội, văn hố, vừa mang tính chất pháp lý. Hai mối quan hệ này gắn
liền với nhau một cách chặt chẽ, sở hữu là nhân tố đầu tiên, tiền đề cho thừa ke xuất
hiện.
Chính từ lý do đó việc pháp luật ghi nhận quyền thừa ke bên cạnh nhóm quyền sở
hữu tài sản đã bảo vệ rất tốt cho quyền lợi của các chủ thể. Xây dựng các quy định pháp
luật nhằm bảo vệ quyền để lại thừa ke và quyền thừa ke là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ
của bất kỳ Nhà nước nào trong q trình quản lý xã hội. Chính vì lý do đó, hồn thiện
các quy định pháp luật về che định thừa ke là điều cần thiết.
So sánh với quy định của Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) năm 2005,
BLDS năm 2015 khơng có nhiều sự thay đổi trong che định thừa ke, những điểm sửa
đổi về nội dung tương đối hạn che, hầu như hướng đen hoàn thiện về mặt kỹ thuật.

Trong che định thừa ke, việc xác định người thừa ke theo pháp luật hiện nay của BLDS
năm 2015 vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Quy định về người thừa ke theo pháp luật Việt
Nam hiện nay dựa vào ba mối quan hệ, đó là quan hệ hơn nhân gia đình, quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh những người thừa ke trong các hàng thừa
ke. Các vấn đề về thừa ke the vị, đặc biệt là trường hợp thừa kế thế vị của con nuôi hiện
gặp phải một số bất cập trong thực tiễn và ngay cả dưới góc độ lý luận cũng có nhiều
quan điểm khác nhau. Trong đó, việc xác định trường hợp nào được thừa ke the vị có
14 Phùng Trung Tập (2002), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ
Luật học, tr. 7.


2

ảnh hưởng rất lớn đen việc phân chia di sản của người chết và quyền lợi của những
người thừa ke khác.
Trong các vấn đề nói trên, tác giả đặc biệt quan tâm đen thừa ke the vị, một dạng
thừa ke theo pháp luật, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, thừa ke the vị là một quy định được ghi nhận khá lâu đời trong lịch sử
hình thành che định về thừa ke ở Việt Nam. Tuy nhiên, dường như quy định này vẫn cịn
xa lạ với khá nhiều người. Vì vậy, việc nghiên cứu và làm rõ quy định này là một việc
làm cần thiết.
Thứ hai, quy phạm pháp luật điều chỉnh về thừa ke the vị rất ít, hiện nay vấn đề
này chỉ được ghi nhận tại duy nhất Điều 652 BLDS năm 2015 và khơng có bất kỳ văn
bản nào hướng dẫn áp dụng cho điều luật này. Vì vậy, tác giả cho rằng quy định này cần
phải được nghiên cứu chuyên sâu và từ đó cần thống nhất một cách hiểu từ lý luận đen
thực tiễn áp dụng luật.
Do vậy, từ những lý do trên mà tác giả cho rằng việc nghiên cứu và lựa chọn
“Thừa kế thế vị trong pháp luật Dân sự Việt Nam” để thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ
cho bản thân là phù hợp và cần thiết.
2. Tinh hình nghiên cứu

Qua nghiên cứu, tác giả được biết, các quy định về người thừa ke theo pháp luật
đã thu hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu luật học, những người làm công
tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể phân loại các cơng trình nghiên cứu này thành ba
nhóm lớn như sau:
* Nhóm các khóa luận, luận văn: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm
này có: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Che Mỹ Phương Đài về chủ đề Thừa kế
theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, năm 1997 và Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Lê Minh Hùng năm 2003, chủ đề Hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành, với đề tài này, các tác giả đã nghiên cứu, hệ thống
hóa các quy định thừa ke Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển qua các thời


3

kỳ để từ đó đánh giá nội dung những quy định về thừa ke theo pháp luật của công dân
Việt Nam. Hay luận án thạc sĩ luật học: Thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005
của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của các
quy định về thừa ke the vị qua các thời kỳ tại Việt Nam, tuy nhiên đề tài trên chỉ dừng
lại ở việc phân tích, bình luận các quy định về thừa ke the vị
* Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo: Trong nhóm này có thể kể đen một
số cơng trình tiêu biểu như:
+ Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt
Nam, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình Luật Dân sự, NXB Cơng an nhân dân;
+ Phùng Trung Tập (2008), Luật Thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, Hà Nội.
+ Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2012), Giáo trình Tài sản,
sở hữu, thừa kế, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam;
+ Hồng The Liên (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm
2005, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
+ Đỗ Văn Đại (2013), Luật Thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (Tập

1 và 2), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
* Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này có: tác giả Phùng Trung Tập với bài viết “Về các quy định thừa kế theo
pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm 1995: Những vướng mắc và giải pháp hồn thiện”
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 182 năm 2003; tác giả Nguyễn Văn Đông
năm 2013 có bài viết “Cần sửa đổi một số quy định của Bộ luật Dân sự về thừa kế theo
pháp luật” đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22; tác giả Phạm Thị Bích Phượng nghiên cứu
chủ đề “Một số vấn đề về thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ
kế”; tác giả Nguyễn Viết Giang có bài viết “Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật
Dân sự 2015 ” giới thiệu năm 2017 trên Tạp chí Nghề luật số 5.
Bên cạnh đó, các địa chỉ Website có vai trị khơng nhỏ trong việc cung cấp những


4

thông tin hỗ trợ, làm sáng tỏ các vấn đề quyền thừa ke và thừa ke the vị nói chung. Rất
nhiều địa chỉ Website thuộc sự quản lý của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam có độ tin cậy, sự chính xác, sự kiên định về mặt chính trị rất
thuyết phục. Ngồi ra, tác giả cỏn tổng hợp một số tài liệu nước ngoài để tiến hành phân
tích, so sánh tìm ra những kinh nghiệm học hỏi cho pháp luật Việt Nam về thừa ke the
vị. Song song đó, đề tài luận văn thạc sĩ được tác giả phân tích khơng chỉ dưới góc độ lý
luận mà cịn dưới góc độ thực tiễn xét xử thơng qua việc sưu tầm và tổng hợp những
bản án liên quan đen thừa ke the vị. Qua đó, tìm ra những khó khăn hạn che và đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế thế vị trong BLDS Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở những cơng trình đã được nghiên cứu cũng như tính cấp thiết của đề
tài, tác giả lựa chọn đề tài “Thừa ke the vị trong pháp luật dân sự Việt Nam” hướng đen
mục tiêu xây dựng một cơng trình nghiên cứu so sánh giữa pháp luật Việt Nam với một
số quốc gia trên the giới, trong đó chỉ ra những điểm giống và khác, đồng thời nêu ra

một số kiến nghị về lĩnh vực này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Cụ thể, đề tài nghiên cứu, phân tích những vấn đề sau:
- Khái quát, phân tích cơ sở lý luận chung về thừa ke the vị.
- Thơng qua việc phân tích, đánh giá để nêu ra những vướng mắc trong quy
định pháp luật Việt Nam về thừa kế thế vị.
- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện về quy định thừa ke the vị
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành về thừa
ke theo pháp luật và một số cơng trình nghiên cứu cũng như một vài vụ việc cụ thể
có liên quan đen thừa ke the vị.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả sẽ tập trung


5

nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật Việt Nam về thừa ke the
vị, trọng tâm quy định tại BLDS năm 2015. Ngoài ra, tác giả nghiên cứu các quy
định trong pháp luật của một số quốc gia về thừa ke the vị; có sự so sánh, đối chiếu
với pháp luật thừa ke của Việt Nam, qua đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn
lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định thừa ke the vị tại
BLDS năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp như:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: đây là phương pháp chủ yếu được tác
giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả sử
dụng để phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận, việc áp dụng các quy định pháp
luật về thừa ke the vị trong quy định của pháp luật cũng như trên thực tiễn của Việt
Nam và các nước được lựa chọn trong đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này sẽ
được sử dụng ở các chương của đề tài.

- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu lịch sử
hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thừa ke the vị theo pháp luật
của Việt Nam và một số quốc gia trên the giới. Các quy định hiện hành của BLDS
năm 2015 khơng mang tính chất nhất thời, mà là sự ke thừa có chọn lọc các văn bản
trước đây. Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử phát triển các quy định này là hồn tồn
có giá trị nhằm phần nào lý giải được sự khác biệt trong quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật các nước về đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả
sử dụng trong những nội dung chính yếu trong Chương 1.
- Phương pháp so sánh: dùng để so sánh quy định của BLDS năm 2015 về
thừa ke the vị với quy định của các văn bản ban hành trước đó, các văn bản pháp
luật khác của Việt Nam và các nguồn tài liệu có liên quan, cũng như kinh nghiệm
pháp lý của một số nước về quy định thừa ke the vị theo pháp luật. Phương pháp
này được tác giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Đồng thời, phương pháp


6

này cũng được sử dụng để so sánh các quy định trong BLDS năm 2015 với quy
định của pháp luật các nước được chọn trong đề tài nhằm làm rõ hơn các nội dung
có liên quan. Phương pháp này được tác giả sử dụng trong những nội dung chính
yếu trong Chương 1.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn: dựa trên các quy
định của pháp luật hiện hành, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa ke
the vị theo quy định của pháp luật trong BLDS năm 2015 và các nước khác để từ đó
đưa ra được sự nghiên cứu so sánh cũng như phân tích ưu nhược điểm của từng che
định của các quốc gia. Pháp luật chỉ có giá trị khi được vận dụng hiệu quả vào thực
te, do vậy tác giả ý thức việc nghiên cứu các vấn đề phát sinh từ thực tiễn để làm rõ
các bất cập tồn tại trong quy định pháp luật. Phương pháp này sẽ được sử dụng
xuyên suốt trong Chương 1 và 2 của đề tài.
6. Ket cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu đề tài gồm 2
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thừa kế thế vị.
Chương 2. Những vướng mắc của quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân
sự năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1.1.1

Khái niệm về thừa kế thế vị
Hiện nay, trong quy định pháp luật chỉ liệt kê về các trường hợp thừa ke the vị

mà chưa định nghĩa the nào là thừa ke the vị. Vậy thì the vị là gì và thừa ke the vị là gì?
Theo nghĩa Hán - Việt thì từ “the” có nghĩa là thay vào, từ “vị” có nghĩa là ngơi thứ,
ngơi vị, vị trí. Vậy “the vị” có nghĩa là thay the vào vị trí. Theo “Từ điển giải thích thuật


7

ngữ luật học” định nghĩa: “Thừa ke the vị là thừa ke bằng việc thay the vị trí để hưởng
thừa ke”15. Tức là, khi một người đáng lẽ được hưởng khoản thừa ke nhưng vì lý do gì
đó mà họ khơng thể hưởng được thì pháp luật cho phép một chủ thể khác (là con hoặc
cháu của người đó) thay vào vị trí để nhận thừa ke.
Thừa ke the vị được quy định và đảm bảo thực hiện ở nước ta từ rất lâu. Mục
đích của thừa ke the vị là bảo vệ lợi ích của các cháu, chắt của người để lại di sản trong
trường hợp người con chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản 16. Bắt
đầu từ Thông tư số 1742/BTP ngày 18/9/1956 của Bộ Tư pháp, Thông tư số
594/TANDTC ngày 27/8/1968 của Tịa án nhân dân tối cao, Thơng tư số 81/TANDTC
ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao; Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và BLDS

các năm 1995, 2005, 2015. Các quy định này đều thể hiện một nguyên tắc chung đó là
nếu người thừa ke khơng cịn vào thời điểm người để lại di sản thừa ke chết thì con của
người thừa ke sẽ the vào vị trí người thừa ke để hưởng di sản thừa ke từ người để lại di
sản thừa ke. Người thừa ke này có thể là con hoặc cháu của người để lại di sản thừa ke
và người the vào vị trí để được hưởng the vị có thể là cháu hoặc chắt của người để lại di
sản thừa ke. Mặc dù mang các điều kiện chung nói trên nhưng mỗi văn bản pháp luật
trong từng thời kỳ lại có những đặc điểm cho phù hợp với điều kiện xã hội, văn hóa của
thời kỳ đó. Do vậy, các văn bản khi quy định về thừa ke the vị có những điểm khác nhau
trong việc xác định cụ thể các trường hợp được hưởng thừa ke the vị. Nhưng đen quy
định trong BLDS năm 2005, năm 2015 thì đã xác định thêm một trường hợp có thừa ke
the vị xảy ra đó chính là trường hợp con/cháu của người để lại di sản chết cùng thời
điểm với người để lại di sản. Lúc này cháu/chắt sẽ the vào vị trí và hưởng di sản thế vị
(Điều 677 BLDS năm 2015). Điểm mới của thừa kế thế vị được quy định trong BLDS
năm 2005, năm 2015 đã giải quyết thỏa đáng quyền thừa ke the vị của cháu/chắt, những
người được the vị khi cha, mẹ mình chết cùng thời điểm với người để lại di sản thừa ke.
15Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB. Cơng an nhân dân, tr. 290.
16Phạm Thị Bích Phượng (2014), “Một số vấn đề về thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ
kế”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 15, tr. 20.


8

Quy định này được đánh giá phù hợp về mặt thực te mà còn phù hợp về mặt bản chất
của thừa ke the vị. Đen quy định trong BLDS năm 2015 về thừa ke the vị thì khơng có
sự thay đổi so với quy định trong BLDS năm 2005. Thừa ke the vị là thừa ke khơng theo
trình tự các hàng thừa ke do pháp luật quy định. Các hàng thừa ke do pháp luật quy định
chỉ có ý nghĩa để giúp xác định sự phát sinh quan hệ thừa ke the vị. Những người được
hưởng di sản thừa ke the vị chỉ được hưởng chung một suất thừa ke mà đáng lý ra nếu
cha, mẹ của người đó nếu cịn sống sẽ được hưởng.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội do

Nhà xuất bản Công an Nhân dân xuất bản năm 1999 đã định nghĩa: “Thừa kế thế vị là
thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế”. Như vậy thừa kế thế vị là việc các
con (hoặc cháu) được thay the vị trí của bố, mẹ (hoặc ông, bà) để hưởng di sản của ông
bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố, mẹ (hoặc ông, bà) chết trước hoặc chết cùng thời
điểm ông, bà (hoặc cụ).
1.1.2 Ý nghĩa của quy định về thừa kế thế vị
Thứ nhất, quy định thừa ke the vị góp phần bảo vệ tối đa quyền hưởng di sản của
con, cháu trực hệ cho dù con chết trước cha, mẹ; cháu chết trước ông bà. Với quy định
cho phép cháu, chắt hưởng thừa ke the vị trong di sản của ông, bà hoặc cụ khi cha, mẹ
của cháu, chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ơng, bà hoặc cụ đã góp phần
củng cố sự yêu thương giữa các thế hệ con cháu trực hệ với nhau. Quy định này cho
thấy cháu, chắt có vị trí rất quan trọng trong thừa ke đối với ông, bà hoặc cụ. Đặc biệt,
ngay cả khi cha, mẹ của cháu, chắt chết trước ơng, bà thì khơng có nghĩa ơng, bà hoặc
cụ sẽ chấm dứt sự quan tâm dành cho những the hệ con cháu tiếp nối của người đã chết;
điều này thể hiện thông qua việc người để lại di sản sẽ dành một phần tương ứng với
suất hưởng của người con đã mất cho các con, cháu trực hệ của họ được hưởng thay
phần di sản đó.
Thứ hai, quy định về thừa ke the vị dành đặc quyền hưởng di sản cho những
người thừa ke có quan hệ nội tộc, huyết thống bề dưới của người để lại di sản. Suất


9

hưởng thừa ke the vị là suất hưởng chủ yếu dành cho the hệ con, cháu nội tộc, cùng
huyết thống với người để lại di sản. Điều 651 BLDS năm 2015 quy định ba hàng thừa
ke theo pháp luật và trong hàng thừa ke thứ nhất thì người người thừa ke có thể là cha,
mẹ, vợ, chồng, con của người để lại di sản. Ngoài ra, Điều 613 BLDS năm 2015 quy
định “Người thừa ke là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa ke hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa ke nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết”. Như vậy, giả sử các đối tượng là cha, mẹ, vợ, chồng của người để lại di sản

nếu chết trước người để lại di sản thì sẽ khơng được hưởng thừa ke theo pháp luật đối
với di sản của người để lại di sản. Tuy nhiên, nếu con của người để lại di sản mà chết
trước người để lại di sản thì cháu, chắt của những người con đã chết sẽ the vị để hưởng
di sản của người để lại di sản. Quy định trên cho thấy giữa người để lại di sản với các
the hệ con, cháu trực hệ có mối quan hệ thừa ke ưu tiên hơn bất kỳ người thừa ke khác
có mối quan hệ thân thuộc với người để lại di sản.
Thứ ba, quy định về thừa ke the vị bảo đảm sự công bằng và bình đẳng như nhau
giữa những người được the vị và giữa những người hưởng thừa ke the vị. Suất hưởng
thừa ke the vị được tính theo chi, mà khơng tính theo đầu người. Điều này có nghĩa
cháu, chắt được hưởng trong di sản của ông, bà hoặc cụ. Do vậy, nếu những người được
the vị cùng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì các cháu, chắt
là những người thừa kế thế vị sẽ cùng hưởng di sản thay người được thừa ke the vị mà
không phân biệt là con gái hay con trai, cháu nội hay cháu ngoại và suất hưởng là chia
đều giữa người thừa ke the vị trên cùng một chi.
Thứ tư, quy định về thừa ke the vị góp phần duy trì và củng cố quyền tư hữu đối
với tài sản của cá nhân, họ tộc. Quyền sở hữu chỉ hồn thành được vai trị động lực phát
triển kinh te nếu nó chuyển giao bằng con đường thừa ke và đặc biệt trong thừa ke the vị
còn là việc bảo vệ quyền sở hữu của chính con cháu trực hệ của người để lại di sản. Thật
vậy, về mặt tâm lý cá nhân chỉ cảm thấy được thỏa mãn nếu quyền sở hữu vẫn tiếp tục
tồn tại sau khi chủ sở hữu chết. Giả sử chủ sở hữu phải đối mặt với việc giao trả lại tài


10

sản của mình cho nhà nước khi họ chết, thì họ sẽ khơng quan tâm chăm sóc tài sản hiện
có mà lại tiêu dùng hoang phí và bản thân trở nên lười biếng, thờ ơ với lao động, với
hoạt động sáng tạo. Vì vậy, pháp luật về thừa ke nói chung và quyền thừa ke the vị nói
riêng ở nước ta, trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thành quả lao
động của bản thân họ được tơn trọng, khi người có tải sản chết thành quả đó được
chuyển sang cho những người thừa ke trực hệ của họ. Cụ thể, thông qua thừa ke the vị

của cải của một người được chuyển dịch xuôi xuống con, cháu trực hệ từ đời này qua
đời khác, điều này góp phần củng cố quyền sở hữu chính đáng của mọi cá nhân, bảo
tồn và gia tăng tích lũy của cải cho xã hội. Như vậy, cháu, chắt trực hệ sẽ được hưởng
di sản của ông, và hoặc cụ mất, điều này góp phần đảm bảo tài sản từ ơng, bà hoặc cụ sẽ
ưu tiên để lại cho cháu, chắt trực hệ hưởng trước những người thừa ke có mối quan hệ
thân thuộc khác với người để lại di sản.
Tóm lại, với quan điểm từ xa xưa của ông cha ta là cha truyền con nối, gắn kết
tình yêu thương giữa các thành viên trong gia đình thì quy định về thừa ke the vị đã đạt
được mục đích của mình. Ơng, bà chết đi đáng lý ra tài sản sẽ để lại cho cha, mẹ hoặc
cháu; nhưng do cha, mẹ hoặc cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại
di sản thừa ke nên cháu/chắt sẽ the vào vị trí để hưởng di sản thừa ke. Từ đó, sẽ tránh
tình trạng di sản khơng rơi vào tay của những người thừa kế trực hệ được hưởng mà
những người khác lại có thể được hưởng di sản thừa ke.
1.2 CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ THẾ VỊ
1.2.1

Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường
1.2.1.1 Cháu hưởng di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm

với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống. Đối với trường hợp này cháu sẽ được the vào vị trí cha, mẹ để
hưởng di sản thừa ke.
Ví dụ: A là ông, B là bố, C là con. Do A, B chết cùng thời điểm hoặc B chết


11

trước A nên C sẽ the vào vị trí của B để hưởng di sản thừa ke từ A.
Từ quy định tưởng chừng đơn giản này thì cần xem xét đen mối quan hệ của A,

B, C. Bởi lẽ như đã phân tích trên phần điều kiện để hưởng thừa ke the vị; khi mối quan
hệ giữa những người này chỉ là quan hệ huyết thống như A đẻ ra B rồi B lại đẻ ra
C, việc xác định có thừa ke the vị sẽ là đương nhiên. Tuy nhiên, nếu kèm thêm mối
quan hệ ni dưỡng thì việc xác định tư cách sẽ là khác và lúc này cần cân nhắc xem có
nên có thừa ke the vị khơng.
Trong trường hợp khi mối quan hệ giữa người để lại di sản thừa ke và người thừa
ke là mối quan hệ huyết thống nhưng sau đó người thừa ke lại nhận ni dưỡng một
người khác thì liệu rằng người con này có được the vào vị trí của cha, mẹ mình để
hưởng di sản thừa ke khơng. Tác giả cho rằng quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015
chỉ sử dụng từ “cháu” the vào vị trí cha hoặc mẹ để được hưởng di sản thừa ke. Do vậy
cháu với ông bà sẽ là những người có mối quan hệ như the nào? Xét về nguyên tắc
chung khi một người nhận con ni thì đứa trẻ đó sẽ là con ni của mình người đó mà
khơng đương nhiên trở thành con nuôi của người khác. Do vậy, đứa trẻ được nhận nuôi
không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người nhận ni. Vì the, trong trường
hợp này khơng có xảy ra thừa ke the vị.
Trong trường hợp mối quan hệ giữa người để lại di sản thừa kế và người thừa kế
là mối quan hệ nuôi dưỡng nhưng con của người thừa ke là con ruột. Thì lúc này người
con của người thừa ke sẽ là cháu của người để lại di sản thừa ke. Trường hợp này sẽ có
thừa ke the vị xảy ra.
Ví dụ: L có ba người con là N, G, T. T có ba người con là T1, T2, T3. Vì T chết
trước L, nên khi L chết và khơng để lại di chúc thì di sản của L sẽ chia cho N (1/3), G
(1/3) và ba con của T là T1, T2, T3 mỗi người được hưởng 1/9 di sản của L.
1.2.1.2 Chắt hưởng di sản của cụ nội, cụ ngoại:
Trong trường hợp nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người
để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu


12

còn sống. Đối với trường hợp này chắt sẽ the vào vị trí của cha, mẹ của chắt để hưởng di

sản thừa ke. Việc xác định chắt là người có những mối quan hệ như the nào với những
người cha/mẹ, ơng bà sẽ khó khăn hơn trường hợp đầu tiên.
Ví dụ A (cụ), B (ông), C (cha) và D (con). Neu mối quan hệ của A, B, C, D đều
là mối quan hệ huyết thống thì đương nhiên thừa ke the vị sẽ có thể xảy ra. Nhưng nếu
có đan xen mối quan hệ nuôi dưỡng và mối quan hệ huyết thống thì việc xác định người
the vị trí để hưởng thừa ke the vị sẽ khó hơn. Sẽ có rất nhiều trường hợp có thể xảy ra
khi có sự đan xen các mối quan hệ huyết thống và mối quan hệ nuôi dưỡng giữa các the
hệ từ ông bà cho đen hàng chắt. Qua đó, trong trường hợp thừa ke the vị của chắt ruột
cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất, chắt phải còn sống vào thời điểm cụ chết hoặc sinh ra sau khi cụ chết
hoặc sinh ra sau khi cụ chết nhưng đã thành thai trước khi cụ chết mới là người thừa ke
the vị di sản của cụ.
Thứ hai, các chắt được hưởng chung phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu không chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản tương tự
như trường hợp chắt được thừa ke the vị cha, mẹ hưởng di sản của ông, bà.
Việc ghi nhận quyền thừa kế thế vị của chắt trong BLDS năm 2015 giống BLDS
năm 2005 là điểm tiến bộ so với BLDS năm 1995 về quyền thừa kế thế vị. Do BLDS
năm 1995 chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền thừa ke the vị của cháu thay chay mẹ nhận
di sản của ông bà khi cha, mẹ của cháu chết trước ông bà mà chưa ghi nhận quyền thừa
ke the vị của chắt đối với di sản của các cụ.
Ví dụ: X có ba người con là M, N, O. N có hai con là N1, N2. N2 có hai con là Y
và Z. N chết vào tháng 3/2018, còn N1 và N2 chết vào năm 2019. Khi X chết vào tháng
4 năm 2020 thì di sản của X sẽ chia cho M (1/3), O (1/3) và N1, N2 mỗi người nhận
(1/6).
1.2.2

Thừa kế thế vị trong một số trường hợp đặc biệt
1.2.2.1 Thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi



13

Như phân tích tại nội dung mục 1.2.1, khi một người nhận con ni thì người
con ni khơng đương nhiên trở thành con, cháu của người khác. Do vậy dù có nhiều
trường hợp có thể xảy ra nhưng chỉ có trường hợp mối quan hệ giữa người cháu của
người để lại di sản thừa ke và người thừa ke là mối quan hệ huyết thống; và mối quan hệ
giữa người cháu với người chắt cũng phải là mối quan hệ huyết thống. Lúc này mới có
thể có the vị xảy ra. Cịn lại tất cả những trường hợp khác thì đều không xảy ra thừa ke
the vị. Do vậy, không phải người con, người cháu nào cũng là người có thể được thừa ke
the vị. Mà chỉ những người con, người cháu có mối quan hệ huyết thống với người thừa
ke mới có thể the vị được. Cịn những người con, cháu có mối quan hệ ni dưỡng với
người thừa ke thì sẽ khơng được thừa ke the vị.
Có quan điểm cho rằng: Trong trường hợp con nuôi chết trước cha ni, mẹ ni
thì con đẻ của người con ni (tức cháu của cha nuôi, mẹ nuôi của người chết trước)
được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha mẹ của cháu còn sống vào thời điểm mở thừa
ke được hưởng (đây là trường hợp con đẻ của con nuôi được thừa ke the vị)... và
con nuôi của con nuôi khơng được thừa kế thế vị 17. Có quan điểm cho rằng: “Việc sửa
đổi điều luật này tránh được cách hiểu khác nhau về con nuôi hay con đẻ được hưởng
thừa ke the vị, xác định rõ chủ thể thừa ke the vị của người con nuôi chỉ là con đẻ của
người con ni”18. Quan điểm khác thì cho rằng quy định “con của người con ni” thì
sẽ bao gồm cả con đẻ và con nuôi, không nên phân biệt con đẻ hay con nuôi cũng như
con của người con đẻ với con của người con nuôi. Hơn nữa, vấn đề ở đây chủ yếu là đứa
con nuôi the vị vị trí của cha ni hưởng phần di sản mà lẽ ra cha ni được hưởng nếu
cịn sống chứ khơng phải là trực tiếp hưởng thừa ke của cha mẹ người mà mình làm con
ni19. Do đó, vấn đề thừa ke the vị của con nuôi phải được hướng dẫn rõ ràng để thuận
tiện trong việc áp dụng20. Một người nhận ni một đứa trẻ thì đương nhiên đứa trẻ sẽ là
17Hồng Thế Liên (2010), Bình luận khoa học BLDS 2005 tập 3, Nxb. Chính tri quốc gia Hà Nội, tr. 114 - 115.
18Nguyễn Viết Giang - Nguyễn Đình Anh (2014), “Thừa kế thế vị theo quy định của BLDS năm 2005 - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án nhân dân kỳ 1, số 3 (2 - 2014), tr. 28.
19Chế Mỹ Phương Đài (2009), “Quyền thừa kế của con nuôi”, Tài liệu hội thảo “Pháp luật Thừa kế ở Việt Nam từ

thế kỷXVđến nay”, tháng 09/2009.
20Lê Thị Hồng Vân, “Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Dự thảo BLDS sửa đổi”, Hội thảo Chế định thừa


14

con ni của người đó và đương nhiên được hưởng di sản ở hàng thừa ke thứ nhất của
người đó và ngược lại. Nhưng đứa trẻ này không đương nhiên sẽ trở thành cháu của cha,
mẹ người nhận nuôi (người mà đứa trẻ gọi là ông, bà). Mặc dù vậy cũng có trường hợp
ơng, bà và đứa trẻ này vẫn có sự thương u, quan tâm, chăm sóc, khăng khít với nhau,
khơng có một sự phân biệt nào cả. Xét về hàng thừa ke thì đứa trẻ này và ơng, bà không
được hưởng di sản theo pháp luật ở hàng thừa ke thứ hai của nhau. Nhưng khi xét đen
vấn đề thừa ke the vị có nên cho đứa trẻ này được hưởng thừa ke the vị không? Tác giả
cho rằng nếu chứng minh được có sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau thì nên cho đứa trẻ
này được thừa ke the vị di sản của ơng, bà. Từ đó, đặt ra vấn đề liệu hàng cháu, chắt
ni có nên được thừa ke the vị hay không? Thiết nghĩ thừa ke the vị là một trường hợp
rất đặc biệt của việc chia thừa ke theo pháp luật. Bình thường di sản thừa ke khi được
chia theo pháp luật cứ căn cứ vào các hàng thừa ke để xác định những người được
hưởng di sản thừa ke ở hàng thứ nhất, lần lượt đen hàng thừa ke thứ

kế trong Dự thảo BLDS sửa đổi - Trường ĐH Luật TPHCM, tháng 5/2015.


15

hai, hàng thừa kế thứ ba. Tuy nhiên, khi xảy ra các điều kiện đặc biệt thì sẽ linh hoạt để
chia thêm cho người the vào vị trí của người thừa ke để hưởng di sản thừa ke. Từ đó, khi
xem xét đen việc cháu, chắt ni có nên được thừa ke the vị hay không tác giả nghĩ rằng
nên có sự vận dụng linh hoạt để đảm bảo đúng ý nghĩa của quy định thừa ke the vị.


8

Lê Minh Hùng (chủ biên) (2012) “Giáo trình pháp luật tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thưa kế”,NXB
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.380; Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân


16


tiếp di sản của người chết mà họ chỉ thay vào vị trí của cha, mẹ mình để nhận phần di
sản trên. Vì vậy, nếu cha mẹ của người thừa ke the vị có quyền hưởng di sản của ơng, bà
hoặc cụ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà hoặc cụ thì con của họ sẽ được
thay vào vị trí của họ để nhận di sản của ông bà hoặc cụ mà không phân biệt con riêng
hay con con ni. Ngồi ra, việc một người đã là con ni của người khác thì quan hệ
thừa ke the vị giữa người con ni đó với gia đình gốc tức cha, mẹ ruột và ông bà ruột
cũng được quan tâm. Việc thừa nhận quyền thừa ke của người con đối với gia đình cha,
mẹ ruột đã đảm bảo cho quyền thừa ke the vị của các cháu không phụ thuộc vào việc
cha, mẹ của cháu có đang là con nuôi của người khác hay không. Như vậy, một người
mặc dù đã được người khác nhận nuôi, nhưng họ vẫn được thừa ke the vị di sản của
ông, bà nội, ông, bà ngoại trong trường hợp cha, mẹ ruột chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại 11 theo quy định tại Điều 651 và Điều 652
BLDS năm 2015.
1.2.2.2 Thừa ke the vị trong trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ ke
Điều 654 BLDS năm 2015 quy định về quan hệ thừa ke giữa con riêng và bố
dượng, mẹ ke như sau: “Con riêng và bố dượng, mẹ ke nếu có quan hệ chăm sóc, ni
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa ke di sản của nhau và cịn được thừa ke
di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Bên cạnh đó, Khoản 1, Điều 79 Luật Hơn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014
quy định:
“1. Bố dượng, mẹ ke có quyền và nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc,

giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 69,
71 và 72 của Luật này.
2. Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng bố dượng, mẹ ke
cùng sống chung với mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Luật này”.
Như vậy, theo quy định như trên thì giữa con riêng và cha đượng, mẹ kế đều có


quyền và nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc nhau khi cùng chung sống. Chỉ khi
giữa họ thể hiện được mối quan hệ như cha - con, mẹ - con thì mới được quyền thừa ke
theo pháp luật của nhau ở hàng thừa ke thứ nhất theo pháp luật và thừa ke the vị. Vì the,
quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015 xuất phát từ thực tiễn và đạo lý khuyến khích
những người trong gia đình quan tâm giúp đỡ và có trách nhiệm với nhau. Căn cứ để
xác định thừa ke the vị giữa con riêng với bố dượng, mẹ ke khi họ qua đời chỉ dựa trên
điều kiện thực te là giữa họ có quan hệ chăn sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
Việc bố dượng, mẹ ke được thừa ke di sản của con riêng và ngược lại với điều kiện nuôi
dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con làm cho mối quan hệ giữa con riêng với bố
dượng, mẹ ke không đơn thuần thể hiện về mặt tình cảm mà cao hơn còn ghi nhận bằng
nghĩa vụ pháp lý. Điều kiện để con riêng và bố dượng, mẹ ke được thừa ke theo pháp
luật của nhau chính là họ đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha
con, mẹ con. Những căn cứ trên được xác định khi con riêng của vợ, của chồng chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với bố dượng, mẹ ke thì con của người con riêng đó
được thừa ke the vị như những người con, người cháu khác của người để lại di sản theo
quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015.
1.2.2.3 Thừa ke the vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học
Việc con sinh ra theo phương pháp khoa học hiện nay có thể hiểu là việc sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm) và
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Vấn đề cần xem xét và nghiên cứu là quyền hưởng
thừa ke the vị của trẻ sinh ra thông qua kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Do việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ là hai
biện pháp kỹ thuật khác nhau nên vấn đề thừa ke the vị cũng nên được phân tích riêng

biệt nhằm làm sáng tỏ vấn đề.
Đối với việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Theo quy định tại khoản 21
Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh


19

con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Ngoài ra, tại
khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đưa
ra nguyên tắc “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chun khoa; cặp vợ chồng vơ
sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Như vậy, để có thể tiến hành
thụ tinh trong ống nghiệm thành cơng thì các cặp vợ chồng vơ sinh hoặc người phụ nữ
độc thân có thể phải nhận tinh trùng và nỗn từ những người hiến tặng vô danh.
Vấn đề trên cần xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp trẻ sinh ra bằng
biện pháp thụ tinh trong ống nghiệm từ những tinh trùng và noãn hiến tặng sẽ the nào?
Căn cứ Điều 88 và Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 thì cặp vợ chồng vơ sinh được xác
định là cha, mẹ của trẻ sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ngay cả khi đứa trẻ này
được sinh ra là nhờ nhận noãn hoặc tinh trùng từ người khác hiến tặng cho cặp vợ chồng
vô sinh, bởi nguyên tắc hiến tặng tinh trùng và noãn trong Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
của Chính phủ là giữ bí mật thơng tin của người hiến tặng. Tương tự, người phụ nữ độc
thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được xác định là mẹ của con được sinh ra.
Trên cơ sở xác định được quan hệ cha mẹ con đối với trẻ được sinh ra bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản này, có thể kết luận rằng trẻ sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có
quyền hưởng thừa ke the vị đối với cha mẹ của trẻ là những cặp vợ chồng vô sinh và
không đặt ra vấn đề thừa ke the vị giữa trẻ với người đã cho nỗn hoặc tinh trùng để
hình thành nên đứa bé đó, dựa vào ngun tắc “vơ danh” giữa người cho và người nhận
noãn, tinh trùng tại Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Tương tự, đứa trẻ là con của
người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng có quyền

hưởng thừa ke the vị khi người mẹ này đã chết trước hoặc cùng thời điểm với cha, mẹ
hoặc ơng, bà của mình.
Đối với trẻ sinh ra nhờ đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì quyền
hưởng thừa ke the vị có các điểm lưu ý:


×