Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.83 KB, 26 trang )

Chuyên đề tài chính ngân hàng
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một nước đang phát triển. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
và nhà nước ta nền kinh tế Việt Nam ngày càng hoạt động có hiệu quả kể từ khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thâm nhập vào sự
phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. Hàng loạt các doanh nghiệp,
các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước chọn Việt Nam làm điểm đầu tư an toàn
và sinh lợi. Bên cạnh đó, một nền kinh tế mở như thế không thể thiếu vắng tổ chức
trung gian cụ thể là sự hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Nó rất cần thiết đối với
nền kinh tế. Thực trạng hiện nay cho thấy rằng Ngân hàng đóng vai trò rất quan
trọng trong việc đầu tư và phát triển nhằm để chuyển đổi kinh tế theo từng vùng,
từng địa phương. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển thì
các cơ sở sản xuất phải có nguồn vốn đủ mạnh nhằm để mở rộng quy mô sản xuất,
tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Vì vậy, cần phải có một hệ thống Ngân
hàng có đủ khả năng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp.
Mặt khác, kể từ khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới
(WTO) thì tình hình hoạt động kinh tế trong nước ngày càng sôi động và thu hút
các nguồn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, sự hoạt động của ngân hàng ngày
càng mạnh mẽ. Các ngân hàng quốc doanh phát triển nhanh chóng và cùng với sự
ra đời của đông đảo các ngân hàng cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bước vào giai đoạn tăng trưởng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đang bắt đầu khởi động mạnh mẽ.
Do sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới
nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. Điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường
vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi
phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.
Do đó, các doanh nghiệp sẽ đồng loạt rút các nguồn vốn gửi từ ngân hàng,


làm cho nguồn tài chính trong các ngân hàng mất cân đối. Ngoài ra, vấn đề lạm
phát và bùng phát nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 1
Chuyên đề tài chính ngân hàng
kinh tế. Vì vậy đề tài “tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân
hàng Việt Nam hiện nay” cần thiết được nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Phân tích, đánh giá, so sánh tình hình huy động nguồn vốn ở các ngân hàng
Việt Nam qua các năm 2007 và năm 2008 và những tháng đầu năm 2009. Qua đó,
xem xét tác động của nó đã ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động, tình hình huy
động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai. Từ đó,
đưa ra biện pháp can thiệp nhằm khắc phục và hạn chế sự ảnh hưởng đến lượng
vốn trong ngân hàng, nhằm ổn định cho các doanh nghiệp vay ở để nền kình tế
hoạt động ổn định và ngày càng phát triển trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Thu thập số liệu: số liệu thứ cấp thể hiện ở các ngân hàng qua các năm
2006, 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009.
- Phân tích, so sánh số liệu qua các năm nhằm thấy rõ được sự tác động của
nền kinh tế đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng trong nước.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình hoạt động, huy động nguồn vốn của các ngân hàng ở
Việt Nam qua các năm 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009.
4.2. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009.
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 2
Chuyên đề tài chính ngân hàng
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN
2.1. KHÁI NIỆM VỀ HUY ĐỘNG VỐN

2.1.1. Khái niệm
Huy động vốn là điều động tất cả các khoản tiền gởi mà các tổ chức kinh tế,
tổ chức tín dụng và dân cư gởi vào Ngân hàng hoặc phát hành các loại giấy tờ có
giá.
2.1.2. Bản chất
Tín dụng thể hiện ra bên ngoài như một sự chuyển giao tạm thời quyền sử
dụng một vật hay một số tiền tệ giữa người đi vay và người cho vay. Vì vậy, người
ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao
đổi.
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay.
- Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất.
- Hoàn vốn tín dụng.
- Đặc điểm của quỹ cho vay là nhằm thỏa mãn nhu cầu tạm thời cho sản
xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng.
2.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN
2.2.1. Huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm
trong dân cư.
2.2.1.1. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh
của các đơn vị được gửi tại Ngân hang. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm
thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có
nhu cầu sử dụng vốn hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẳn vào một thời
điểm nhất định. Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào Ngân hàng dưới các hình
thức sau:
a) Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi tiền và rút
tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho Ngân hàng.
- Khi gửi tiền khách hàng được hưởng lãi suất, góp phần tăng thêm lợi nhuận
cho khách hàng. Mặt khác, khi có nhu cầu sử dụng thì khách hàng chủ động rút ra,
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 3
Chuyên đề tài chính ngân hàng

nên vẫn thỏa mãn nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của họ. Ngoài ra, khách
hàng còn được phép sử dụng tiền gửi để phục vụ cho công tác thanh toán không
dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
- Mặc dù đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền có thể gửi tiền và rút tiền
bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi tiền và rút tiền có sự chênh lệch về thời gian và
số lượng nên trên các loại tài khoản này luôn có số dư, Ngân hàng có thể huy động
số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay.
b) Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền có sự
thỏa thuận về thời hạn rút tiền giữa Ngân hàng và khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là nguồn vốn mang tính chất ổn định, Ngân hàng có thể
sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động để làm nguồn vốn kinh doanh. Vì
vậy, để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các Ngân hàng thường đưa ra nhiều loại
kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có
các loại kỳ hạn như sau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng,… với mỗi kỳ hạn
Ngân hàng áp dụng mỗi mức lãi suất khác nhau phù hợp theo nguyên tắc: kỳ hạn
càng dài thì lãi suất càng cao.
2.2.1.2. Tiền gửi trong dân cư
Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng. Là một bộ
phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng bao gồm:
- Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng. Trong hình
thức huy động này, người gửi tiền được cấp một sổ tiết kiệm, sổ này được coi là
một giấy chứng nhận có gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của Ngân hàng. Tiền gửi tiết
kiệm của dân cư cũng được chia làm 2 loại: tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không
kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: cũng giống như loại tiền gửi có kỳ hạn, nó
cũng có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền, nhưng nguồn hình thành của tiền gửi
tiết kiệm chủ yếu là tiền nhàn rỗi trong dân cư. Về tính chất thì tiền gửi thanh toán
và tiền gửi tiết kiệm giống nhau, hiện nay vẫn còn sự phân biệt này là do khi gửi
tiết kiệm khách hàng được cấp một sổ tiết kiệm để giao dịch với Ngân hàng.
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 4

Chuyên đề tài chính ngân hàng
2.2.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn và ngược lại. Hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với Ngân hàng cũng thường
tổ chức các hình thức huy động vốn, nhưng nhu cầu vay vốn của các tổ chức lại
thấp hơn so với vốn huy động, nên Ngân hàng cũng dùng số tiền nhàn rỗi này để
gửi vào Ngân hàng khác. Tuy nhiên, cũng có những thời điểm cầu vượt cung do
đó Ngân hàng cũng không thể đáp ứng, để đáp ứng được cầu thì Ngân hàng chủ
động vay lại của các Ngân hàng khác để đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ
chức.
2.2.3. Nguồn vốn vay của Ngân hàng Trung Ương
- Ngân hàng Trung Ương đóng vay trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là
người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các Ngân hàng
thương mại sẽ được Ngân hàng Trung Ương cho vay vốn.
- Việc vay vốn của Ngân hàng Trung Ương đối với các Ngân hàng thương
mại thông qua hình thức tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của
Ngân hàng Trung Ương nhằm cung cấp vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh
toán cho các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Trung Ương thực hiện tái cấp vốn
cho các Ngân hàng thương mại thông qua các hình thức sau:
+ Cho vay theo hồ sơ tín dụng.
+ Chiết khấu các chứng từ có giá trị ngắn hạn.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các chứng từ có giá.
2.2.4. Lãi suất huy động vốn.
Là lãi suất mà các tổ chức tín dụng sử dụng để huy động vốn cho các mục
tiêu hoạt động kinh doanh của mình như: lãi suất tiền gửi không kỳ hạn (LKK), lãi
suất tiền gửi có kỳ hạn (LCK), lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế (LTC), lãi
suất tiền gửi của dân cư (LDC).
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thì các Ngân hàng thương mại
không được huy động vốn vượt mức 20% so với vốn điều lệ của Ngân hàng.

GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 5
Chuyên đề tài chính ngân hàng
CHƯƠNG 3
TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. CÁC THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU CỦA NGÂN HÀNG
Do nét đặc thù về sản phẩm và mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng nên ta có
thể chọn thị trường ra thành các nhóm có những nét đặc trưng khác nhau:
3.1.1 Nhóm khách hàng truyền thống
Nhóm khách hàng truyền thống là những đơn vị xây lắp, đơn vị sản xuất kinh
doanh vật liệu xây dựng: Với đặc điểm là tỉnh mới thành lập, cơ sở hạ tầng còn
thiếu thốn, nên việc đầu tư nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới là nhu cầu rất cần
thiết.
3.1.2. Nhóm khách hàng tiềm năng
- Nhóm khách hàng tiềm năng là dân cư có thu nhập cao và ổn định.
- Ngân hàng huy động vốn với nhiều hình thức khác nhau nhưng điển hình
nhất là tiền gửi của các tầng lớp dân cư. Để huy động triệt để nguồn vốn từ nhóm
khách hàng này Ngân hàng cần triển khai nhiều hình thức huy động vốn đa dạng
như nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ với với kỳ hạn không giống nhau
(không kỳ hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng).
- Với khách hàng có thu nhập ổn định thì việc triển khai tín dụng bằng tín
chấp là hợp lý. Lãi và gốc sẽ được trừ dần vào tiền lương hàng tháng của khách
hàng.
3.1.3. Nhóm các tổ chức kinh tế
Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân:
- Với nhóm khách hàng này thì ngoài việc nhận tiền gởi và cho vay, Ngân
hàng còn có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền,… với nhịp độ phát
triển kinh tế như hiện nay, lượng giao dịch mua bán ngày càng nhiều và đòi hỏi
cao về sự nhanh chóng, an toàn và hiệu quả thì Ngân hàng sẽ đóng vai trò quan
trọng trong việc hỗ trợ thanh toán. Để ngày càng thu hút thêm những khách hàng ở

nhóm này Ngân hàng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ tạo uy tín với
khách hàng.
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 6
Chuyên đề tài chính ngân hàng
- Theo các nhà kinh tế thì cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước nói
chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng. Đặc biệt là tỉnh mới thành lập có nhiều tiềm
năng tự nhiên chưa được khai thác hết, là nơi mưa thuận gió hòa thích hợp phát
triển kinh tế nông nghiệp, thuận lợi cho phát triển công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, thương mại – dịch vụ phát triển theo… Thì các doanh nghiệp có quy mô
sản xuất vừa và nhỏ sẽ xuất hiện nhiều, như vậy nhu cầu vốn sẽ rất lớn. Ngân hàng
nên đặc biệt chú ý đến những nhóm khách hàng này.
Tóm lại: Qua việc phân tích trên đã giúp cho Ngân hàng có những biện pháp
tích cực để thực hiện tốt công tác huy động vốn có hiệu quả, góp phần thúc đẩy
Ngân hàng kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn.
Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong năm
qua tôi phân tích từng mặt, từng lĩnh vực hoạt động.
3.2. TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN CỦA CÁC NGÂN
HÀNG
3.2.1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời
gian qua
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại
nhà nước, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ
chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài.
Hơn nữa, hiện nay ngân hàng nhà nước đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời
thêm 4 ngân hàng nhà nước cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững
mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành
vượt bậc.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá
lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn

đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006
ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có
nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những
năm qua.
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 7
Chuyên đề tài chính ngân hàng
HÌNH 1: TỐC ĐỘ TĂNG DƯ NỢ TÍN DỤNG QUA CÁC NĂM
(Nguồn: Báo cáo thông tin Ngân hàng Nhà nước)
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản
luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân
hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế
ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình
tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã
từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín
dụng thương mại đã được tách bạch; Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ
chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an
toàn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị
trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành chính
sách tiền tệ đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái
đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở
rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần
kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho
các ngân hàng thương mại nhà nước, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 8
Chuyên đề tài chính ngân hàng
bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán

điện tử…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống
ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được
tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế.
 Vào năm 2006, cả hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,
vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều tăng cao so
với cùng kỳ nhiều năm và có tốc độ tăng trước sự ngỡ ngàng của chính giới kinh
doanh tiền tệ. Tại thành phố Hồ Chí Minh nguồn vốn huy động là 234.224 tỷ
đồng, số dư huy động vốn tăng trên 32,5% so với năm 2005. Như vậy, tổng số dư
vốn huy động chỉ ở riêng hai thành phố nói trên sẽ bằng số dư vốn huy động của
các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tăng trưởng nhanh trong năm 2006.
Nguyên nhân mức huy động vốn của ngân hàng ở hai thành phố lớn tăng là do:
Thứ nhất: Thu nhập của người dân ngày càng cải thiện. Nhiều gia đình,
nhiều người có nhu cầu tích lũy, nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn. Thực tế này không
chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn không nhỏ của
người dân đầu tư mua chứng khoán, mua cổ phiếu trên thị trường OTC, mua cổ
phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, mua bảo hiểm nhân thọ,…
Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi thu hút vốn trong dân lớn nhất.
Thứ hai: Trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua vàng, cất trữ ngoại tệ
trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng, thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân
hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả.
Thứ ba: Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước, gần 18 năm đổi mới hoạt động
ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau tại nhà hay trong dân
cư. Hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh.
Thứ tư: dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích, các loại tiền gửi đa dạng như
tiền gửi bậc thang, tiền gửi với lãi suất lũy tiến, tiền gửi ngắn hạn,…tạo sự thuận
lợi lựa chọn cho khách hàng và doanh nghiệp.
Thứ năm: Lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được điều chỉnh linh hoạt theo diễn
biến của thị trường. Đặc biệt lãi suất tiền gửi USD của các ngân hàng thương mại
nước ta thường xuyên được điều chỉnh tăng theo xu hướng tăng lên của lãi suất

USD trên thị trường quốc tế, với mức tăng khoảng 0,5% - 0,55% năm trong năm
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 9
Chuyên đề tài chính ngân hàng
2006. Vốn huy động tăng nhanh đó là xu hướng tích cực và đáng mừng. Vốn nhàn
rỗi trong dân cư được huy động tối đa vào các tổ chức trung gian tài chính từ đó
đầu tư cho các nhu cầu phát triển kinh tế.
 Năm 2007 tiếp tục là một năm sôi động của ngành ngân hàng Việt Nam
với tốc độ tăng trưởng huy động vốn ước đạt 36,5% và tăng trưởng dư nợ tín dụng
đạt 34% gấp gần hai lần so với mức dự báo hồi đầu năm. Theo Hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam, trong năm qua, cơ cấu dư nợ tín dụng đã có sự thay đổi tích cực
theo hướng tăng dư nợ cho vay trung, dài hạn và tập trung hỗ trợ cho những
ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng như nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng, bất động
sản, thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh chứng khoán
và tiêu dùng.
Bảng 1: TỔNG DƯ NỢ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRONG NĂM 2007
Ngân hàng
Tổng dư nợ Vốn điều lệ
Sacombank 35.000 tỷ đồng 4.448 tỷ đồng
ABC 31.600 tỷ đồng 2.630 tỷ đồng
VIB Bank 19.000 tỷ đồng 2.000 tỷ đông
OCB 7.557 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng
Eximbank 18.407 tỷ đồng 2.800 tỷ đồng
DongA Bank 18.000 tỷ đồng 1.600 tỷ đồng
VAB 5.747 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng
(Nguồn: Đầu tư – Tài chính, 2008)
Đến hết tháng 12/2007, tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh ước đạt trên 442.500 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006;
tổng dư nợ cho vay tăng 51%, đạt gần 347.000 tỷ đồng. Tại Hà Nội, nơi tập trung
hội sở và đầu mối của hầu hết các ngân hàng trong cả nước, tăng trưởng huy động
vốn ước đạt khoảng 44% và tổng dư nợ cho vay ước đạt 38,5% so với năm ngoái.

Song, trước nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp đang tăng cao vào dịp cuối năm,
trong khi huy động vốn lại có dấu hiệu chững lại, nhiều ngân hàng cổ phần đã đua
nhau tăng lãi suất huy động vốn VND, điều này gây mất ổn định mặt bằng lãi suất,
dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và gây ảnh hưởng đến
nền kinh tế trong bối cảnh chỉ số tiêu dùng đang ở mức cao.
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy TrangTrang 10

×