bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh
Khoa Ngữ Văn
-------***--------
Đặc điểm cấu tạo ngữ nghĩa thành ngữ
nghệ tĩnh
khoá luận tốt nghiệp
Giáo viên hớng dẫn: TS. Hoàng Trọng Canh
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Tố Uyên
Lớp:
44B4 Ngữ Văn
Vinh, 5 - 2007
1
Lời nói đầu
Thành ngữ Nghệ Tĩnh là một bộ phận của thành ngữ tiếng Việt, là một
đơn vị ngôn ngữ và là một thành tố văn hoá.
ở khoá luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu thành ngữ Nghệ Tĩnh
dới góc độ " Đặc điểm cấu tạo ngữ nghĩa" của nó.
Thực hiện khoá luận, chúng tôi đà nhận đợc sự hớng dẫn tận tình và
chu đáo của thầy giáo TS Hoàng Trọng Canh và sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo trong tổ ngôn ngữ - Khoa ngữ văn - Đại học Vinh.
Qua đây, chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
TS Hoàng Trọng Canh, cùng các thầy cô và bạn bè đà tạo điều kiện giúp chúng
tôi hoàn thành khoá luận.
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan có thể khoá luận còn
nhiều điểm cần phải bàn thêm. Chúng tôi rất mong sự góp ý của thầy cô và bạn
đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2007
Ngời thực hiện: Trần Thị Tố Uyên
2
Mục lục
Trang
1
2
3
4
5
6
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Đối tợng, nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
Phơng pháp nghiên cứu
Đóng góp của khoá luận
Cấu trúc của khoá luận
Chơng 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài
1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.1.4
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3
Thành ngữ tiếng Việt
Về khái niệm thành ngữ tiếng Việt
Về vấn đề cấu tạo của thành ngữ tiếng Việt
Về vấn đề ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt
Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
Phơng ngữ và vấn đề thành ngữ trong phơng ngữ Nghệ Tĩnh
Phơng ngữ là gì?
Phơng ngữ Nghệ Tĩnh
Thành ngữ trong phơng ngữ Nghệ Tĩnh
4
5
7
8
8
9
10
10
10
12
19
22
26
26
27
28
Chơng 2: Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ Nghệ Tĩnh
2.1
2.1.1
2.1.2
2.2
2.2.1
2.2.2
2.3
2.3.1
Cấu tạo của thành ngữ so sánh Nghệ Tĩnh
Mô hình cấu tạo thành ngữ so sánh
Đặc điểm cấu tạo thành ngữ so sánh Nghệ Tĩnh
Cấu tạo của thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng Nghệ Tĩnh
Mô hình cấu tạo thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng Nghệ Tĩnh
Đặc điểm cấu tạo thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng Nghệ Tĩnh
Cấu tạo thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng Nghệ Tĩnh
Khái quát về mô hình cấu tạo thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng Nghệ
Tĩnh
3
32
32
35
38
38
39
44
44
2.3.2
45
50
Chơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa thành ngữ Nghệ Tĩnh
3.1
50
Nghĩa biểu trng của thành ngữ so sánh Nghệ Tĩnh
3.1.1 Cơ cấu nghĩa biểu trng của hình ảnh trong thành ngữ so sánh Nghệ Tĩnh
50
3.1.2. Các loại hình ảnh trong vế so sánh và đặc điểm biểu trng của chúng 55
trong thành ngữ so sánh Nghệ Tĩnh
3.2
66
Nghĩa biểu trng của thành ngữ ẩn dụ hoá Nghệ Tĩnh
3.2.1 Cơ cấu nghĩa của thành ngữ ẩn dụ hoá Nghệ Tĩnh
66
3.2.2 Đặc điểm nghĩa biểu trng của thành ngữ ẩn dụ hoá Nghệ Tĩnh
68
3.3
70
Một vµi nÐt vỊ cc sèng vµ con ngêi Xø NghƯ qua thành ngữ Nghệ Tĩnh
3.3.1 Thành ngữ là một thành tố văn hoá
70
3.3.2 Cuộc sống và con ngời Nghệ Tĩnh qua thành ngữ
72
76
Kết luận
78
Tài liệu tham khảo
Một vài nét nổi bật trong thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng NghÖ TÜnh
4
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Thành ngữ tiếng Việt nói chung và thành ngữ Nghệ Tĩnh nói riêng là
hiện tợng độc đáo trong ngôn ngữ cũng nh trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Nghiên cứu thành ngữ chính là nghiên cứu một loại đơn vị đặc biệt của tiếng Việt,
là tìm hiểu nét đẹp, sự phong phú của tiếng Việt, đồng thời góp phần giữ gìn, phát
huy sự trong sáng của tiếng Việt, và giúp chúng ta hiểu thêm về bản sắc dân tộc,
về đời sống văn hoá cũng nh con ngời ở từng vùng miền trên đất nớc.
1.2 Thành ngữ là một bộ phận hết sức đặc biệt trong vốn từ của một dân tộc.
Giống với các đơn vị ngôn ngữ khác, thành ngữ có đặc trng về cấu tạo và ngữ
nghĩa. Nó là cụm từ cố định có kết cấu vững chắc, đợc sử dụng tơng đơng nh từ.
Thành ngữ là đơn vị định danh bậc hai, tiêu biểu cho lối nói bóng bẩy, hàm súc,
giàu vần điệu của ngời Việt. Vì vậy, đi sâu tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa
thành ngữ của một dân tộc, một địa phơng nào đó có thể xem là một công việc
quan trọng và hết sức cần thiết.
1.3 Ngôn ngữ là tấm gơng phản ánh văn hoá, sự hình thành ngôn ngữ là tiền
đề nhiều mặt của sự hình thành văn hoá. Ngôn ngữ đợc xem là gia tài quý giá
nhất, đích thực nhất để nhận diện một dân tộc, một địa phơng. Ngời ta rất dễ nhận
biết bản sắc dân tộc, màu sắc địa phơng trong cách nói, cách viết của một ngời nào
đó, bởi cách lựa chọn hình ảnh, hiện tợng độc đáo mang dấu ấn văn hoá đợc phản
ánh trong các đơn vị của phát ngôn. Thành ngữ cũng nh tục ngữ, ca dao - chúng
vừa là một đơn vị ngôn ngữ, đồng thời lại là một đơn vị của văn hoá. Do đó, mn
hiĨu râ vỊ cc sèng vµ con ngêi cđa mét đất nớc, một vùng miền hay một địa phơng, chúng ta có thể tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ - từ một đơn vị ngôn ngữ cụ thể
nh thành ngữ.
1.4 Nghệ Tĩnh còn gọi là xứ Nghệ "Đây là nơi núi cao, sông sâu, phong
tục trọng hậu, cảnh tợng tơi sáng, gọi là đất có danh tiếng hơn cả Nam Châu"
( Lịch Triều Hiến chơng loại chí - Phan Huy Chú). Vùng đất này kéo dài từ khe
nớc Lạnh đến Đèo Ngang, gồm hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh. Các nhà khoa học đÃ
xác định Nghệ Tĩnh là vùng đất cổ của ngời Việt. Nơi đây gắn liền với những sự
kiện lịch sử của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nớc. Cũng nh bao miền quê trªn
5
dải đất Việt, cuộc sống của con ngời xứ Nghệ còn lam lũ, đói nghèo bởi thiên
nhiên không mấy u đÃi - gió lào, cát nắng, ma lũ Nhng chính những khó khăn,
gian khổ đà tôi luyện con ngời Nghệ Tĩnh, họ trở thành những con ngời cần cù,
chịu thơng, chịu khó, giàu lòng yêu quê hơng, tổ quốc, có nghị lực phi thờng, có
truyền thống hiếu học, thông minh Vì thế, đây đợc xem là một khu vực "Địa
linh nhân kiệt". Tất cả những đặc điểm của mảnh đất xứ Nghệ đều đợc phản ánh
qua lớp ngôn ngữ địa phơng đặc biệt là qua thành ngữ Nghệ Tĩnh bởi thành ngữ
nói riêng và ngôn ngữ nói chung chính là thành tố quan trọng của văn hoá, là phơng tiện của văn hoá. Vì lẽ đó, khi đi sâu tìm hiểu "Đặc điểm cấu tạo - ngữ nghĩa
thành ngữ Nghệ Tĩnh" chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn về bản sắc văn hoá - cuộc
sống và con ngời của vùng đất này. Với những lý do trên chúng tôi đà chọn "Đặc
điểm cấu tạo - ngữ nghĩa thành ngữ Nghệ Tĩnh" làm đề tài cho khoá luận này.
2. Lịch sử vấn đề
Thành ngữ vừa là đơn vị ngôn ngữ, vừa là thành tố văn hoá. Thành ngữ là
những sáng tạo biểu hiện trí thông minh, lối nói giàu hình ảnh của ngời dân lao
động, thành ngữ cũng thể hiện phong tục, tập quán, lối sống, cách ứng xử của từng
dân tộc. Do vậy, thành ngữ là một hiện tợng đợc nhiều nhà ngôn ngữ học quan
tâm. Nó "có thể trở thành một bộ môn riêng trong ngôn ngữ học liên quan đến từ
vựng học"[23; tr.179]. Điều này đợc chứng minh qua các công trình nghiên cứu
của nhiều tác giả.
Công trình đầu tiên có giá trị lớn trong việc chỉ ra những nét cơ bản nhất
của thành ngữ là Việt Nam văn học sử yếu (1951) của Dơng Quảng Hàm, tiếp đến
là công trình của Vũ Ngọc Phan Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1971)Nhìn
chung, hai tác giả đà có ý thức trong việc chỉ ra những đặc trng của thành ngữ, và
có thể xem đây là nền móng đầu tiên mở đờng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm
hiểu và hoàn thiện các đặc trng của thành ngữ.
Đến nay, hầu hết trong các cuốn giáo trình từ vựng tiếng Việt đều giành
một phần để bàn về cụm từ cố định nói chung và thành ngữ nói riêng. Trong đó
phải kể đến các tác giả nh: Hồ Lê - Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại
[16]; Nguyễn Văn Tu - Từ và vốn từ tiếng Việt [23]; NguyễnThiện Giáp -Từ và
nhận diện từ tiếng Việt [9]; Đỗ Hữu Châu - Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt [7];
Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [6] Các tác giả tiếp cận thành ngữ theo những
6
cách khác nhau, vì thế quan điểm không hoàn toàn giống nhau, song họ đều thống
nhất cho rằng thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ tơng đơng với từ, nhng nó cũng
có những đặc điểm riêng về cấu tạo và ngữ nghĩa cũng nh khả năng vận dụng tạo
câu.
Đặc biệt, trong số các công trình nghiên cứu về thành ngữ thì Thành ngữ
học tiếng Việt [11] của GS. Hoàng Văn Hành là công trình có ý nghĩa nhất. Công
trình là kết quả của quá trình tìm tòi, khảo nghiệm bao nhiêu năm của tác giả. ở
cuốn sách này, tác giả đi đến khái quát các phơng diện cơ bản của thành ngữ về
đặc trng cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt, về phơng thức tạo nghĩa, cấu
trúc đối xứng, về việc phân biệt thành ngữ với tục ngữ, về quan hệ giữa thành ngữ
với văn hoá Với Thành ngữ học tiếng Việt GS. Hoàng Văn Hành đà tạo một cơ
sở, một nền tảng lý thuyết vững chắc cho những ngời đi sau tiếp tục khám phá kho
tàng thành ngữ của dân tộc và của từng địa phơng cụ thể.
Ngoài các công trình trên, nhiều tác giả còn có những bài viết về một vài
phơng diện cụ thể của thành ngữ nh: Bùi Khắc Việt: Cơ sở hình thành và sự biến
đổi của thành ngữ tiếng Việt; Về tính biểu trng của thành ngữ trong tiếng Việt;
Nguyễn Văn Mệnh: Vài suy nghĩ góp phần xác định khái niệm thành ngữ tiếng
Việt; Nguyễn Đức Dân: Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ sự vận dụng; Phan
Xuân Thành: Tính biểu trng của thành ngữ tiếng Việt; Hoàng Văn Hành: Về
tính biểu trng của thành ngữ trong tiếng Việt"; Cù Đình Tú : Góp ý kiến về
phân biệt thành ngữ với tục ngữ; v.v..
Ngoài ra, ở một phạm vi khác, đà có rất nhiều khoá luận, luận văn, luận án
đà đi sâu tìm hiểu thành ngữ ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể thấy một số luận
văn gần đây đợc thực hiện do các thầy cô giáo trờng đại học Vinh hớng dẫn:
Thành ngữ tiếng Việt dới cái nhìn của văn hoá học (Nguyễn Văn Tri); Hình
ảnh biểu trng trong thành ngữ so sánh tiếng việt (Bùi Thị Thi Thơ); Thành ngữ
đồng nghĩa và thành ngữ trái nghĩa trong tiếng Việt (Trần Anh T); Đặc trng
cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ trong ca dao (Nguyễn Việt Hùng); Khảo
sát cấu trúc thành ngữ tiếng Việt"(Lê Thị Hải Vân)
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều tập trung phân tích khái
niệm, đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa hay tìm hiểu sự vận dụng của thành ngữ tiếng
Việt. Nhng do đối tợng nghiên cứu, các công trình này cha đi sâu khai thác vốn
thành ngữcủa các địa phơng, các vùng miền trên đất nớc. Những năm gần đây, có
7
một số nhà nghiên cứu đà chú ý tới kho tàng thành ngữ địa phơng, từ đó góp phần
hiểu rõ thêm về vốn từ cũng nh đặc trng văn hoá của các vùng địa phơng ấy.
Chẳng hạn nh bài viết của Vũ Tân Lâm - Nguyễn Thị Kim Thoa: Một vài đặc trng văn hoá thể hiện qua thành ngữ Tày - Thái (Ngữ học trẻ - 2003); hay bài viÕt
cđa PGS.TS Ngun Nh· B¶n - PGS.TS Phan MËu C¶nh: Hai thành ngữ ả em du
nh tre một bịn"và "Đó rách ngáng trộ" ở địa phơng Nghệ Tĩnh (Ngữ học trẻ 1999) Tuy vậy, việc nghiên cứu đặc điểm cấu tạo - ngữ nghĩa của các vùng
miền cụ thể nói chung và của mảnh đất Nghệ Tĩnh nói riêng đang còn là vấn đề
mới mẻ. Kết hợp với sự ra đời của cuốn sách Từ điển thành ngữ - tục ngữ Nghệ
Tĩnh của GS.TS Nguyễn Nhà Bản (Chủ biên) do Nxb Nghệ An in năm 2005, nh
một sự thôi thúc, gợi mở chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài cho mình theo theo hớng
nghiên cứu về "Đặc điểm cấu tạo - ngữ nghĩa của thành ngữ Nghệ Tĩnh".
3. Đối tợng và nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Để tìm hiểu, phân tích đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ Nghệ
Tĩnh, chúng tôi chọn cuốn sách "Từ điển thành ngữ - tục ngữ Nghệ Tĩnh" của
GS.TS Nguyễn Nhà Bản làm cứ liệu khảo sát. Trong cuốn sách này, tác giả đà đa
ra một khối lợng gần 1912 thành ngữ, tục ngữ. Các đơn vị ngôn ngữ có mặt trong
cuốn sách đó đợc tác giả thu thập từ hai nguồn chủ yếu: Su tầm điền dà và qua một
số văn bản thơ ca dân gian, tác phẩm văn học của địa phơng. Đây là cuốn từ điển
đầu tiên sa tầm thành ngữ - tục ngữ Nghệ Tĩnh, có thể có những ngữ sẽ có cách
xác định thành ngữ, tục ngữ của tác giả, nhng ở đây chúng tôi tôn trọng những dẫn
liệu mà tác giả đa ra để thống kê t liệu cho khoá luận này.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng cuốn "Từ điển giải thích thành ngữ tiếng
Việt" của Viện ngôn ngữ học do GS.TS Nguyễn Nh ý chủ biên để tiện cho việc
khảo sát - so sánh, đối chiếu.
3.2. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
3.2.1. Khảo sát, thống kê, phân loại các thành ngữ Nghệ Tĩnh theo tiêu chí:
thành ngữ so sánh, thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng và thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối
xứng. Từ đó phân ra các tiểu loại theo tiêu chí cụ thể hơn. Qua việc phân loại này
giúp chúng ta thấy đợc cấu tạo của thành ng÷ NghƯ TÜnh.
8
3.2.2. Phân tích giải thích ý nghĩa biểu trng của thành ngữ Nghệ Tĩnh thể
hiện qua hình ảnh tiêu biểu, đồng thời đối chiếu với những hình ảnh đợc lựa chọn
trong thành ngữ tiếng Việt. Qua đó làm nổi bật nét riêng, nét độc đáo trong thành
ngữ Nghệ Tĩnh.
3.2.3. ở một mức độ nhất định, qua phân tích đặc điểm cấu tạo và ngữ
nghĩa của thành ngữ Nghệ Tĩnh khoá luận nêu lên những nét văn hoá địa phơng
phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của con ngời xứ Nghệ.
3.2.4. Khoá luận sẽ cung cấp những t liệu cho những ai tiếp tục nghiên cứu
thành ngữ địa phơng Nghệ Tĩnh.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Thực hiện khoá luận này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp nghiên cứu chủ
yếu:
4.1. Phơng pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại các thành ngữ Nghệ Tĩnh
trong cuốn "Từ điển thành ngữ - tục ngữ Nghệ Tĩnh" sau đó, tiếp tục phân
chúng thành các nhóm theo từng tiêu chí cụ thể.
4.2. Phơng pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi đa ra các ví dụ, dẫn chứng cụ thể để phân tích, giải thích ý nghĩa
biểu trng của thành ngữ Nghệ Tĩnh thể hiện qua các hình ảnh tiêu biểu. Từ đó nêu
lên những nhận xét, đánh giá xác thực, nhằm rút ra các đặc điểm cấu tạo ngữ
nghĩa của thành ngữ Nghệ Tĩnh.
4.3. Phơng pháp so sánh, đối chiếu
Để thấy rõ nét đặc trng của thành ngữ Nghệ Tĩnh và nhận biết bản sắc văn
hoá, cuộc sống con ngời nơi đây, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu thành ngữ
Nghệ Tĩnh với một số thành ngữ tiếng Việt.
5. Đóng góp của khoá luận
Đây là đề tài đầu tiên đi vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể của thành ngữ
Nghệ Tĩnh trên bình diện cấu tạo, ngữ nghĩa.
Trên cơ sở chỉ ra các đặc điểm cấu tạo - ngữ nghĩa của thành ngữ Nghệ
Tĩnh, khoá luận cũng nêu lên một số nét đặc trng cơ bản, làm rõ thêm sắc thái văn
hoá địa phơng của ngời xứ NghÖ.
9
6. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. nội dung của khoá luận
có ba chơng:
Chơng 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài
Chơng 2: Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ Nghệ Tĩnh
Chơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ng÷ NghƯ TÜnh
10
Chơng 1
Một số giới thuyết liên quan đến đề tài
1.1. thành ngữ tiếng việt
1.1.1. về kháI niệm thành ngữ tiếng việt
Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta và trong các tác
phẩm thơ văn của nhiều nhà thơ, nhà văn lớn, thành ngữ thờng đợc vận dụng vào
một cách sáng tạo, khiến cho những lời nói, những câu văn, bài thơ trở nên sinh
động, giàu hình tợng sâu sắc, đậm đà màu sắc dân tộc. Chính vì thế, thành ngữ là
một bộ phận quan trọng trong vốn từ của một ngôn ngữ, là di sản văn hoá quý giá
của một dân tộc.
Tiếng Việt có một khối lợng thành ngữ rất lớn, phong phú và đa
dạng. Song, cũng nh nhiều đơn vị ngôn ngữ khác, thành ngữ là một đơn vị đặc biệt
và hết sức phức tạp. Vì vậy, việc tìm ra những tiêu chí cụ thể, xác đáng để nêu lên
khái niệm về thành ngữ không phải đơn giản. Khi xác định khái niệm của đơn vị
ngôn ngữ này, từ trớc đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn cha đa ra ý kiến thống
nhất.
Ông Dơng Quảng Hàm - tác giả đầu tiên đề cập đến thành ngữ tiếng
Việt, trong Việt Nam văn học sử yếu, ông quan niệm: "Thành ngữ là những lời
nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc một trạng thái gì cho có màu
mè"[ Dẫn theo 25]
Nguyễn Văn Tu đa ra ý kiến: "Thành ngữ là cụm từ cố định mà các
từ trong đó đà mất đi tính độc lập đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm lại
một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng
thành tố tạo ra. Có thể có tính hình tợng cũng có thể không có. Nghĩa của chúng
cũng khác nghĩa của những từ nhng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên
học"[23; tr.189]
GS. Hồ Lê nêu lên: "Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ hợp
lại) có tính vững chắc về cấu tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa để miêu tả một hình
ảnh, một hình tợng, một tính cách hay một trạng thái nào đó" [16; tr.97].
Còn GS. Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt đÃ
nêu chung khái niệm thành ngữ (trong loại lớn là ngữ cố định) nh sau: "Nói ngữ cố
định là các cụm từ cố định hoá là nói chung Bởi vậy cái quyết định để xác định
11
các ngữ cố định là tính tơng đơng với từ của chúng về chức năng tạo câu. Chúng ta
nói ngữ cố định tơng đơng với từ không phải chỉ vì chóng cã thĨ thay thÕ cho mét
tõ, ë vÞ trÝ các từ, hoặc có thể kết hợp với từ để tạo câu" [7; tr.73].
Tác giả Nguyễn Văn Mệnh, trong khi so sánh thành ngữ với tục ngữ
cũng nói: "Mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, cha phải là một câu hoàn chỉnh"[18;
tr.12]
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đa ra nhận định : "Thành ngữ là những
cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm bên cạnh
nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng làm theo sắc thái bình giá, cảm xúc
nhận định" [9; tr.181].
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do GS Lê Bá Hán chủ biên,
các tác giả định nghĩa: Thành ngữ tiếng Việt là "Đoạn câu cụm từ có sẵn tơng đối
cố định bền vững không nhằm diễn trän mét ý… mµ nh»m thĨ hiƯn mét quan
niƯm díi một hình thức sinh động, hấp dẫn Dù ngắn hay dµi, xÐt vỊ néi dung ý
nghÜa cịng nh vỊ chøc năng ngữ pháp thành ngữ cũng chỉ tơng đơng nh từ, nhng là
từ đà đợc tô điểm và nhấn mạnh nghĩa bằng sự diễn đạt sinh động, có nghệ
thuật"[13; tr.249]
GS.TS Hoàng Văn Hành, ngời đợc xem là GS đầu ngành về thành
ngữ tiếng Việt, ông phát biểu : "Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững
về hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, đợc sử dụng rộng rÃi trong
giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ"[11; tr 27].
Còn các tác giả trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học đa
ra khái niệm " Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ
nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác với tổng số ý
nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động nh
một từ riêng biệt ở trong câu" [30; tr 271]
Nh vËy, cã rÊt nhiỊu c¸ch hiĨu vỊ khái niệm Thành ngữ. Dựa vào các định
nghĩa của những nhà nghiên cứu đi trớc và căn cứ trên quá trình khảo nghiệm, tìm
hiểu. Theo chúng tôi, thành ngữ là cụm từ cố định, có kết cấu vững chắc, có chức
năng định danh và mang ý nghĩa biểu trng đợc sử dụng tơng đơng nh từ.
12
1.1.2. về vấn đề cấu tạo của thành ngữ tiếng việt
Nh đà nói trên, thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ phức tạp. Do đó việc chỉ
rõ các đặc tính cũng nh việc phân loại thành ngữ theo cấu tạo quả là không dễ
dàng. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, các tác giả đà dựa vào
nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại.
- Cách phân loại thứ nhất: dựa vào số lợng thành tố trong thành ngữ
Các tác giả Lơng Văn Đang Nguyễn Lực trong cuốn Từ điển thành
ngữ Tiếng việt dựa vào số lợng thành tố trong thành ngữ chia ra làm 3 loại:
+ Thành ngữ kết cấu ba từ rởi: ác nh hùm, bạn nối khố, bở hơi tai, bé hạt
tiêu, bụng bảo dạ .
Trong kiểu này có một số trờng hợp tuy hình thức là tổ hợp ba tiếng một,
nhng về mặt kết cấu, đó chỉ là sự kết hợp của một từ đơn và một từ ghép, nh: bé
hạt tiêu, có máu mặt, chết nhăn răng kiểu có ba từ đơn mà kết cấu giống nh
cụm từ c - v: bạn nối khố, cá cắn câu
+ Thành ngữ kết cấu bốn từ đơn hay hai từ ghép liên hợp theo kiĨu nèi tiÕp
hay xen kÏ lµ kiĨu phỉ biÕn nhÊt của thành ngữ tiếng Việt: Bán vợ đợ con, bảng
vàng bia đá, phong ba bÃo táp, ăn to nói lớn, ác giả ác báo,
Trong đó các tác giả chia ra các kiểu:
* Kiểu thành ngữ có láy ghép: ăn bớt ăn xén, chết mê chết mệt, chúi đầu
chúi mũi
* Kiểu thành ngữ tổ hợp của hai từ ghép: Nhắm mắt xuôi tay, nhà tranh
vách đất,ăn bờ ở bụi, bàn mu tính kế
+ Thành ngữ kết cấu năm hay sau từ rời: Cũng tơng đơng nh kiểu kết cấu
trêntrẻ không tha già không thơng, treo đầu dê bán thịt chó.
Một số thành ngữ có kiểu kết cấu từ bảy, tám, mời từ rời. Nó có thể hai
hay ba ngữ đoạn, hai hay ba mệnh đề liên hợp tạo thành một tổ hợp kiểu ngữ cú
dài cố định, nh: Vênh váo nh bố vợ phải đâm, vén tay áo xô đốt nhà táng giày
v.v
Dựa vào số lợng thành tố trong thành ngữ để phân loại thành ngữ là chỉ
dựa vào hình thức, không phản ánh đợc tính chất quan hệ và đặc điểm bên trong
của chúng.
13
- Cách phân loại thứ hai: dựa vào kết cấu ngữ pháp.
Nguyễn Văn Tu dựa vào kết cấu ngữ pháp chia thành ngữ làm hai loại:
+ Thành ngữ có cấu tạo là câu đơn giản: Nớc đổ lá khoai, chuột sa
chĩnh gạo, gà sống nuôi con; bốn bể là nhà, tấc đất tấc vàng, trên dới một
lòng
ở loại câu này, tác giả phân ra làm hai loại:
* Câu đơn giản đủ hai thành phần chủ yếu, có thể thêm thành phần thứ yếu:
Mô hình: Chủ ngữ + vị ngữ + trạng ngữ hoặc tân ngữ
Ví dụ: Nớc đổ lá khoai, chuột sa chĩnh gạo, gà sống nuôi con
* Câu đơn giản chỉ có hai thành phần chính:
Mô hình: Chủ ngữ + vị ngữ
Ví dụ: Bốn bể là nhà, tấc đất tấc vàng, trên dới một lòng
+ Thành ngữ có cấu tạo là câu phức tạp: Bút sa gà chết, bụng làm dạ
chịu, cha nào con nấy, vờn không nhà trống, điều nặng tiếng nhẹ, ăn to nói lớn,
.
Nhng thành ngữ này có công thức c - v, c - v không có liền từ, ta có thể chia
làm 2 loại nhỏ, căn cứ vào mối quan hệ đẳng lập hay chính phụ của các mệnh đề
trong thành ngữ:
* Về mệnh đề phụ: Bút sa gà chết, bụng làm dạ chịu, ngọc nát hơng tàn,
mật ít ruồi nhiều, cha nào con nấy
* Về mệnh đề đẳng lập: c - v, c- v: tai bay vạ gió, vờn không nhà trống,
mẹ tròn con vuông, điều nặng tiếng nhẹ
Ngoài ra, thành ngữ còn có kiểu cấu tạo là câu phức hợp thiếu thành phần
chủ yếu nh:
* Kiểu VT - VT nh: Bán vợ đợ con, biệt tăm biệt tích, ...
* Kiểu Vtr - Vtr: ăn tối lo mai, mang nặng đẻ đau,
* Kiểu trV - trV: Bạ ăn bạ nói, giòn cời gißn khãc…
* KiĨu: Sè + danh + sè + danh: ba đầu sáu tay, ba chân bốn cẳng
Nhìn chung, cách phân loại dựa vào cấu tạo ngữ pháp đà chia thành ngữ
thành các kiểu cụ thể. Tuy nhiên cách phân loại này sẽ khó có thể khảo sát thành
ngữtiếng Việt triệt để và chính xác về nội dung.
- Cách phân loại thứ ba: dựa vào số lợng cụm từ:
14
Dựa vào tiêu chí này, ngời ta chia thành ngữ tiếng Việt gồm hai loại lớn:
thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ đơn và thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ liên
hợp. Hai loại này, tiếp tục phân ra các tiểu loại nhỏ:
+ Thành những cấu tạo theo kiểu cụm từ đơn
* Thành ngữ có cấu tạo C - V là cụm từ đơn.
Đó là loại thành ngữ tiÕng ViƯt cã cÊu t¹o chØ gåm mét cơm c - v. Theo Lê
Thị Hải Vân [27], khảo sát 626 thành ngữ tiếng Việt có kết cấu là cụm từ c - v thì
có 329 thành ngữ là cụm từ đơn, chiếm 52,6%
Ví dụ: Gậy ông đập lng ông, Trứng khôn hơn vịt, ngựa non háu đá
* Thành ngữ có cấu tạo c - p là cụm từ đơn
Cụm từ C - P thờng đợc gọi tên theo từ loại của thành tố chính trong cụm từ,
đó là cụm danh tõ, cơm ®éng tõ, cơm tÝnh tõ, cơm sè tõ, cụm đại từ.
Thành ngữ có cấu tạo là cụm từ c - p cũng có đầy đủ các loại cụm từ đà nêu
trên; nhng số lợng nhiều nhất là cụm danh từ, cụm động từ cụm tính từ. Trong các
loại này đều có cấu tạo là cụm từ đơn.
a. Thành ngữ có cấu tạo là cụm danh từ đơn:
Đây là loại thành ngữ tiếng Việt có quan hệ chính phụ giữa các yếu tố cấu
thành, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm là danh từ, cấu tạo chỉ gần một cụm
C-P
Theo Lê Thị Hải Vân, khảo sát 636 thành ngữ tiếng Việt có kết cấu cụm
danh từ, thì có 85 thành ngữ có cấu tạo cụm từ đơn: Mắt cú vọ, s tử Hà Đông.
b. Thành ngữ có cấu tạo là cụm động từ đơn.
Đây là loại thành ngữ tiếng Việt có một thành phần trung tâm là động từ,
cũng theo tác giả trên khảo sát 1366 thành ngữ tiếng Việt có cấu tạo là cụm động
từ, thì có 364 thành ngữ có cấu tạo là cụm từ đơn: ăn ở hai lòng, chỉ tay năm
ngón
c. Thành những có cấu tạo là cụm tính từ đơn:
Là thành ngữ có cấu tạo là cụm từ đơn không xuất hiện thành phần phụ trớc,
chỉ bao gồm một trung tâm và một thành phần phụ sau, có 326 thành ngữ có cấu
tạo là cụm từ đơn trên tổng 547 thành ngữ tiếng Việt có cấu tạo là cụm tính từ, ví
dụ: Tối nh bng, nhanh nh cắt, chậm nh rùa
+ Thành ngữ có cấu tạo kiểu cụm từ liên hợp
Đó là loại cấu tạo gồm 2 cụm từ trở lên kết hợp với nhau, gồm các kiểu:
15
* Thành ngữ có cấu tạo c - v là cụm từ liên hợp (c - v + c - v)
Thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ liên hợp là thành ngữ có hai kết cấu
trung tâm, mà kết cấu trung tâm là kết cấu c - v.
Trong 626 thành ngữ tiếng Việt có kết cấu là cụm c - v, thì có 297 thành
ngữ là cụm từ liên hợp, ví dụ: Máu chảy đầu rơi, miệng nói tay làm, chó ăn đá gà
ăn sỏi.
* Thành ngữ có cấu tạo c - p là cụm từ liên hợp (c - p + c - p)
ở đây, ngời ta chia ra các tiểu loại theo cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính
từ, cụ thể:
a. Thành ngữ có cấu tạo là cụm danh từ liên hợp.
Loại thành ngữ này có hai cụm từ chính phụ liên kết lại, hai cụm từ chính
phụ đó đều là cụm danh từ.
Ví dụ: Lều tranh vách đất, công ăn việc làm, chân đồng vai sắt có 551
cụm danh từ liên hợp trong tổng 636 thành ngữ có cấu tạo cụm từ danh từ.
b. Thành ngữ có cấu tạo là cụm động từ liên hợp.
Đây là loại thành ngữ tiếng Việt có hai thành phần trung tâm do động từ
đảm nhiệm, có 1002 thành ngữ có cấu tạo là cụm từ liên hợp trong 1366 thành ngữ
tiếng Việt có cấu tạo là cụm động từ: Lấp biển vá trời, đem con bỏ chợ, sống vô
gia c chết vô địa táng,
c. Thành ngữ có cấu tạo là cụm tính từ liên hợp
Thành ngữ loại này bao gồm hai thành phần trung tâm do tính từ đảm
nhiệm, có 219 thành ngữ có cấu tạo là cụm từ liên hợp trên tổng 547 thành ngữ
tiếng Việt có cấu tạo cụm tính từ: Bầm gan tím ruột, mát lòng mát dạ, mềm nắn
rắn buông,
Đây là một cách phân loại khá hợp lý, vì thành ngữ vốn là cụm từ cố định,
vì vậy dựa vào số lợng cụm tõ ta cã thĨ chia c¸c kiĨu kÕt cÊu cđa thành ngữ.
- Cách phân loại thứ t: dựa vào phơng thức cấu tạo
Trong Thành ngữ học tiếng Việt, GS- TS Hoàng Văn Hành đa ra tiêu chí
phân loại thành ngữ dựa vào phơng thức cấu tạo. Trên cơ sở đó, ông đà phân thành
ngữ làm ba loại
16
+ Thành ngữ so sánh
Loại thành ngữ này khá phổ biến trong thành ngữ Tiếng Việt, thành
ngữ so sánh là một tổ hợp từ bền vững, bắt nguồn từ phép so s¸nh mang nÐt nghÜa
biĨu trng.
NÕu nh cÊu tróc cđa phép so sánh thông thờng gần bốn dạng:
1) At nh B: "Đối với bộ đội, chính trị viên phải dịu hiỊn nh mét ngêi
chÞ" (Hå ChÝ Minh).
2) A nh B: "Thế địch nh lửa, thế ta nh nớc. Nớc nhất định thắng lửa"
(Hồ Chí Minh).
3) t nh B "ấp úng nh thùng đứt vành. Trả lời không đợc phải đámh
ngậm câm" (c d).
4) Nh B: "Nh cá nằm trong chậu, quân địch chết bị thơng và bị bắn
chết" (Hồ Chí Minh).
Thì cấu trúc của thành ngữ so sánh chỉ tơng ứng với dạng thứ ba và
dạng thứ t của phép so sánh, cụ thể là:
1. t nh B: Nợ nh chúa chổm, đẹp nh tiên, chậm nh rùa.
2. Nh B: Nh c¸ víi níc, nh mÌo thÊy mì, nh ong vỡ tổ.
Trong thành ngữ so sánh,vế B - vế so sánh đóng vai trò quan trọng bởi qua
nó ta nhận thấy đợc cách nhìn, cách nghĩ, thấy đợc dấu ấn của đời sống và con ngời của mỗi dân tộc, mỗi địa phơng.
Vế B có thể đợc cấu tạo là một từ:
Đẹp nh tiên
Hiền nh bụt
Hoặc là một tổ hợp từ:
Trắng nh trứng gà bóc
Đẹp nh tiên non bồng
Hay cũng có thể là một kết cấu chủ - vị:
Nh dao/ chém đá
Nh mèo/ thấy mỡ
Vế [t]- vế cái đợc so sánh, là vế có tính chất bắt buộc, nhng không nhất thiết
là phải ổn định ở mặt hiển ngôn. Chẳng hạn, các thành ngữ: Run nh cầy sấy, cời
nh nắc nẻ, thì [t] xuất hiện ở dạng hiểu ngôn và có tính chất ổn định.
Nhng có trờng hợp [t] hầu nh vắng mặt:
17
Nh răng với môi
Nh cá với nớc .
Và cũng có hiện tợng trung gian, trong đó [t] ẩn hay hiện tuỳ theo ngữ
cảnh:
(Chậm) nh rùa
(Cay) nh ớt
+ Thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng
Đây là loại thành ngữ phổ biến nhất trong tiếng Việt. Theo Giáo s Hoàng
Văn Hành, thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng làm nên diện mạo của thành ngữ tiếng
Việt, nó chiếm 2/3 tổng số thành ngữ. Các thành ngữ có cấu trúc đối xứng nh:
Chim sa cá lặn
Thay lòng đổi dạ
Đầu tắt mặt tối
Các thành ngữ này có tính chất đối xứng giữa các bộ phận và các yếu tố tạo
nên thành ngữ. Quan hệ đối xứng đó đợc thiết lập dựa trên hai bình diện: đối ý và
đối lời. Đối ý là đối ở cấp độ vế, còn đối lời là đối ở cấp độ yếu tố.
Ví dụ: Thành ngữ "Đầu voi đuôi chuột" ta thấy: "đầu voi" đối xứng với
"đuôi chuột", đây là đối xứng ở cấp độ vế, nó giúp ta nhận ra nghĩa của thành ngữ
này là: điều đề ra lúc đầu thì to tát, hay ho nhng kết cục, khi kết thúc, điểm lại thì
mới chỉ làm đợc một phần rất nhỏ, không đáng kể. Nhng để có quan hệ đối ý này
là nhờ vào quan hệ đối xứng giữa các yếu tố trong hai vế của thành ngữ - đó là
quan hệ đối lời.
Trong thành ngữ trên nhờ có quan hệ đối xứng giữa yếu tố "đầu" và "đuôi",
"chuột" - "voi" mà ta suy ra đợc ý nghĩa của thành ngữ.
Cần nhận thấy, để có đợc sự đối lời đó thì nội dung ngữ nghĩa các yếu tố
đối xứng nhau trong hai vế ở phần lớn các thành ngữ phản ánh những đặc trng
thuộc cùng một phạm trù ngữ nghĩa và chúng phải cùng một phạm trù từ loại. Hay
nói cách khác, giữa các yếu tố trong hai vế có sự tơng đồng về ngữ pháp - ngữ
nghĩa.
Xét ví dụ: "Cà chua mắm mặn" ta thấy có hai cặp yếu tố cùng phạm trù
ngữ nghĩa: cà - mắm; chua - mặn. Chúng cùng chỉ một hiện tợng, một sự vật, tính
chất "Cà,mắm" chỉ những món ăn đơn giản, gần gũi với ngời dân lao động.
"Chua, mặn" chỉ tính chất của sự vật vừa nêu. Mặt khác, các yÕu tè ë hai vÕ cña
18
thành ngữ đó đều thuộc một phạm trù từ loại, cụ thể là "cà", "mắm" đối xứng với
nhau và đều là danh từ, còn "chua", "mặn" đối xứng với nhau và đều là tính từ.
Tơng tự, có các thành ngữ ẩn dụ đối xứng: mẹ tròn con vuông, bán thịt
buôn ngời, rừng vàng biển bạc v.v
+ Thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng
Bên cạnh những thành ngữ có cấu trúc đối xứng, thành ngữ so sánh thì còn
có một bộ phận không thuộc vào hai kiểu cấu tạo trên, GS Hoàng Văn Hành gọi
đó là thành ngữ thờng "hay tốt hơn là những thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng"
[11; tr 47].
Thành ngữ có cấu trúc thờng chiếm tỉ lệ không nhiều. Về mặt cấu tạo thì
chúng không có tính chất đối xứng, bởi chúng đợc tạo ra nh những cấu trúc ngữ
pháp bình thờng. Cụ thể là đợc cấu tạo theo hai kiểu kết cấu ngữ pháp: kiểu kết
cấu có một trung tâm và kiểu kết cấu có hai trung tâm. Ta có thể hiểu một cách
đơn giản nh sau:
* Kết cấu ngữ pháp có một trung tâm gồm 3 kiểu:
Kết cấu danh ngữ: anh hùng rơm, hai bàn tay trắng, bạn nối khố, công tử
bột, công dà tràng, mắt cú vọ, nớc mắt cá sấu, cá mè một lứa,
Kết cấu động ngữ: ăn vụng khéo chùi mép, chạy long tóc gáy, bán
trời không văn tự, bắt cá hai tay, ăn thịt ngời không tanh, bật đèn xanh, lo bò
trắng răng
Kết cấu tính ngữ: bở hơi tai, cứng đầu cứng họng, trơ mắt ếch, bé chẳng
vin cả gÃy cành, xấu chàng hổ ai
* Kết cấu ngữ pháp có hai trung tâm là kết cấu chủ - vị (c-v): cá nằm
trên thớt, gà trống nuôi con, gái đĩ già mồm, Cao Biền dậy non, cha chung
không ai khóc, chó cắn áo rách, cò bay thẳng cánh, cóc mọc lông nách
Theo chúng tôi, trong bốn cách phân chia cấu trúc thành ngữ tiếng Việt
trên, cách chia của GS Hoàng Văn Hành - dựa vào phơng thức cấu tạo - có thể
xem là hợp lý nhất, mang tính khoa học nhất. Chúng tôi lấy đó làm nền tảng, làm
cơ sở để khảo sát, thống kê, phân tích đặc điểm cấu tạo của thành ngữ Nghệ Tĩnh.
19
1.1.3 Về vấn đề ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt
Ngoài đặc điểm cấu tạo, khi nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt hay bất cứ
thành ngữ của một dân tộc nào, thì cũng cần phải xem xét về mặt biểu hiện nghĩa
của chúng, bởi thành ngữ là một đơn vị từ vựng - ngữ nghĩa.
Khi bàn về ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt, các nhà nghiên cứu đà đa ra
các ý kiến không hoàn toàn giống nhau, song đều có chung quan điểm, họ cho
rằng: nghĩa của thành ngữ cã tÝnh chÊt biĨu trng, cã tÝnh hoµn chØnh, bãng bẩy.
Theo Lơng Văn Đang, Nguyễn Lực: " Một bộ phận thành ngữ tiếng Việt
cũng có tính đa nghĩa, nhng trong đó nghĩa bóng có tầm quan trọng hơn cả
Nghĩa này có tính khái quát, tợng trng cho toàn bộ tổ hợp". Điều này nói lên ý
nghĩa của thành ngữ là sự hoà hợp, chung đúc của nghĩa từng yếu tố, nhng đó
không phải là sự hoà hợp với phép cộng giản đơn nghĩa của các yếu tố trong thành
ngữ, mà qua những hình ảnh, những sự vật, những hiện tợng bên ngoài cuộc sống
để biểu trng cho những đặc điểm, tính chất, hoạt động phổ quát.
Chúng ta nhận thấy rằng, nghĩa của thành ngữ đợc xác nhận nh là một chỉnh
thể định danh, tơng đơng với từ. Song, khác các đơn vị từ vựng bình thờng, thành
ngữ là loại định danh bậc hai, nghĩa là nội dung của thành ngữ không nhằm biểu
thị theo nghĩa đen của các từ ngữ tạo nên nó mà ngụ ý điều gì đợc suy ra từ chúng.
Ví dụ: Thành ngữ "Múa rìu qua mắt thợ" không chỉ nói đến việc một ngời
nào đó cầm rìu múa qua mắt một ngời thợ, mà nã mang ý nghÜa: trỉ tµi, khoe tµi,
tá ra hiĨu biết trớc ngời tài giỏi, tinh thông hơn mình.
Hay thành ngữ "Mèo mù vớ cá rán" không phải đơn thuần là một con mèo
bị mù lấy đợc con cá rán nào, mà nó chỉ sự gặp may đặc biệt, bất ngờ.
Do vậy, các thành ngữ "các ngữ cố định đều cã cÊu tróc ng÷ nghÜa cđa cơm
tõ tù do" [7, tr78], tức là cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ thờng đợc diễn đạt
thành một cụm từ tự do, trong ®ã cã mét tõ trung t©m (hay mét cơm tõ trung tâm)
và những thành phần phụ bổ sung ý nghĩa của thành phần trung tâm những sắc
thái phụ. Thành phần trung tâm là ý nghĩa nòng cốt, ý nghĩa cơ bản của thành ngữ.
Chẳng hạn nh thành ngữ: "Thần hồn nát thần tính", có thể diễn đạt bằng
cụm từ: hốt hoảng, kinh hoàng do chính những ảo tởng, những ý nghĩ ma quái nảy
sinh tự trong đầu óc mình gây ra nhân khi tâm hồn không ổn định. ở đây, thành
phần trung tâm là "hốt hoảng, kinh hoàng" còn lại là thành phần phụ.
20
Ngữ nghĩa của thành ngữ cũng thờng đợc nhắc đến với các đặc điểm nh:
tính biểu trng, tính hình tợng, tính cụ thể, tính biểu thái, tính dân tộc. Tất cả những
đặc điểm này đà tạo nên giá trị ngữ nghĩa hết sức độc đáo của thành ngữ tiếng
Việt.
Trong số các đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến tính
biểu trng. Nó đợc xem là đặc tính bản chất nhất của thành ngữ. Điều này, GS Đỗ
Hữu Châu, trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, đà khẳng định: "Biểu trng
là cơ chế tất yếu mà ngữ cố định, mà từ vựng phải ghi nhận, diễn đạt những nội
dung phức tạp hơn một khái niệm đơn" [7, tr.82].
ở bài viết Tính biểu trng của thành ngữ tiếng Việt" của Phan Xuân
Thành, tác giả đà nêu lên hai loại yếu tố có tính biểu trng, đó là:
1) Các yếu tố có tính biểu trng đơn giản thờng gặp trong các thành ngữ so
sánh, ớc lệ, nh: trắng nh ngà, chậm nh rùa ở loại thành ngữ này, đặc tính so
sánh đợc biểu trng qua vật so sánh Đối với các thành ngữ so sánh ý nghĩa của
chúng thờng đợc thể hiện ở nghĩa đen và gánh nặng ngữ nghĩa thờng dồn về ở vế
đầu tiên.
Vậy là ở loại yếu tố có tính biểu trng đơn giản này thì tính chất biểu trng đợc biểu hiện ở yếu tố của vế đầu, còn vế thứ hai chỉ có tác dụng tăng thêm sắc thái.
Chẳng hạn, thành ngữ "chậm nh rùa" thì ý nghĩa đợc hiểu trọn vẹn ë tõ
"chËm", cßn vÕ thø hai "nh rïa" chØ cã tác dụng tăng sắc thái nghĩa.
Tơng tự, ta có các thành ngữ thuộc loại yếu tố có tính biểu trng đơn giản nh:
đẹp nh tiên, trắng nh bông, dữ nh cọp, v.v
2) Loại yếu tố biểu trng thứ hai là có phức tạp hơn, bởi trong các yếu tố
nghĩa đó bao giờ cũng ẩn chứa những tri thức dân gian. Có những thành ngữ biểu
trng tuy phức tạp nhng vẫn dễ nhận diện - đó là sự biểu trng trực tiếp, ví nh: đục nớc béo cò; ngu tầm ngu, mà tầm mà Song cũng có dạng biểu trng gián tiếp,
chúng tạo ra tính nhiều bậc nên phức tạp và khó nhận diện hơn, ví dụ: nhạt phấn
phai hơng, bứt nhị hái hoa, ong qua bớm lại, v.v
Tác giả Bùi Khắc Việt đà bàn về tính biểu trng trong bài Về tính biểu trng
của thành ngữ trong tiếng Việt, trong đó ông đa ra hai trờng hợp về mối quan hệ
giữa sự vật hoặc hình ảnh với ý nghĩa biểu trng trong thành ngữ:
21
1) Thành ngữ biểu trng hoá toàn bộ: Ban đầu, đây là tổ hợp tự do, biểu thị
một hiện tợng, mét hµnh vi, mét tÝnh chÊt cơ thĨ, vỊ sau đợc sử dụng trong phạm
vị rộng, nghĩa đợc khái quát hoá trở thành thành ngữ.
Ví dụ: Hai bàn tay trắng, bật đèn xanh, dậm chân tại chỗ.
2) Thành ngữ biểu trng hoá bộ phận: ở trong các thành ngữ này tồn tại một
hay một số thành tố có nghĩa biểu trng rõ rệt, và một số thành tố không có nghĩa
biểu trng.
Ví dụ: Nợ nh chúa chổm; giận cá chém thớt, trong đó "Chúa chổm";
"cá", "thớt" là những thành tố cã nghÜa biĨu trng.
Nh vËy, tÝnh biĨu trng cđa thµnh ngữ khá đa dạng, phong phú. Nó vừa có
dạng đơn giản, vừa có dạng phức tạp, vừa có sự biểu trng trực tiếp, lại có sự biểu
trng gián tiếp, và ngoài ra còn có biểu trng toàn bộ, biểu trng bộ phận. Chính vì thế
mà "vấn đề biểu trng hoá làm sáng tỏ quá trình hình thành nghĩa của thành
ngữ".
Điều đó đà đợc GS Hoàng Văn Hành nhấn mạnh trong Thành ngữ học
tiếng Việt: "Nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thờng là kết quả của hai hình thái biểu
trng hoá, hình thái tỉ dụ (so sánh) và hình thái ẩn dụ (so sánh ngầm)" [11, tr.31].
Về hình thái ẩn dụ, ta có những thành ngữ nh: mèo mả gà đồng, chim sa cá
lặn, ấm lửa đỏ đèn, cửa các buồng khuê
Về hình thái so sánh, ta có các thành ngữ nh: nh chân với tay, đẹp nh tiên,
béo nh bồ sứt cạp, xấu nh ma
Tuy nhiên, trong thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi thấy có một bộ phận thành
ngữ dùng các hình ảnh hoán dụ để biểu trng hoá ngữ nghĩa, ví dụ: áo chiếc quần
manh, một nắng hai sơng, tai to mặt lớn, mồm năm miệng mời, v.v
Hay có những thành ngữ nghĩa của nó đợc tạo nên bởi phơng thức biểu trng
hoá ngữ nghĩa dựa trên cơ sở các điển tích, điển cố, nh: Nợ nh chóa chỉm, Ngu
Lang Chøc N÷, Cao BiỊn dËy non … ở các thành ngữ này, giá trị ngữ nghĩa biểu
trng của thành ngữ đợc toát lên từ chính nội dung ngữ nghĩa mà các điển tích, điển
cố đà xây dựng.
Ngoài các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề ngữ nghĩa thành ngữ
trên, thì nhiều nhà nghiên cứu đà đi sâu khảo sát phân tích hiện tợng đồng nghĩa,
trái nghĩa trong thành ngữ tiếng Việt, tiêu biểu đó là luận văn Thành ngữ đồng
nghĩa và trái nghĩa trong tiếng Việt của Trần Anh T. Trong luận văn này, tác gi¶
22
đi sâu khảo sát, phân loại thành ngữ đồng nghĩa, thành ngữ trái nghĩa một cách
rạch ròi, tỉ mỉ, giúp ta dễ dàng nhận diện.
Các kết quả của các nhà nghiên cứu đợc trình bày nh trên là cơ sở lý thuyết
về ngữ nghĩa thành ngữ tiếng Việt - đó chính là các căn cứ cần thiết, bổ ích giúp
chúng tôi phân tích đặc điểm ngữ nghĩa trong thành ngữ Nghệ Tĩnh.
1.1.4. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Thành ngữ đợc xem là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt - đơn vị có tính chất
trung gian giữa bậc từ vựng và bậc cú pháp. Nghĩa là, một mặt, thành ngữ đợc cấu
tạo theo những mô hình cú pháp, mặt khác, nó lại hoạt động nh một đơn vị từ
vựng. Do đó, cần phân biệt nó với các đơn vị có liên quan hệ thống các đơn vị
ngôn ngữ.
ở khoá luận này, để thuận lợi trong việc khảo sát, thống kê, phân loại thành
ngữ, chúng tôi tập trung phân biệt hai đơn vị ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với
nhau đó là thành ngữ và tục ngữ.
Từ trớc đến nay, có không ít công trình nghiên cứu tiến hành phân biệt
thành ngữ và tục ngữ, có thể điểm qua các công trình tiêu biểu sau:
Tác giả Dơng Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đà chỉ ra:
"Một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ
bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một
ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho có màu mè".
Theo Vũ Ngọc Phan: "Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trän vĐn mét ý,
mét nhËn xÐt, mét kinh nghiƯm, mét luân lí, một công lí, có khi là một sự phê
phán. Còn thành ngữ là một phần cầu có sẵn, nó là một phần câu có sẵn, nó là
một bộ phận của câu mà nhiều ngời quen dùng nhng tự riêng nó không diễn đạt
một ý trọn vẹn" (Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB KHXH, H; 1978).
Ngoài ra, trong các cuốn sách Tục ngữ Việt Nam (1975) của Chu Xuân
Diên, Lơng Văn Đang - Phơng Tri; hay Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (1978)
của Nguyễn Văn Tu, Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại (1976) của Hồ Lê
phần nào cũng phân biệt hai đơn vị thành ngữ và tục ngữ.
Trên các tạp chí ngôn ngữ đà xuất hiện nhiều bài viết bàn về vấn đề đó một
cách cụ thể, nh: Nguyễn Văn Mệnh, với bài Ranh giới giữa thành ngữ và tục
ngữ (TC Ngôn ngữ, số 3, 1972), đà nêu: "Nội dung của thành ngữ mang tính chất
hiện tợng, còn nội dung của tơc ng÷ nãi chung mang tÝnh quy lt".
23
Tác giả Cù Đình Tú trong bài Góp ý về sự phân biệt thành ngữ và tục
ngữ" (TC Ngôn ngữ, số 1, 1973) cho rằng: "Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ
và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng. Thành ngữ là những đơn vị có sẵn
mang chức năng định danh, nói khác đi, dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành
động Về mặt này mà nói, thành ngữ là những đơn vị tơng đơng với từ. Tục
ngữ đứng về mặt ngôn ngữ học có chức năng khác hẳn so với thành ngữ. Tục ngữ
cũng nh các sáng tạo khác của dân gian nh ca dao, truyện cổ tích, đều là các
thông báo Nó thông báo một nhận định nào đó của thế giới khách quan. Do
vậy, mỗi tục ngữ đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tởng". ở
đây, tác giả nêu ra những tiêu chí về mặt ngôn ngữ để phân biệt, cụ thể là: sự khác
nhau về cấu tạo ngữ pháp và về vị trí trong lời nói của thành ngữ và tục ngữ.
Theo GS. Hoàng Văn Hành, thành ngữ và tục ngữ tuy có một số nét tơng
đồng có thể chuyển hoá lẫn nhau nhng về bản chất là không giống nhau, xét về
mọi phơng diện: về hình thức cấu trúc cũng nh về mặt ngữ nghĩa, nội dung biểu
đạt và chức năng của chúng trong giao tiếp xà hội. Ông đà phân biệt hai đơn vị
ngôn ngữ đó theo 4 tiêu chí sau:
- Về hình thái cấu trúc: Thành ngữ là tổ hợp từ cố định (hoặc kết cấu chủ vị) quan hệ hình thái; còn tục ngữ là câu (phát ngôn) cố định (cả đơn và phức),
quan hệ cú pháp.
- Về chức năng biểu hiện nghĩa định danh: Thành ngữ có chức năng định
danh sự vật, hiện tợng, quá trình; tục ngữ có chức năng định danh sự tình, sự
kiện, trạng huống.
- Về chức năng biểu hiện hình thái nhận thức: Thành ngữ biểu thị khái niệm
bằng hình ảnh biểu trng, tục ngữ lại biểu thị phán đoán bằng hình tợng biểu trng.
- Về đặc trng ngữ nghĩa: cả thành ngữ và tục ngữ đều mang hai tầng nghĩa
đợc tạo bằng phơng thức so sánh và ẩn dụ hoá.
Nh vậy, để phân biệt thành ngữ và tục ngữ, các nhà nghiên cứu đà ®a ra
nhiỊu c¸ch kh¸c nhau. KÕ thõa ý kiÕn cđa những ngời đi trớc, chúng tôi xin nêu
các tiêu chí cụ thể để thấy rõ sự giống nhau và khác biệt giữa thành ngữ và tục
ngữ.
Trớc hết, thành ngữ và tục ngữ là hai đơn vị ngôn ngữ đợc lặp đi lặp lại
nhiều lần trong lời nói, chúng có tính cố định và cũng mang tính có sẵn Chính
24
những điểm chung này đà gây không ít khó khăn trong việc nhận diện thành ngữ
và tục ngữ.
Điều này cũng giải thích vì sao chúng thờng đợc nhắc tới đồng thêi nh mét
tht ng÷ kÐp trong hƯ thèng cÊu tróc của tiếng Việt, chẳng hạn khi xây dựng các
công trình từ điển, các tác giả đà lấy thành ngữ và tục ngữ tạo thành một cặp đôi
làm đối tợng, ví nh: Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân; Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam của Vũ Duy, Vũ Quang Hào Hay cuốn Từ
điển thành ng÷, tơc ng÷ NghƯ TÜnh cđa GS. TS Ngun Nh· Bản.
Tuy nhiên, giữa hai đơn vị này có những đặc điểm riêng xét về phơng diện
hình thức cấu tạo, chức năng ngôn ngữ và về phơng diện hoạt động hình thức.
- Về phơng diện hình thức cấu tạo, giữa thành ngữ và tục ngữ có sự khác
nhau về cấp độ, cụ thể: Thành ngữ tồn tại dới dạng cụm từ, có thể là cụm danh từ
(Hai bàn tay trắng, công dà tràng, anh hùng rơm, mắt cú vọ, cá mè một lứa ) ,
có thể là cụm động từ (Ăn phải bùa phải bả, bán trời không văn tự, bắt cá hai
tay, chạy long tóc gáy ) hoặc có thể là cụm tính từ (Trơ mắt ếch, nghèo rớt
mùng tơi, mênh mông bể sở, gan cóc tía ). Còn tục ngữ lại đợc biểu đạt bằng
câu và là loại câu đặc biệt bởi nó là "Thông điệp nghệ thuật". Chính do sự khác
nhau này mà tên gọi của từng đơn vị là không giống nhau, ta thờng nói "câu tục
ngữ" mà không bao giờ nói câu thành ngữ. Điều đó cũng dẫn đến hệ quả, khi đi
vào hoạt động, thành ngữ thờng đợc dùng nh là một thành phần của câu.
Ví dụ: "Y cho rằng ở đời chỉ có sức mạnh là hơn. Cuộc đời này cá lớn nuốt
cá bé là sự dĩ nhiên" (Cá bống mù - Đoàn Giỏi). Còn tục ngữ có thể đứng độc lập
thành một câu hoàn chỉnh, ví dụ: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Trong cuộc tng bừng
vui vẻ hôm nay, chúng ta nhớ đến các anh hùng liệt sĩ của Đảng ta, của nhân dân
ta" (Hồ Chí Minh) hoặc có thể là một mệnh đề đẳng lập trong câu phức, ví dụ:
"Thiên nhiên khắc nghiệt là nh vậy, không phải là ngời cúi mặt buông tay chịu
đựng một cách nhẫn nhục những thử thách đó của thiên nhiên. Vỏ quýt dày có
móng tay nhọn, thiên nhiên đà gặp ở đây một đối thủ khá xứng đáng " (Những
ngày nổi giận - Chế Lan Viên).
Nhng vấn đề đặt ra là trong thành ngữ chúng ta thấy một số thành ngữ có
cấu tạo là một câu (một kết cấu c-v) thậm chí là một câu ghép (hai kết cấu c-v). Ví
dụ: áo gấm/ đi đêm, Cao Biền/ dậy non, chân đăm/ đá chân chiêu, ăn mày/ đòi
xôi gấc; ma/ dập, gió/ vùi; ông/ nói gà, bà/ nói vịt Do sự nhập nhằng này mà
25