Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ hợp điều KIỆN hợp ĐỒNG THEO CÔNG ước VIÊN 1980 của LIÊN hợp QUỐC về hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG hóa QUỐC tế (CISG) LIÊN hệ LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ KIM HẢI

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP ĐIỀU KIỆN HỢP ĐỒNG
THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 CỦA LIÊN HỢP Q́C
VỀ HỢP ĐỜNG MUA BÁN HÀNG HĨA Q́C TẾ (CISG) LIÊN HỆ LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ KIM HẢI

GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP ĐIỀU KIỆN HỢP ĐỒNG
THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 CỦA LIÊN HỢP Q́C
VỀ HỢP ĐỜNG MUA BÁN HÀNG HĨA Q́C TẾ (CISG) LIÊN HỆ LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Kinh tế.
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ KIM VINH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vinh. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Các ví dụ minh họa, số liệu, sự kiện pháp lý phục vụ cho việc đánh giá,
phân tích được chính tác giả thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo. Ngồi ra, trong luận văn cịn sử dụng các nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và
chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự khơng trung thực nào, tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về nội dung luận văn của mình. Trường Đại học Kinh tế - Luật không liên
quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tơi gây ra trong q trình thực
hiện (nếu có).
TÁC GIẢ

VŨ KIM HẢI


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1

TỪ VIẾT TẮT
CISG

DIỄN GIẢI
Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế


2

LTM

Luật Thương mại

3

HĐMBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

4

BLDS

Bộ luật dân sự


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA Q́C
TẾ................................................................................................................................6

1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ..................................................6
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............................................8
1.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ...........................................13
1.3.1. Một số điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .............13
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ..20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................26
CHƯƠNG 2. GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN HỢP
ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CÔNG ƯỚC LIÊN HIỆP Q́C VỀ MUA BÁN
HÀNG HỐ Q́C TẾ .........................................................................................27
2.1. Hành vi giao hàng không phù hợp với điều kiện hợp đồng theo quy định của
Công ước Liên Hiệp Quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (“CISG”) ........................27
2.1.1. Phân loại và căn cứ phân loại hành vi giao hàng không phù hợp với điều kiện
hợp đồng theo quy định của CISG ............................................................................27
2.1.2. Các hành vi giao hàng không phù hợp với điều kiện hợp đồng phổ biến trong
các giao dịch thương mại quốc tế..............................................................................36
2.2. Hậu quả pháp lý của việc giao hàng không phù hợp với điều kiện hợp đồng
theo quy định của CISG ............................................................................................43
2.2.1. Các đặc điểm chung ........................................................................................43


2.2.2. Hậu quả pháp lý (chế tài được áp dụng) của việc giao hàng không phù hợp
với điều kiện hợp đồng theo quy định của CISG ......................................................45
2.3. Các trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ giao hàng ...............51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................58
CHƯƠNG 3. CÁC QUY ĐỊNH LUẬT VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
XÁC ĐỊNH HẬU QUẢ PHÁP LÝ DO GIAO HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP VỚI
ĐIỀU KIỆN HỢP ĐỒNG TRONG HĐMBHHQT - CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN
NGHỊ. .......................................................................................................................60
3.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến việc xác định hậu quả pháp
lý do giao hàng không phù hợp với điều kiện hợp đồng trong HĐMBHHQT .........60

3.1.1. Buộc thực hiện hợp đồng ................................................................................60
3.1.2. Bồi thường thiệt hại.........................................................................................60
3.1.3. Hủy bỏ hợp đồng thương mại .........................................................................66
3.1.4. Phạt vi phạm ....................................................................................................67
3.2. Đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật Việt Nam phù hợp với quốc tế trong
việc xác định hậu quả pháp lý do giao hàng không phù hợp với điều kiện hợp đồng
trong HĐMBHHQT ..................................................................................................69
3.2.1. Chế tài bồi thường thiệt hại của LTM Việt Nam ............................................69
3.2.2. Quy định các trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm việc giao hàng không
phù hợp với hợp đồng ...............................................................................................71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................73
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu:
Trong xã hội có sự trao đổi mua bán hàng hóa thì ln ln cần thiết có một
cơ chế đảm bảo để nếu trường hợp xảy ra các vấn đề làm tổn hại đến quyền và lợi
ích chính đáng của các bên trong giao dịch thì các quy định này sẽ góp phần điều
tiết, cân bằng lợi ích của các bên nhằm đảm bảo được tính cơng bằng, bình đẳng
cho quyền lợi giữa các bên trong giao dịch mua bán hàng hóa đồng thời khuyến
khích các bên khi tiến hành giao dịch cần có những phương pháp cụ thể nhằm hạn
chế tối đa sự cố cũng như có căn cứ để xác định lỗi dẫn đến chịu trách nhiệm về
hành vi giao dịch một cách rõ ràng, minh bạch. Để đáp ứng yêu cầu này Công ước
Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) đã được ra đời nhằm điều
chỉnh những quy tắc chung nhất khi tham gia giao dịch thương mại giữa các quốc
gia với nhau, trong đó hơn hết là quy định chi tiết về những quy định khi xảy ra

trường hợp giao hàng lỗi giữa các bên, đặc biệt là giữa các quốc gia thành viên với
nhau vốn dĩ mang nhiều khác biệt về thói quen và quy định pháp luật giao dịch
thương mại.
Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, cho đến nay, CISG đã trở thành một trong
các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất.
Trong phạm vi hẹp hơn, so với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa
(như các cơng ước Hague 1964), CISG là Cơng ước quốc tế có quy mơ lớn hơn hẳn
về số quốc gia tham gia và mức độ được áp dụng. Trong danh sách các quốc gia
thành viên của Cơng ước Viên 1980, có sự góp mặt của các quốc gia thuộc các hệ
thống pháp luật khác nhau, các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát
triển, các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các quốc gia theo đường lối xã hội
chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục.
Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn với
hơn 2500 vụ tranh chấp đã được Tòa án và trọng tài các nước/quốc tế giải quyết có
liên quan đến việc áp dụng và diễn giải Công ước Viên 1980 được báo cáo. Điểm


2

cần nhấn mạnh là 2500 vụ việc này không chỉ phát sinh tại các quốc gia thành viên.
Tại các quốc gia chưa phải là thành viên, Công ước vẫn được áp dụng, hoặc do các
bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng cho hợp
đồng, hoặc do các tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp. Nhiều
doanh nhân tại các quốc gia chưa phải là thành viên CISG đã tự nguyện áp dụng
CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình, bởi vì họ thấy được những
ưu việt của CISG so với luật quốc gia.
Vai trò của CISG còn thể hiện ở chỗ CISG là nguồn tham khảo quan trọng
của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Các
nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL). Trên cơ sở nền tảng của CISG,
các nguyên tắc này đã trở thành các văn bản thống nhất luật quan trọng về hợp

đồng, được nhiều quốc gia và doanh nhân tham khảo và sử dụng trong các giao dịch
thương mại quốc tế.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức gia nhập CISG, trở thành viên thứ
84 của Công ước này và là thành viên thứ 2 sau Singapore gia nhập CISG. Kể từ
ngày 1/1/2017 CISG có hiệu lực đối với Việt Nam. Việc gia nhập CISG đã đánh
dấu một mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về
thương mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp
việt nam một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an tồn để thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong các quy định của CISG không thể không đề cập đến các quy định liên
quan đến các trường hợp giao hàng lỗi, bởi sự khác biệt dù nhiều dù ít vẫn xảy ra
đối với các quốc gia thành viên khi tham gia CISG, khác biệt này dẫn tới nhiều hệ
quả xảy ra khi tiến hành việc giao nhận hàng hóa giữa bên mua và bên bán địi hỏi
cấp thiết phải được nghiên cứu sâu, quy định chặt chẽ những quyền và nghĩa vụ
giữa các bên khi xảy ra vấn đề giao hàng lỗi cũng như những hậu quả xảy ra gắn
liền với hành vi này, từ đó đóng góp quan trọng, thực chất về tính cơng bằng minh


3

bạch khi tham gia thương mại quốc tế đúng như tinh thần của CISG mà các quốc
gia thành viên tham gia muốn hướng đến.
Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến CISG chủ yếu
xoay quanh nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chưa tập trung vào vấn
đề cụ thể như trường hợp phát sinh khi xảy ra việc giao hàng khơng phù hợp, vì vậy
việc nghiên cứu thêm về vấn đề này cần được ưu tiên và mở rộng, từ đó đóng góp
đề xuất thêm các quy định trong pháp luật Việt Nam nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật hội nhập tốt hơn khi tham gia thương mại quốc tế.

Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về vấn đề giao hàng không phù hợp theo quy định của CISG, các
quy định tương tự trong pháp luật Việt Nam, có sự so sánh để nêu những bất cập và
vướng mắc giữa quy định của CISG với pháp luật thương mại Việt Nam nhằm đưa
ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan trong
lĩnh vực thương mại quốc tế.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về vấn đề giao hàng lỗi theo quy định của CISG, các quy định
tương tự trong pháp luật Việt Nam, có sự so sánh để nêu những bất cập và vướng
mắc giữa quy định của CISG với pháp luật thương mại Việt Nam nhằm đưa ra một
số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan trong lĩnh
vực thương mại quốc tế.
Câu hỏi nghiên cứu:
CISG quy định như thế nào về các trường hợp giao hàng không phù hợp.
Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về các trường hợp giao hàng
không phù hợp tương tự các trường hợp được quy định trong CISG.
Các đề xuất liên quan đến quy định trong CISG và luật Việt Nam là gì.


4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quy định của CISG liên quan đến trường hợp giao
hàng lỗi, pháp luật thương mại Việt Nam về trường hợp giao hàng lỗi, các quy định
dưới luật và các bài viết trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung: CISG, luật Việt Nam về trường hợp giao hàng không phù hợp.
Không gian: Tại Việt Nam và các nguồn thông tin khác như sách, báo mạng
từ các nước khác.
Thời gian: Quy định hiện hành.

Cơ sở lý thuyết và khung phân tích:
Cơ sở lý thuyết: Các nghiên cứu của các tác giả liên quan đến CISG cho thấy
các trường hợp giao hàng không phù hợp xảy ra cũng tương đối phổ biến, làm cơ sở
lý thuyết cho việc nghiên cứu đề tài.
Khung phân tích: Mở rộng khi phân tích các quy định trong CISG sau đó liên
hệ một cách cụ thể trong pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra phương hướng đề xuất
đối với từng vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu nghiên cứu:
Phương pháp luận chung của Luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận đó, tác giả áp dụng các
phương pháp cụ thể như: Phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích, so sánh, tổng
hợp.
Nguồn dữ liệu sẽ được tiếp cận đa số là thứ cấp, lấy số liệu từ các báo cáo,
thống kê của các tổ chức uy tín.
Bố cục của đề tài:
Ngồi phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương sau:


5

- Chương 1: Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế.
- Chương 2: Giao hàng khơng phù hợp với điều kiện hợp đồng theo quy định
của CISG.
- Chương 3: Các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan, đề xuất.


6

CHƯƠNG 1.

KHÁI QT VỀ HỢP ĐỜNG MUA BÁN HÀNG HĨA Q́C TẾ
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện qua nhiều hoạt động khác biệt
như thương mại về hàng hóa, thương mại liên quan đến các vấn đề quyền sở hữu trí
tuệ, thương mại đầu tư…Trong tất cả thì các giao dịch thuộc lĩnh vực thương mại
hàng hóa ln thể hiện vai trị một cách rõ nét nhất, có vị trí quan trọng trong giao
dịch thương mại quốc tế.
Các giao dịch thuộc lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thể hiện đa
phần qua các dạng hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế (“HĐMBHHQT”). Do đó,
việc xác định khái niệm chính xác của HĐMBHHQT có tầm quan trọng lớn trong lý
luận và thực tiễn áp dụng bởi nó gắn liền với việc xác định luật nào được áp dụng
để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua
bán hàng hóa thơng thường (hợp đồng nội địa) thì sẽ được pháp luật trong nước
điều chỉnh. Nếu là HĐMBHHQT thì nó sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật thương
mại quốc tế: có thể là pháp luật của các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế
liên quan và trong nhiều trường hợp liên quan đến cả tập quán thương mại quốc tế,
nên cần thiết phải lựa chọn luật nào trong số đó để áp dụng cho hợp đồng. Khơng
những thế mà trong một số trường hợp còn cho phép xác định được pháp luật của
quốc gia nào được sử dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng. Vì vậy hết sức cần thiết phải có một khái niệm chung, rõ ràng về hợp đồng
mua bán hàng quốc tế, hay nói cách khác là phải có cách xác định tương đối thống
nhất tính quốc tế của HĐMBHHQT.”1
Trước đây, theo quy định của LTM Việt Nam 1997, tính quốc tế của
HĐMBHHQT được xác định dựa trên dấu hiệu quốc tịch của thương nhân. Cụ thể,
LTM 1997 quy định rằng: Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước

Đại học Quốc gia TP. HCM, Trường Đại học Kinh tế - Luật, PGS. TS. Dương Anh Sơn, Luật hợp
đồng thương mại quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM, 2016, tr. 4.
1



7

ngồi là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt
Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Chủ thể bên nước ngoài là thương
nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà
thương nhân đó mang quốc tịch.2 LTM 2005 khác với LTM 1997, không đưa ra
khái niệm hay định nghĩa theo hướng khái quát đặc điểm của HĐMBHHQT mà chỉ
quy định các hình thức trong mua bán hàng hóa quốc tế, từ đó xác định mua bán
hàng quốc tế được thực hiện bằng các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập,
tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.3 Như vậy có thể nói rằng hiện nay trong
hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một khái niệm hay một định nghĩa mang tính
khái qt về mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong khi đó, pháp luật của một số nước cũng như một số văn bản pháp lý
quốc tế điều chỉnh các loại hợp đồng thương mại quốc tế (trong đó có
HĐMBHHQT) xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế dựa trên cơ
sở dấu hiệu lãnh thổ hay nói cách đơn giản hơn là địa điểm hoạt động thương mại
của thương nhân. Như Công ước New York 1974 về Thời hiệu tố tụng trong hợp
đồng mua bán hàng hố quốc tế, Cơng ước Viên 1980 về HĐMBHHQT, Công ước
La Haye 1986 về Luật áp dụng cho mua bán hàng hố quốc tế, Cơng ước Geneva
1983 về Đại lý trong mua bán hàng hố quốc tế, Cơng ước Ottawa năm 1988 về
Cho thuê tài chính quốc tế. Tất cả các cơng ước nói trên, quy định rằng hợp đồng
thương mại quốc tế là hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm
trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
Rõ ràng, việc xây dựng khái niệm HĐMBHHQT dựa trên yếu tố lãnh thổ
cho phép xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng trở nên đơn giản hơn và thiết thực
hơn. Vì vậy, HĐMBHHQT có thể được hiểu với khái niệm chung là: “hợp đồng

2


Luật Thương mại Việt Nam 1997, Điều 80, 81.

3

Luật Thương mại Việt Nam 2005, Điều 27.


8

được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia
khác nhau.”4
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là việc xác định tính quốc tế của
HĐMBHHQT dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn đối với khả năng khi
nhiều bên trong hợp đồng có nhiều trụ sở thương mại đặt tại các nơi khác nhau.
Trong trường hợp này này, giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là hồn tồn
có khả năng thực thi. Điều 10 của Cơng ước quy định rằng một bên có nhiều hơn
một địa điểm thương mại (kinh doanh) thì sẽ chọn điểm kinh doanh có liên hệ gần
nhất với hợp đồng đã ký kết và gần nhất với hoạt động thực hiện hợp đồng, có đề
cập đến các tình huống mà hai bên biết hoặc tiên lượng đến tại thời điểm trước giao
kết hoặc ngay khi giao kết hợp đồng. Nếu một đương sự khơng có địa điểm kinh
doanh thì chọn nơi thường trú của người này làm chuẩn.
Hiện nay, nhiều nước đã tham gia vào Công ước Viên 1980 về mua bán hàng
hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới
xác định tính quốc tế của HĐMBHHQT dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên ký
kết hợp đồng. Việt Nam chúng ta đã là thành viên của Công ước Viên 1980 nên
việc tiếp thu quan điểm này là một điều cần thiết vì khơng những phù hợp với thơng
lệ quốc tế mà còn tạo điều kiện dễ dàng trong việc xác định và áp dụng trong thực
tiễn.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
HĐMBHHQT trước hết là một hợp đồng, vì vậy mang đầy đủ bản chất và

đặc trưng của các hợp đồng nói chung. Ngồi ra, do HĐMBHHQT là hợp đồng
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, nghĩa là
có yếu tố nước ngồi, vì vậy sẽ có những điểm khác biệt nhất định so với hợp đồng
mua bán hàng hóa thơng thường theo Bộ luật dân sự (“BLDS”) và LTM Việt Nam.

4

Đại học quốc gia TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 12.


9

Bắt nguồn từ các đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng mua bán hàng hóa
thơng thường, thêm vào đó là yếu tố nước ngồi có trong HĐMBHHQT.
HĐMBHHQT sẽ có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về phương diện chủ thể.
Các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, kể cả các đạo luật gốc (đạo luật mẫu)
để điều chỉnh về HĐMBHHQT ít khi phân tích đến vấn đề về mặt chủ thể của
HĐMBHHQT. Điều này được phân tích bằng thẩm quyền khi ký kết HĐMBHHQT
sẽ do pháp luật của nước được áp dụng đối với bên ký kết quy định. Từ đó, kết quả
là các quy định về mặt pháp lý của các quốc gia khác nhau sẽ có những quy định
khác nhau về thẩm quyền được ký kết HĐMBHHQT.
Chủ thể của HĐMBHHQT được xác định đa số là các thương nhân. Thương
nhân hiểu theo nghĩa thông thường (dịch nghĩa) là những người trực tiếp thực hiện
hoặc tham gia vào hoạt động kinh doanh có tính chất thương mại. Trong Luật
thương mại Việt Nam 2005, thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ
các điều kiện do pháp luật quốc gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương
mại và trong một số trường hợp kể cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc
gia). Các quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về các yêu cầu, tiêu chí,
điều kiện trở thành thương nhân cho từng nhóm, từng đối tượng cụ thể trong các

trường hợp cụ thể. Như trường hợp thương nhân là cá nhân, các điều kiện, tiêu chí,
yêu cầu được xem để xác định là có tư cách thương nhân trong LTM thường bao
gồm các điều kiện, yêu cầu về mặt nhân thân ví dụ như về độ tuổi, năng lực hành vi,
điều kiện về mặt tư pháp và mặt nghề nghiệp.5
Thứ hai, về đối tượng của HĐMBHHQT.
Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHHQT phải đáp ứng đủ các yêu cầu về
đặc điểm hàng hóa được phép giao dịch theo pháp luật của quốc gia bên mua và bên
bán. Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định khác biệt về hàng hóa
PGS.TS Mai Hồng Quỳ - ThS. Trần Việt Dũng, LTM Quốc Tế, NXB Đại học quốc gia TP.HCM,
2005, tr. 19.
5


10

được phép trao đổi mua bán, từ đó sẽ dẫn đến việc có những hàng hóa theo quy định
của nước này thì được phép trao đổi mua bán nhưng theo quy định của pháp luật
nước khác thì lại cấm. Như vậy chỉ những hàng hóa nào đều được luật pháp của các
bên ký kết hợp đồng quy định cho phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành
đối tượng của HĐMBHHQT. Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong pháp luật
các quốc gia trên thế giới hiện nay, mặc dù có những khác biệt nhất định song đều
có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông thương mại.
Theo pháp luật của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế chẳng hạn như
Cơng ước Viên 1980 về HĐMBHHQT, hàng hóa là đối tượng của mua bán thương
mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản, một là có thể
đưa vào lưu thơng hàng hóa và hai là có tính chất thương mại. Cơng ước Viên 1980
về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại Điều 2) chỉ ngoại trừ (không áp dụng) một số
trường hợp hàng hóa như chứng khốn, giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông,
điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường khơng, phương tiện vận tải bằng
khinh khí cầu…

Thứ ba, về hình thức của HĐMBHHQT.
Bắt nguồn từ nguyên tắc tự do xác lập ý chí, các bên trong giao kết hợp đồng
có quyền lựa chọn cách để thể hiện ý chí một cách phù hợp. Từ đây dẫn đến hệ quả
là trong việc giao kết, ý chí các bên khơng bắt buộc phải được thể hiện bằng một
hình thức nhất định, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi,
cử chỉ cụ thể hoặc là sự im lặng. Tuy vậy, vì sự an tồn trong vấn đề pháp lý của
hợp đồng cũng như để có các chứng cứ pháp lý và trật tự pháp luật, lợi ích xã hội
các bên, có các hợp đồng khi giao kết phải tuân thủ những hình thức quy định, nếu
khơng các bên tham gia giao kết có khả năng phải gánh chịu những hậu quả bất lợi.
Vậy hình thức hợp đồng như đã trình bày khơng chỉ là phương tiện ghi nhận sự thể
hiện ý chí dưới dạng lời nói, văn bản, hành vi, cử chỉ cụ thể mà còn là những thủ tục


11

mà pháp luật quy định bắt buộc khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng phải tuân
theo trong một số trường hợp nhất định.6
Hình thức của HĐMBHHQT cũng được quy định khác biệt trong pháp luật
của các nước khác nhau và trong pháp luật quốc tế. Pháp luật của một số quốc gia
quy định rõ yếu tố hình thức của HĐMBHHQT phải được lập thành văn bản, nhưng
pháp luật của một số quốc gia khác lại khơng có bất kỳ một quy định nào về hình
thức hợp đồng. Trong một số trường hợp, việc xác định yếu tố “văn bản” giữa các
nước cũng hình thành các định nghĩa khác nhau về những thành tố cấu thành chứa
thông tin nào để được coi là văn bản.
Ở mặt khác quy định về pháp luật quốc tế, có rất ít quy định về điều kiện
hình thức của hợp đồng. Dẫn chứng như theo quy định của Cơng ước Viên 1980 thì
HĐMBHHQT được thể hiện dưới hình thức nào cũng được cơng nhận là hợp pháp.
Điều 11 Công ước quy định: “hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc
xác lập bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức hợp
đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của

nhân chứng.” Tương tự chúng ta có thể nhận thấy trong Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT 2004 về Hợp đồng thương mại quốc tế. Điều 1.2 của Bộ nguyên tắc có
ghi nhận rõ: “khơng một chi tiết nào của Bộ nguyên tắc yêu cầu một hợp đồng phải
được ký kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự thỏa thuận bằng văn
bản. Sự tồn tại của một hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ hình thức
nào kể cả bằng nhân chứng.” Lưu ý là để điều chỉnh sự áp dụng một cách tùy tiện
Điều 11 Công ước Viên 1980 và để phù hợp với pháp luật các nước thành viên có
quy định đối với hình thức của hợp đồng phải là văn bản, tại Điều 12 Công ước quy
định: “nước thành viên của công ước có pháp luật quốc gia yêu cầu hợp đồng phải
có hình thức bằng văn bản có thể tun bố bảo lưu vấn đề này bất cứ lúc nào.”
Thêm vào đó tại Điều 96 của Công ước cũng ghi nhận rõ là trong trường hợp pháp

TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong BLDS Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội,
2007, tr. 174-176.
6


12

luật của một nước thành viên quy định hợp đồng phải được xác lập dưới dạng hình
thức bằng văn bản thì quy định này phải được ưu tiên, kể cả trong trường hợp chỉ
cần một trong các bên có trụ sở thương mại đặt tại nước có quy định hợp đồng phải
được thể hiện dưới dạng văn bản. Theo quy định tại Điều 27 LTM Việt Nam 2005
thì: “mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
Như vậy, dù cho trong các văn bản mang tính pháp lý quốc tế cũng như các
quy định của pháp luật tại các nước có thể khơng quy định hình thức bắt buộc của
HĐMBHHQT phải lập văn bản, tuy vậy, vì có sự tham gia của yếu tố nước ngồi
trong các HĐMBHHQT, có các quy định hoàn toàn khác nhau trong các hệ thống
pháp luật khác nhau của các nước; đồng thời, do sự khác biệt ngôn ngữ các bên

tham gia ký kết hợp đồng và các vấn đề khác, nên tốt hơn cả là các bên khi tham gia
ký kết HĐMBHHQT thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương. Tất cả điều trên sẽ tránh được các hậu quả pháp lý bất
lợi, rủi ro và tranh chấp khơng đáng có cũng như các thiệt hại có thể xảy ra.
Thứ tư, luật điều chỉnh HĐMBHHQT.
Như đã trình bày ở trên, trụ sở thương mại của các bên trong hợp đồng
thương mại quốc tế nằm trên lãnh thổ của các nước khác nhau điều này dẫn đến
không chỉ liên quan đến vấn đề lãnh thổ đặt trụ sở thương mại mà còn dẫn đến là
các bên sẽ có liên quan đến các hệ thống pháp luật khác nhau.7 Từ yếu tố chủ quyền
quốc gia theo quy định của công pháp quốc tế, một quan hệ được hình thành (xác
định là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài), các quan hệ này liên quan đến bao
nhiêu quốc gia thì sẽ có bấy nhiêu hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để điều
chỉnh quan hệ đó. Nhưng có lưu ý là mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống
pháp luật riêng và các hệ thống pháp luật đó hồn tồn khác biệt nhau, thậm chí là
có thể có các quy định trái ngược nhau. Từ đó dẫn đến hiện tượng xung đột pháp
luật. Xung đột pháp luật xác định là khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời
7

Đại học quốc gia TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 20.


13

đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật. Như vậy, HĐMBHHQT có
thể được điều chỉnh bởi pháp luật của các quốc gia khác nhau. Ngoài ra
HĐMBHHQT có thể được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế, tập quán thương
mại quốc tế và có thể bằng các đạo luật mẫu về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy
vậy cần phải hiểu rõ bản chất là mỗi một quan hệ xác lập thì chỉ có thể áp dụng một
hệ thống pháp luật để điều chỉnh. Thế nên điều quan tâm là việc chọn lựa một trong
các hệ thống pháp luật để áp dụng điều chỉnh mối quan hệ xác lập đó.

Về vấn đề tự do ý chí trong xác lập quan hệ hợp đồng, các bên tham gia
trong HĐMBHHQT có thể lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh hợp đồng của
mình. Việc lựa chọn này phải đáp ứng các điều kiện và trong một số trường hợp
quyền chọn luật sẽ bị hạn chế bởi quy định của pháp luật quốc gia khi nó có đề cập,
liên quan các yếu tố như bảo lưu trật tự công cộng… Nếu các bên trong hợp đồng
không chọn luật để áp dụng cho hợp đồng mình tham gia ký kết thì quy định pháp
luật quốc tế sẽ được áp dụng để chọn pháp luật điều chỉnh hợp đồng này.
1.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Nội dung của HĐMBHHQT là sự thể hiện cho sự thỏa thuận các bên, thể
hiện sự tự nguyện trong biểu đạt ý chí của các chủ thể, nhằm xác định các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của các bên đối với nhau được ghi nhận tại các điều khoản trong
hợp đồng. Tuy vậy, không phải cứ nội dung nào các bên thỏa thuận có đưa vào hợp
đồng cũng được coi là điều khoản hợp pháp. HĐMBHHQT hợp pháp về nội dung
khi thể hiện những những điều khoản phù hợp với quy định của pháp luật.

1.3.1. Một số điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế
Khi các bên ký kết HĐMBHHQT thỏa thuận trong hợp đồng về các điều
khoản được ghi nhận sẽ xác định được rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với
bên cịn lại. Nhưng qua nghiên cứu thì theo quy định pháp luật các quốc gia, kể cả
Việt Nam khơng có xuất hiện quy định thể hiện sự bắt buộc, yêu cầu đối với các
điều khoản tối thiểu phải có trong hợp đồng. Lật lại vấn đề, tại Việt Nam thì ghi


14

nhận quy định LTM năm 1997 tại Điều 50 và Điều 81 thì HĐMBHHQT tối thiểu
phải đáp ứng có yếu tố về: tên hàng hóa, số lượng hàng hóa, quy cách chất lượng
hàng hóa, giá cả hàng hóa, phương thức thanh tốn, và địa điểm, thời hạn giao nhận
hàng hóa. Tuy nhiên đến quy định của LTM 2005 thì khơng có điều khoản ràng

buộc tối thiểu phải có trong HĐMBHHQT. Các quy định liên quan pháp luật quốc
tế ghi nhận cũng tương tự, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế năm 2004 và Công ước Viên 1980 về HĐMBHHQT khơng có quy định về
các điều khoản tối thiểu bắt buộc phải có của hợp đồng. Dù quy định tại Điều 14
của Công ước Viên 1980 quy định về điều khoản chào hàng ta vẫn nhận thấy các
yếu tố được liệt kê như: tên hàng hóa, số lượng hàng hóa và giá cả hàng hóa thanh
tốn.
Dù khơng có quy định cụ thể về những điều khoản tối thiểu, nhưng thực tế
trong việc ký kết và thực hiện các HĐMBHHQT để hạn chế thấp nhất việc xảy ra
tranh chấp, các bên tham gia trong HĐMBHHQT cần thiết phải thỏa thuận rõ ràng
và ghi nhận các điều khoản thiết yếu, quan trọng, căn bản nhất trong hợp đồng, vì
đó chính là cơ sở pháp lý cao nhất để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên. Các
điều khoản tối thiểu theo quan điểm người nghiên cứu đề xuất như sau:
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của HĐMBHHQT xác định là
hàng hóa. Hàng hóa bắt buộc phải ghi nhận cụ thể, rõ ràng, chính xác tên hàng hóa,
ngồi tên thơng thường để cụ thể hơn nếu có thể chúng ta ghi nhận thêm tên thương
mại và tên khoa học hàng hóa này. Lưu ý ghi nhận rõ về nguồn gốc xuất xứ hàng
hóa. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay, chúng ta biết rằng cùng
một loại hàng hóa nhưng khi xuất xứ từ những nơi khác dẫn đến phẩm chất của
hàng hóa sẽ hoàn toàn khác nhau.
Thứ hai, số lượng hay trong các trường hợp cần ghi nhận cả khối lượng của
hàng hóa. Đây là điều khoản căn bản, sẽ liên quan đến vấn đề giao dư/thừa hoặc
thiếu hàng hóa. Các bên trong giao kết hợp đồng phải ghi nhận rõ số lượng hàng
hóa được giao dịch, lưu ý để thuận tiện hơn và trong thực tế có độ dung sai các bên


15

không nên ghi bằng một con số cụ thể mà nên thỏa thuận cách có giảm (-) hoặc tăng
(+) theo một tỉ lệ phần trăm (%) nhất định.

Thứ ba, phẩm chất hàng hóa. Phẩm chất khi xác định phải thơng qua việc mơ
tả hình dạng, màu sắc, kých thước tiêu chuẩn của hàng hóa hoặc xác định rõ đặc
tính về mặt lý hóa của hàng hóa, trong trường hợp phức tạp hơn cần xác định theo
một tiêu chuẩn chung hay theo một mẫu thử đạt tiêu chuẩn của hàng hóa. Chúng ta
có thể hình dung là cùng một loại hàng hóa nhưng nếu xác định theo tiêu chuẩn ở
khu vực này thì đáp ứng yêu cầu nhưng áp vào các tiêu chuẩn ở khu vực khác thì lại
khơng đáp ứng. Đó là lý do các bên cần phải ghi nhận rõ ràng trong thỏa thuận, hợp
đồng là chất lượng, phẩm chất của hàng hóa sẽ được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn
nào, tại khu vực nào, nhằm tránh những nhầm lẫn. Lấy ví dụ một vụ án điển hình,8
theo đó nguyên đơn trong vụ án là bên bán tại Thụy Sĩ và bị đơn trong vụ án là bên
mua tại Hà Lan đã cùng nhau tiến hành việc ký hợp đồng mua bán cùng loại hàng
hóa, lưu ý là yếu tố chất lượng đã được quy định chi tiết. Hàng được gửi đi từ một
công ty Canada theo điều kiện CIF cảng Rotterdam. Cả ba hợp đồng đều được lập
bằng tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt nhau trừ điều khoản về số lượng.
Nhưng trong trường hợp này chỉ có hai hợp đồng đầu tiên được ký và thực hiện,
hợp đồng thứ ba vẫn chưa được ký kết. Sau đó, phía bị đơn đã hủy hợp đồng với lí
do hàng được giao theo hai hợp đồng đầu không đúng quy định phẩm chất, chất
lượng được ghi nhận trong hợp đồng đã ký. Nhà máy sản xuất ở Canada (nơi gửi đi)
đã cho kĩ sư sang Hà Lan để kiểm tra mẫu hàng. Kết quả kiểm tra cho thấy khi tiến
hành phân tích áp dụng phương pháp của các quốc gia vùng Bắc Mỹ thì mẫu hàng
hóa hồn tồn đáp ứng được các yêu cầu chất lượng ghi nhận trong hợp đồng,
nhưng khi tiến hành phân tích áp dụng theo quy chuẩn của các nước khu vực Châu
Âu thì lại khơng đạt u cầu. Theo trình bày của phía Hà Lan thì hàng hóa bên họ
nhận được khơng phải là hàng hóa mà họ nghĩ rằng mình đã mua (tiêu chuẩn các
nước ở Châu Âu). Nguyên nhân được chỉ ra là bên bán ở Thụy Sĩ khi ký kết hợp
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC): “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, Hà Nội.
2002, tr. 30.
8



16

đồng đã khơng có điều khoản quy định phẩm chất, chất lượng sản phẩm được áp
dụng theo quy tắc ở quốc gia nào, khu vực nào, còn bên mua ở Hà Lan lại cứ chủ
quan nghĩ một cách mặc định là hàng hóa khi được một cơng ty Châu Âu chào bán
mặc định áp dụng quy chuẩn phân tích của Châu Âu. Từ đây có thể dễ dàng nhận
thấy việc xem xét chất lượng, phẩm chất của hàng hóa phù hợp với hợp đồng sẽ
phát sinh rất nhiều vấn đề khi các bên không thỏa thuận cụ thể về phương pháp, quy
chuẩn để đánh giá chất lượng của hàng hóa. Sự chủ quan, mặc định suy nghĩ của
các bên, hay là việc chúng ta được cung cấp thông tin hay phải tự hỏi thơng tin
chính là mấu chốt trong ví dụ vừa nêu.
Thứ tư, điều khoản về giá hàng hóa. Giá hàng hóa thuộc vào nhóm các điều
khoản cơ bản trong HĐMBHHQT nên các bên tham gia ký kết phải thỏa thuận ý
chí và ghi nhận một cách cụ thể. Trường hợp mà hợp đồng được thực hiện trong
một thời gian tương đối lâu, các bên lưu ý thêm điều khoản về sự biến động giá cả
trong thời gian thực hiện hợp đồng, căn cứ vào điều khoản này thì các bên trong
giao kết có thể tiến hành đàm phán lại vấn đề giá hàng hóa nếu có sự biến động.
Mục đích cao nhất của quy định này khi đưa vào thành điều khoản trong hợp đồng
là nhằm hạn chế tối đa những tổn thất, những vấn đề có thể gây thiệt hai cho một
trong hai bên khi xảy ra sự biến động về giá cả hàng hóa trên thị trường.
Thứ năm, thời hạn, thời gian giao hang. Nhằm để đảm bảo quyền lợi của bên
giao và nhận hàng hóa cũng như việc thuận tiện trong công tác giao dịch hàng hóa
với nhau, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải thỏa thuận ý chí, ghi nhận cụ thể
về thời gian giao hàng hóa vào trong hợp đồng. Thời gian giao hàng được các bên
thỏa thuận xác lập hay ấn định vào một thời điểm cụ thể hoặc vào một khoảng thời
gian cụ thể. Nếu trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa có giao nhận hàng hóa
nhiều lần thì lưu ý phải thỏa thuận cụ thể về từng lần giao hàng, điều này nhằm
tránh rủi ro và giảm thiểu sự vi phạm hợp đồng mà thiếu cơ sở pháp lý để ràng buộc
nghĩa vụ bên phía giao hàng hóa. Ví dụ điển hình như trong hợp đồng mua bán mỡ
bôi trơn được ký kết giữa một bên là bên mua Việt Nam và bên bán Singapore,

trong hợp đồng có thỏa thuận, ghi nhận về điều khoản liên quan đến việc giao hàng


17

là: nghĩa vụ giao hàng của bên bán sẽ chia làm nhiều lần và sẽ được hai bên đồng ý
sau.9 Qua nghiên cứu thì điều khoản quy định như vậy khơng hề có lợi cho bên mua
vì khơng đề cập đến thời điểm giao hàng và thời hạn giao hàng. Có điều khoản như
vậy sẽ tạo kẽ hở về mặt pháp lý cho bên bán lợi dụng trốn tránh, vi phạm nghĩa vụ
giao hàng hóa. Cụ thể, sẽ rất rui ro nếu các bên khơng có thỏa thuận việc giao hàng
được chia thành mấy lần, mỗi lần cách nhau bao nhiêu lâu và tổng thời gian cần
thiết (thời hạn giao hàng) để hoàn tất việc giao hàng. Trong hợp đồng được nêu trên
đây các bên khơng có các điều khoản về thời điểm giao hàng và thời hạn giao hàng,
do đó khơng có cơ chế ràng buộc rõ ràng đối với bên bán (bên giao hàng), bên mua
không thể buộc bên bán giao hàng cho mình vì thiếu các căn cứ, điều khoản cơ bản
trong hợp đồng để giải quyết vấn đề này.
Thứ sáu, phương thức giao hàng hóa. Được xem như một trong những điều
khoản quan trọng nhất trong hợp đồng mua bán hàng hóa vì liên hệ trực tiếp đến rất
nhiều vấn đề bản chất của hợp đồng như: việc thuê/mướn các phương tiện vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm đối với hàng hóa khi vận chuyển, quan trọng nhất là
phương thức thanh toán liên quan mật thiết đến việc xác định thời điểm chuyển dịch
quyền sở hữu đối với hàng hóa và chuyển dịch phần trách nhiệm (rủi ro) đối với
hàng hóa từ bên bán sang bên mua. Thực tế trong việc mua bán hàng hóa quốc tế
khi bên mua và bên bán tiến hành thương thảo về phương thức giao hàng để ghi
nhận định trong tập quán thương mại trong hợp đồng thì hay sử dụng các điều kiện
giao hàng được quy INCOTERMS. “Thông thường, điều kiện giao hàng phụ thuộc
phần lớn vào khả năng của người bán. Đối với những người có khả năng tài chính
dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trên thương trường thì giao hàng với điều kiện CIF
và mua hàng với điều kiện FOB, với thương nhân Việt Nam và ngược lại, mua CIF,
bán FOB.”10 Khi bên mua và bên bán tiến hành bàn bạc, thương thảo về phương


9

TS. Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng kinh doanh quốc tế, NXB Trẻ TP.HCM, Hà Nội, 2004, tr 44.

10

Đại học quốc gia thành phố TP. HCM, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, tr. 248.


18

thức giao hàng thì các bên khi đó phải đi đến thống nhất sẽ áp dụng phương thức
nào và nó được ghi nhận ở đâu.
Thứ bảy, thanh toán. Thanh toán được xác định là nghĩa vụ cơ bản và quan
trọng nhất của bên mua hàng hóa. Thêm vào đó, thì đây được xác định là quyền lợi
quan trọng nhất của bên bán hàng hóa. Các vấn đề cơ bản có sự liên quan đến điều
khoản về thanh tốn có thể được liệt kê như sau: phương thức thanh toán, thời hạn
thanh toán và địa điểm thanh toán cần được các bên trong hợp đồng thỏa thuận cụ
thể.
Thứ tám, xác định trách nhiệm trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện
HĐMBHHQT các bên có thể vi phạm nghĩa vụ của mình do không phải lúc nào các
bên cũng thực hiện và thực hiện một cách đầy đủ nghĩa vụ của mình. Vì lý do đó
việc quy định xác định trách nhiệm của các bên mua bán khi vi phạm hợp đồng có
tác dụng bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên kia và cịn
có tác dụng răn đe các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong hợp đồng.
Nhưng xét một cách cơng bằng, trong q trình thực hiện hợp đồng có những
trường hợp khơng thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng ký kết là do những sự
kiện khách quan không nằm trong ý muốn chủ quan của các bên, trong những
trường hợp này nếu buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm là chưa thực sự hợp lý.

Vì thế quy định những trường hợp được loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm là cần
thiết. Do đó, các bên khi ký kết HĐMBHHQT cần thiết phải ghi nhận thỏa thuận
quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng như các trường hợp loại trừ
trách nhiệm đối với các bên.
Thứ chín, luật áp dụng cho hợp đồng. HĐMBHHQT có thể được điều chỉnh
bởi các nguồn luật như các điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế
và các đạo luật mẫu. Về mặt nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận chọn luật áp
dụng cho hợp đồng mà mình ký ký kết. Trong trường hợp các bên tham gia ký kết
hợp đồng không thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng thì các quy tắc của tư pháp quốc
tế được áp dụng để chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng.


19

Việc lựa chọn luật áp dụng sẽ dẫn tới hệ quả một trong các bên hoặc các bên chưa
biết hoặc chưa nắm kỷ luật áp dụng trong trường hợp lựa chọn, như vậy nếu xảy ra
tranh chấp thì bên nào chưa nắm kỷ luật áp dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để giải
quyết. Thêm vào đó nếu cùng một nội dung được ghi nhận trong hợp đồng nhưng
nếu áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau để điều chỉnh thì sẽ cho ra những hệ
quả khác nhau. Từ tất cả những nguyên nhân đã nêu, thực sự cần thiết là các bên khi
ký kết HĐMBHHQT cần phải thỏa thuận chọn hệ thống pháp luật mà mình đã biết
rõ về nó để tránh những tranh chấp khơng đáng có có thể xảy ra.
Thứ mười, giải quyết tranh chấp xảy ra. Do nhiều nguyên nhân khác nhau ví
dụ như sự khác nhau về pháp luật các quốc gia, ngôn ngữ, tập quán và hơn hết là sự
thay đổi về điều kiện trong quá trình thực hiện hợp đồng nên các tranh chấp sẽ phát
sinh giữa các bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi gặp phải các tranh chấp
phát sinh từ các hợp đồng thương mại quốc tế, các bên luôn mong muốn giải quyết
các tranh chấp một cách thuận tiện, đạt được hiệu quả cao mà vẫn giữ được uy tín
và bí mật kinh doanh11. Để được như vậy đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng phải
nghiên cứu kỹ và thỏa thuận trước với nhau về cơ chế giải quyết tranh chấp chẳng

hạn như thủ tục, phương pháp và cơ quan giải quyết tranh chấp. Thực tế cho thấy
thì các bên thơng thường sẽ thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và thủ
tục tố tụng trọng tài.
Thực tế trong lĩnh vực giao dịch thương mại, không phải lúc nào cũng thực
hiện được việc gặp gỡ trực tiếp của các bên để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng.
Trường hợp ký kết các hợp đồng thương mại, các bên hầu như sẽ có sự trao đổi
thơng tin rất nhanh, vắn tắt dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng,
hợp đồng, tài liệu kĩ thuật…) qua các phương tiện có tốc độ truyền tải nhanh như
Telex, Fax, thư tín, hoặc đơi khi có trường hợp vì một số lý do khơng có văn bản
đầy đủ chính thức. Trong trường hợp nếu giao dịch diễn ra một cách bình thường,
các bên đều thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của mình thì đương nhiên

11

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình LTM quốc tế, tr. 381.


×