Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 207 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----000-----

NGUYỄN QUẾ DIỆU

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----000----NGUYỄN QUẾ DIỆU

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. HỒ ANH DŨNG
2. TS. THÂN NGỌC ANH
Cán bộ phản biện độc lập:
1. PGS, TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
2. PGS, TS. NGUYỄN NGỌC KHÁ


Cán bộ phản biện:
1. PGS, TS. LƯƠNG MINH CỪ
2. PGS, TS. NGUYỄN THANH
3. PGS, TS. VŨ ĐỨC KHIỂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận án này, tơi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ hết sức
quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hồ Anh Dũng và
TS. Thân Ngọc Anh đã tận tâm hướng dẫn khoa học trong quá trình học tập,
nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể quý thầy cơ trong Khoa Triết học,
Phịng Sau Đại học thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng như Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Trường Đại học Trần Đại Nghĩa, Ban Chủ nhiệm Khoa KHXH&NV Trường Đại học Trần Đại Nghĩa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Tơi xin được biết ơn đến tồn thể những người thân trong gia đình, anh
chị, em, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn là điểm tựa vững chắc để tôi hồn thành
cơng trình này.
TP.HCM, ngày

tháng 06 năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NGUYỄN QUẾ DIỆU



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng và TS. Thân Ngọc Anh. Kết quả nghiên
cứu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố. Các tài liệu sử dụng
trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN QUẾ DIỆU


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... ... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VÀ NHỮNG
ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CA DAO,
TỤC NGỮ VIỆT NAM ................................................................................ 18
1.1. KHÁI LƯỢC VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM ......................... 18
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của ca dao, tục ngữ Việt Nam .............. 18
1.1.2. Các nội dung cơ bản được phản ánh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam . 28
1.2. KHÁI LƯỢC VỀ ĐẠO ĐỨC ................................................................ 35
1.2.1. Khái niệm và bản chất của đạo đức ................................................... 35
1.2.2. Cấu trúc và chức năng của đạo đức .................................................... 41
1.3. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CA
DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM ...................................................................... 47
1.3.1. Điều kiện tự nhiên với việc hình thành tư tưởng đạo đức trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam .......................................................................................... 48
1.3.2. Điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội với việc hình thành tư tưởng đạo đức

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam .................................................................... 52
1.3.3. Điều kiện văn hóa, tư tưởng và truyền thống với việc hình thành tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam ............................................ 58
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 65


Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM .............................................................. 68
2.1. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT
NAM ............................................................................................................ 69
2.1.1. Quan niệm về yêu nước trong đạo đức truyền thống Việt Nam ......... 69
2.1.2. Biểu hiện của tư tưởng yêu nước trong ca dao, tục ngữ Việt Nam .... 73
2.2. TƯ TƯỞNG NHÂN, NGHĨA TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT
NAM.............................................................................................................. 95
2.2.1. Quan niệm về nhân, nghĩa trong đạo đức truyền thống Việt Nam ..... 95
2.2.2. Biểu hiện của tư tưởng nhân, nghĩa trong ca dao, tục ngữ Việt Nam 99
2.3. TINH THẦN ĐỒN KẾT VÀ ĐỨC TÍNH TRUNG THỰC, CẦN CÙ,
TIẾT KIỆM CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG CA DAO, TỤC
NGỮ ……. .............................................................................................. 112
2.3.1. Quan niệm về tinh thần đồn kết và các đức tính trung thực, cần cù, tiết
kiệm trong đạo đức truyền thống Việt Nam ................................................. 112
2.3.2. Biểu hiện của tinh thần đoàn kết và các đức tính trung thực, cần cù, tiết
kiệm của người Việt trong ca dao, tục ngữ Việt Nam ................................ 117
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 125
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY ............................................................................................................ 128
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CA DAO, TỤC
NGỮ VIỆT NAM ....................................................................................... 129



3.1.1. Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vừa mang tính
khái quát, vừa mang tính cụ thể ....................................................... 130
3.1.2. Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam mang tính giản dị
nhưng rất sâu sắc ........................................................................................ 140
3.1.3. Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam mang tính đại
chúng ............................................................................................... 144
3.1.4. Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam mang tính nhân
văn ................................................................................................... 147
3.2. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CA DAO,
TỤC NGỮ VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ................................ 149
3.2.1. Giá trị của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.......... 150
3.2.2. Hạn chế của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam ....... 163
3.2.3. Ý nghĩa của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đối với
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay .................................... 172
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 182
KẾT LUẬN ................................................................................................. 185
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 188
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................. 200


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một dân tộc có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, có một
nền văn hóa phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau.

Trong suốt quá trình phát triển của mình, các thế hệ con Lạc cháu Hồng đã
trải qua những giai đoạn đấu tranh dựng nước và giữ nước hết sức hào hùng,
tạo nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Với truyền thống tương thân, tương ái,
đoàn kết trong đấu tranh chống chọi với thiên tai cũng như với các thế lực
ngoại xâm, các thế hệ người Việt đã sáng tạo ra nhiều giá trị vật chất, tinh
thần phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của tồn xã hội, trong đó có văn học
dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng.
Ca dao, tục ngữ của người Việt Nam là một bộ phận của văn học dân
gian, do đông đảo quần chúng nhân dân sáng tác và được lưu truyền trong dân
gian chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Ca dao, tục ngữ có những đóng
góp hết sức to lớn đối với đời sống tinh thần của nhân dân trong suốt chiều
dài phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, là những “hịn ngọc q” (Hồ Chí
Minh, 2011k, tr. 559) bởi nó ra đời và phát triển cũng khơng nằm ngồi mục
đích nâng cao đời sống tinh thần, đồng thời cũng thơng qua đó nhằm giáo dục
con người hướng đến những giá trị sống tốt đẹp, góp phần giúp cho các cá
nhân trong xã hội định hình khn mẫu, lối sống, nhân cách của con người
Việt Nam từ trước tới nay.
Như trên đã đề cập, ca dao, tục ngữ Việt Nam là những sáng tác mang
tính tập thể của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trong xã hội truyền
thống, có sức sống lâu bền, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và được phổ
biến, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dù mang những sắc thái khác
nhau, nhưng ca dao, tục ngữ đều ra đời và phát triển trong quá trình quan hệ


2

với tự nhiên, trong quá trình tổ chức lao động, sản xuất và trong cuộc sống,
sinh hoạt cộng đồng. Mục tiêu được truyền đạt trong nội dung của ca dao, tục
ngữ chính là ở chỗ: thơng qua nó, nhằm hướng con người đến cái chân, thiện,
mĩ, sống với nhau có nghĩa, có tình hơn.

Ngồi việc biểu hiện đời sống tình cảm, ca dao, tục ngữ còn bao hàm cả
quan điểm, năng lực nhận thức, thái độ hành vi, cách thức điều chỉnh hành vi
của con người nói chung cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội.... của đông
đảo quần chúng nhân dân. Thơng qua đó, con người nhận thức được cái gì
mình nên làm, nên tránh, góp phần cùng với các thiết chế xã hội khác trong
việc quản lý, duy trì xã hội, nhờ đó mà trật tự xã hội ổn định, tốt đẹp hơn.
Ca dao, tục ngữ đã đồng hành cùng quá trình phát triển của đất nước ta
từ trước đến nay và ẩn chứa bên trong nội dung của nó là các quan điểm, tư
tưởng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong đó, tư tưởng
đạo đức trong ca dao, tục ngữ đã góp phần to lớn trong việc tạo dựng các
khn mẫu, chuẩn mực, giá trị nhằm nâng cao nhận thức, giáo dục, điều chỉnh
hành vi của con người, nhất là ứng xử giữa con người với con người, giúp cho
con người sống với nhau hịa thuận, duy trì trật tự và quản lý xã hội một cách
tốt hơn.
Trải qua quá trình hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong đó, đời
sống nhân dân ngày càng được nâng lên, bộ mặt đất nước có nhiều thay đổi
theo hướng tiến bộ...., được các nước trên thế giới đánh giá cao. Trên lĩnh vực
văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng, Nghị quyết Trung ương
V, khóa VIII của Đảng ta đã xác định r các mục tiêu, trong đó:


3

“ ây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” nhằm “phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh,
tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
1998, tr. 55) .

Quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế hàng
hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta đang làm cho nền kinh tế phát triển nhanh
chóng, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Song, nền kinh tế thị
trường cũng ngày càng cuốn hút con người vào cuộc mưu sinh, đua tranh làm
giàu, khiến nhiều người làm cha mẹ ít có thời gian gần gũi để truyền cho con
cái những câu tục ngữ, ca dao mang tính triết lý về đạo đức, nhân sinh đẹp đẽ
như các thế hệ đi trước đã truyền cho họ.
Giao lưu kinh tế, văn hóa ngày càng được mở rộng, tăng cường, được
sự hỗ trợ bởi các công nghệ hiện đại như: máy tính điện tử, internet, các
phương tiện giải trí, điện thoại thơng minh…vv, đầy sức hấp dẫn đối với giới
trẻ, làm cho ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên khơng cịn
mấy quan tâm đến văn học dân gian, tới tục ngữ, ca dao. Một trong những
kênh giáo dục đạo đức quan trọng trong truyền thống của người Việt Nam
đang có xu hướng ngày càng suy giảm.
Mặc dù quá trình đổi mới ở đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, trong đó “nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và của
từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hố được bảo tồn, tơn tạo...”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016a, tr. 123 – 124), nhưng tình trạng mai một
các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống là một trong những nguy cơ đã
được các nhà nghiên cứu về văn hóa, đạo đức chỉ ra. Chính vì vậy, giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc trong bối


4

cảnh hiện nay là một yêu cầu tất yếu, một nhiệm vụ nặng nề, cấp bách và có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta. Trong các giá trị truyền thống
của dân tộc cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy đó có các giá trị đạo đức
trong ca dao, tục ngữ của người Việt Nam chúng ta. Chính vì vậy, việc khơi
dậy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói

chung và tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam nói riêng có ý
nghĩa quan trọng đối với vấn đề bảo vệ, lưu truyền, phát huy các giá trị văn
hóa, đạo đức của dân tộc ta trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế
ngày càng trở nên sâu rộng.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng đạo đức trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học của mình với
mong muốn sẽ góp phần tích cực trong việc bảo vệ, lưu truyền, phát huy các
giá trị của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam trong điều kiện
hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Những nghiên cứu về văn học dân gian đã chỉ ra rằng: ca dao, tục ngữ
Việt Nam là một sản phẩm chứa đựng cả một hệ thống giá trị, triết lý, tư
tưởng, đạo đức, giáo dục … mang tính cộng đồng cao, được hình thành và
phát triển trải dài theo suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Chính vì vậy, việc
sưu tầm, nghiên cứu về ca dao, tục ngữ Việt Nam nói chung hay những khía
cạnh cụ thể ẩn chứa trong đó đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Và cho
đến nay, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cơng trình sưu tập, nghiên cứu đã
đưa ra các nhận định ban đầu về ca dao, tục ngữ hay những nội dung, khía
cạnh nào đó ẩn chứa bên trong nó, bao gồm cả những nghiên cứu về đạo đức
và tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trong đó, các tác giả đã
tập trung nghiên cứu theo các hướng như sau:


5

Một là, các cơng trình sưu tập, nhận định về ca dao, tục ngữ Việt Nam,
trong đó bao hàm những điều kiện, tiền đề hình thành hoặc phản ánh một số
khía cạnh có liên quan đến tư tưởng đạo đức bên trong nội dung của nó.
Theo hướng này, có một số cơng trình tiêu biểu sau:
Thứ nhất, bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt gồm 19 tập do

Viện Khoa học xã hội Việt Nam giữ bản quyền, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội chủ trì, phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian tổ chức biên soạn
đã sưu tầm, đánh giá, bình chú các nội dung của ca dao, tục ngữ, trong đó có
khía cạnh đạo đức và tư tưởng đạo đức. Phần Tục ngữ được trình bày trong 2
tập (tập 1 và tập 2) do GS.TS. Nguyễn Xuân Kính chủ biên cùng Phan Lan
Hương biên soạn và được xuất bản tháng 12 năm 2002. Đây là 2 tập sưu tầm
10.625 câu tục ngữ của người Việt, gồm 8 chủ đề (Tập 1 gồm 7 chủ đề với
795 trang, từ I đến VII; Tập 2 chứa đựng nội dung của chủ đề VIII với 864
trang) và được sắp xếp như sau: I. Đất nước và lịch sử; II. Quan hệ gia đình,
xã hội; III. Các hiện tượng tự nhiên, thời tiết; IV. Lao động và nghề nghiệp;
V. Đời sống vật chất con người; VI. Phong tục, văn nghệ, giáo dục, chữa
bệnh; VII. Giặc cướp và áp bức. Tệ nạn xã hội. Thói hư tật xấu. Chống giặc
cướp, áp bức, tệ nạn xã hội. Phê phán thói hư tật xấu; VIII. Những quan niệm
đa dạng về nhân sinh, vũ trụ (Tập 2).
Trong khi đó, phần Ca dao được trình bày trong 2 tập: Tập 15 (xuất bản
tháng 10 năm 2002) và tập 16 (xuất bản tháng 3 năm 2002) cũng do GS.TS.
Nguyễn Xuân Kính chủ biên cùng Phan Lan Hương biên soạn, gồm 11.001
lời ca dao với 9 chủ đề (tập 15 gồm 8 chủ đề với 1174 trang và tập 16 chứa
đựng nội dung của chủ đề IV với 847 trang) như sau: I. Đất nước và lịch sử;
II. Quan hệ gia đình, xã hội; III. Lao động và nghề nghiệp; IV. Tình u lứa
đơi (Tập 16); V. Sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; VI. Những lời bông đùa, khôi


6

hài, giải trí; VII. Những nỗi khổ, những cảnh sống lầm than; VIII. Những thói
hư tật xấu và tệ nạn xã hội; IX. Kinh nghiệm sống và hành động.
Nhìn chung, những tác phẩm nói trên khơng phải là những cơng trình
chuyên về triết học, đạo đức mà chỉ là những cơng trình sưu tập hết sức cơng
phu và các tác giả đã đưa ra những đánh giá, nhận định như: khái quát một số

vấn đề về xác định ranh giới thể loại, về việc nghiên cứu, nội dung và nghệ
thuật, thi pháp hay bàn luận về một số khía cạnh nội dung của nó… của ca
dao, tục ngữ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, nhất là
các thế hệ sau này. Những cơng trình này đã góp phần tích cực trong việc làm
giảm nguy cơ thất truyền và cung cấp nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu về ca
dao, tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, để nghiên cứu, phân tích, khái quát được
những nội dung, hàm ý, những tư tưởng như đạo đức, giáo dục, triết học… ẩn
chứa bên trong những câu ca dao, tục ngữ ấy, địi hỏi người nghiên cứu phải
đầu tư cơng sức tìm tịi, nghiên cứu nhằm đạt được mục đích mà nhà nghiên
cứu đặt ra. Chính vì vậy, những tập sách nói trên sẽ là nguồn tư liệu quý cho
những nghiên cứu tiếp theo về ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Thứ hai, bên cạnh 4 tập sách sưu tầm về ca dao, tục ngữ Việt Nam nói
trên, một số nhà khoa học khác cũng đã bỏ nhiều công sức để sưu tầm ca dao,
tục ngữ. Chẳng hạn, cuốn Ca dao, tục ngữ, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc
Phan, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978; Tục ngữ Việt Nam của tác
giả Chu uân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri, nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1993; Kho tàng ca dao tục ngữ người Việt của Nguyễn Xuân
Kính và Phan Đăng Nhật, nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1995; Ca
dao - tục ngữ của Vũ Tiến Quỳnh, nhà xuất bản Văn Nghệ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 1995; Ca dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Phương Thu, nhà xuất
bản Thời Đại, Hà Nội, 2010; Thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam
của tác giả Lam Giang, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2015;…vv.


7

Cũng giống như 4 tập sách sưu tập về ca dao, tục ngữ Việt Nam trong
bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt đã đề cập, những tác phẩm của
các tác giả trên đây cũng đã tập hợp, giới thiệu đến người đọc những câu ca
dao, tục ngữ Việt Nam cùng với một số nhận định, đánh giá ban đầu ở những

khía cạnh nhất định của ca dao, tục ngữ Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu,
khái quát về tư tưởng, triết lý đạo đức ẩn chứa bên trong nội dung của nó. Do
vậy, những tác phẩm này cũng chính là nguồn tư liệu q để tơi thực hiện
cơng trình nghiên cứu “Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”.
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến điều kiện, tiền đề, lịch
sử hình thành tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thông qua
nghiên cứu về lịch sử văn học dân gian Việt Nam nói chung. Theo hướng
nghiên cứu này, chúng ta có thể kể đến một số cơng trình của các tác giả như
sau: Văn học truyền khẩu Việt Nam của tác giả Phạm Văn Diêu, nhà xuất bản.
Sài Gòn, 1960; Tư tưởng Việt Nam - tư tưởng triết học bình dân của Nguyễn
Đăng Thục, nhà sách Khai Trí, Sài Gịn, 1963; Lịch sử văn học Việt Nam –
Văn học dân gian của nhóm tác giả Đinh Gia Khánh và Chu

uân Diên, nhà

xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1973; Tìm hiểu tiến
trình văn học dân gian của Cao Huy Đỉnh, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,
1999; Lịch sử văn học dân gian Việt Nam của Bùi Văn Nguyên, nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 1978; Lịch sử và văn học dân gian của Đặng Văn Lung,
nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2004; Địa danh Việt Nam trong tục ngữ, ca
dao của Vũ Quang Dũng, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2007; Từ
điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của tác giả Thanh Long – Tường
Ngọc, nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 2014; Văn hóa giao tiếp - ứng xử
trong tục ngữ, ca dao Việt Nam do Hội văn nghệ dân gian Việt Nam biên
soạn, nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2013…vv. …


8

Các cơng trình vừa kể trên chủ yếu đi sâu lý giải một số vấn đề về

nguồn gốc, nội dung, đặc trưng, loại hình của văn học dân gian, trong đó có
ca dao, tục ngữ; khái quát lịch sử văn học dân gian Việt Nam cũng như đánh
giá việc sưu tầm, nghiên cứu các thể loại: ca dao, tục ngữ, dân ca, vè, truyện
cổ tích, thần thoại .... qua các thời kỳ phát triển của dân tộc ta hoặc mới chỉ ra
được những địa danh được đề cập trong ca dao, tục ngữ Việt Nam mà chưa có
những khái quát, đánh giá, nhận định về lĩnh vực tư tưởng đạo đức liên quan
đến đề tài mà tôi đang nghiên cứu.
Thứ tư, nghiên cứu điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng đạo đức trong
ca dao, tục ngữ Việt Nam thì khơng thể tách rời nó với lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam hay nền văn hóa của nước nhà. Chính vì vậy, các tác phẩm:
Đại cương lịch sử Việt Nam (gồm 3 tập) do nhóm tác giả Trương Hữu Quýnh
(chủ biên), Phan Đại Doãn và Nguyễn Cảnh Minh, nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam, 2014. Trong đó, Tập 1: Từ thời nguyên thủy đến 1858; Tập 2: Từ
năm 1858 đến năm 1945; và Tập 3: Từ năm 1945 đến năm 1995. Đây là cơng
trình nghiên cứu tương đối cơng phu, có tính kế thừa với mong muốn “mỗi
người Việt Nam phải có sự hiểu biết đầy đủ hơn về tồn bộ lịch sử Việt Nam
theo tinh thần “ơn cố tri tân”, lấy xưa phục vụ nay” (Trương Hữu Quýnh,
Phan Đại Doãn & Nguyễn Cảnh Minh, 2014, tr.6). Đồng thời, các cơng trình
Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần thứ 2) của tác giả Trần Ngọc Thêm, nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999 và Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả
Chu Xuân Diên, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh năm 2002
đã trình bày về các khái niệm cơ bản về văn hóa, các thiết chế, chức năng,
cấu trúc của văn hóa, diễn trình của lịch sử văn hóa Việt Nam, khơng gian
văn hóa Việt Nam, góp phần thuận lợi cho quá trình nghiên cứu về lịch sử tư
tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt
Nam nói riêng.


9


Hai là, những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức nói chung
và giá trị đạo đức truyền thống của người Việt nói riêng mà tư tưởng đạo đức
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là một nội dung trong đó.
Đạo đức là một lĩnh vực chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội lồi người.
Chính vì vậy, nghiên cứu về đạo đức nói chung và đạo đức trong một lĩnh vực
cụ thể nào đó, bao hàm cả tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam
cũng cần được tiếp cận trên nền tảng lý luận của đạo đức. Đề cập đến lý luận
về đạo đức, trước hết có cuốn sách Nguyên lý đạo đức cộng sản của A.Sixkin,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961. Trong cuốn sách này, A.Sixkin đã tỏ rõ
sự đồng tình với quan điểm Mácxít về nguồn gốc của đạo đức, đồng thời ông
tiếp tục khẳng định rằng: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội và đề cập đến
đạo đức là đề cập đến những lề thói và tập tục được biểu hiện trong các mối
quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống hàng ngày; Cuốn sách
Đạo đức học (tập 1 và 2) của tác giả G.Bandzeladze, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội ấn hành năm 1985 đã phân tích, luận giải về vai trị của đạo đức trong
đời sống xã hội cũng như làm sáng tỏ những hiện tượng đạo đức xã hội. Trên
cơ sở phân tích mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, pháp lý và nghệ
thuật..., G.Bandzeladze đã đi đến kết luận: đạo đức là đặc trưng bản tính chỉ
có ở con người. Bản chất của đạo đức chính là sự quan tâm một cách tự giác
của con người đến lợi ích của những người xung quanh nói riêng và lợi ích
của cộng đồng xã hội nói chung.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam, đạo đức cũng là một lĩnh vực được các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu và đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Đáng chú ý
là các cuốn sách: Đạo đức học Mác – Lênin (phần 1) của nhóm tác giả đến từ
Trường Đại học tổng hợp Hà Nội, do nhà xuất bản Đại học tổng hợp Hà Nội
ấn hành năm 1990. Đây là cuốn sách đi sâu luận bàn về các vấn đề như: Bản
chất giai cấp, bản chất xã hội, Chủ nghĩa Mác - Lênin, Phương pháp luận và


10


Đạo đức học với dung lượng 160 trang. Cuốn Giáo trình Đạo đức học (dùng
cho hệ cử nhân chính trị) do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên
soạn, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành năm 2000 đã làm r đối
tượng, nhiệm vụ của đạo đức học Mác – Lênin cũng như chỉ ra nguồn gốc,
bản chất, chức năng, vai trò của đạo đức và các kiểu đạo đức trong lịch sử và
quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời, cuốn
sách này cũng đã đề cập đến một số phạm trù cơ bản, những nguyên tắc của
đạo đức và tính quy luật của sự hình thành đạo đức mới cũng như luận bàn
đến một số vấn đề xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách Đạo đức học Mác – Lênin và
giáo dục đạo đức (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng ngành sư phạm) do
PGS.TS Trần Đăng Sinh và PGS.TS Trần Thị Thọ đồng chủ biên, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội ấn hành năm 2018. Cuốn sách này
không chỉ dừng lại ở việc trang bị cho người đọc những kiến thức cơ bản về
đối tượng, phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác – Lênin hay nguồn
gốc, bản chất, chức năng của đạo đức…, mà còn trang bị cho những người
giáo viên trong tương lai những kiến thức về giáo dục đạo đức nói chung và
đạo đức nghề giáo nói riêng….vv.
Những cuốn sách kể trên vừa đóng vai trị cung cấp hệ thống tri thức lý
luận để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đạo đức trong một lĩnh vực nào
đó, kể cả tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Trong quá trình phát triển của lịch sử nước ta, những giá trị đạo đức
nói riêng và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, nhất là vị
trí, vai trị của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng được
khẳng định và được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong đó, các
tác giả đã đi sâu khai thác một số khía cạnh cụ thể của đạo đức thơng qua hệ
thống giá trị của con người Việt Nam nói chung. Tiêu biểu có các cơng trình



11

như: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần Văn
Giàu, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; Giá trị truyền thống Việt
Nam trước thách thức của tồn cầu hóa của GS,TS Đỗ Huy, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay của Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang, chương trình KHCN cấp
nhà nước KX.07, đề tài KX07-02, Hà Nội, tập 1, 1994; tập 2, 1996; Giá trị
truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa của tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp của
Nguyễn Duy Quý, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; Đạo đức
xã hội dưới tác động và ảnh hưởng của kinh tế và chính trị ở nước ta hiện
nay của Nguyễn Duy Q và Hồng Chí Bảo, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội,
2003; Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Văn
Lý, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2000; Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho
thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay của Ngô Thị Thu Ngà, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội:
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2010; Vai trị của
đạo đức với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện
đổi mới hiện nay của Lê Thị Thủy, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001;... Hoặc các bài viết: Giá trị đạo
đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong
nền kinh tế thị trường của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học số 5, 2002;
Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách
con người Việt Nam hiện nay của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, số 7,



12

2004; Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong cơ chế thị trường ở
Việt Nam hiện nay của GS Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002;
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 1, 2002;
Tồn cầu hóa và nguy cơ suy thối đạo đức, lối sống con người Việt Nam
hiện nay của Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tạp chí Triết học, số 2, 2007; Tác
động của tồn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt
Nam của Mai Thị Quý, Tạp chí Triết học, số 5, 2007...vv.
Mặc dù các cơng trình, đề tài, luận văn, luận án, bài viết theo hướng
này cũng đã khẳng định được những giá trị to lớn của đạo đức truyền thống
cũng như đóng góp của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đã đưa ra một số đánh giá, định hướng ban
đầu nhằm xây dựng lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến hệ thống các
giá trị đạo đức truyền thống trên cả phương diện tích cực lẫn tiêu cực... thì
việc phát huy đức tính cần cù, tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm chính là điều
kiện cần thiết để “ ây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” cũng như “ ây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” như tinh thần
Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương I

(khóa

I) đã đề ra. Tuy nhiên, các cơng trình, bài viết kể trên cũng chỉ khai thác một
số khía cạnh nhất định về giá trị truyền thống, phát huy các giá trị truyền
thống của người Việt trong điều kiện hiện nay, trong đó có các giá trị đạo đức
truyền thống trong một số lĩnh vực cụ thể nhưng chưa phân tích, luận giải vấn

đề về tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Ba là, các cơng trình đi thẳng vào nghiên cứu về triết lý nhân sinh và
các nội dung liên quan đến đạo đức, tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ


13

Theo hướng này, các tác giả đã tập trung nghiên cứu và có các cơng
trình tiêu biểu như: Triết lý đạo đức trong kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca
Việt Nam của Lê Huy Thực, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015. Đây là cơng trình nghiên cứu đã đi sâu khai
thác các vấn đề “Giá trị đạo đức và thói đời”, “Tình cảm, việc làm thiện và
hành vi ác” và “vấn đề hạnh phúc và bất hạnh”. Qua cơng trình này, tác giả
đã khẳng định những giá trị đạo đức và thói đời, tình cảm, việc làm thiện
và hành vi ác cũng như hạnh phúc và bất hạnh được đề cập đến trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam. R ràng, đây là một cơng trình nghiên cứu công
phu, liên quan đến vấn đề “đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” nhưng
vẫn cịn những khía cạnh mà tác giả chưa đề cập đến, không trùng lặp với
đề tài “Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” mà bản thân tôi
đang nghiên cứu.
Bên cạnh những tác phẩm nói trên, cuốn sách Đạo làm người trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân, do nhà xuất bản
Thanh Niên ấn hành năm 2011. Đây là cuốn sách đi thẳng vào vấn đề đạo
đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, gồm 2 phần: phần thứ nhất của cuốn
sách đề cập khá chi tiết đặc điểm của tục ngữ ca dao Việt Nam về đạo làm
người và tác giả đã đưa ra những phân loại cũng như nội dung tục ngữ ca
dao Việt Nam về đạo làm người; phần thứ hai của cuốn sách là việc Sưu tập
- Lựa chọn - Giải thích tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm người cùng với
bảng tra cứu tục ngữ ca dao Việt Nam về đạo làm người theo chuyên mục

nhằm mục đích:
“Giúp cho bạn đọc rộng rãi, trong đó có học sinh, sinh viên học tập
nhận thức và vận dụng ứng xử những kinh nghiệm sống của cha ông đã
để lại, kết hợp đạo lý truyền thống của dân tộc với đạo đức cách mạng


14

theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng nhân cách con người Việt
Nam hiện đại góp phần bảo vệ bản sắc dân tộc trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hơm nay” (tr. 12).
Những tác phẩm kể trên không chỉ đã đi sâu vào nghiên cứu về ca dao,
tục ngữ Việt Nam với tư cách là một thể loại văn học dân gian, mà còn làm rõ
một số nội dung hay những giá trị mà ca dao, tục ngữ đã đem lại cho cuộc
sống của cộng đồng người Việt. Đồng thời, các tác phẩm đó cũng đã khẳng
định rằng: ca dao, tục ngữ có vai trị to lớn đến quá trình lao động, sản xuất,
chinh phục tự nhiên cũng như giải quyết các mối quan hệ giữa con người với
con người trong cuộc sống của nhân dân ta.
Ngồi ra có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết như: Triết lý nhân
sinh trong ca dao Nam bộ của tác giả Trần Thị Thùy Trang, Luận văn thạc sỹ
Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, 2010;
Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Chu Thị Hà
Vân, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2014;
Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam, Tạp
chí Triết học, số 2, 2004 và Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục
ngữ, thơ ca dân gian, Tạp chí Triết học, số 9, 2005 của tác giả Lê Huy Thực;
Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian của Đỗ Lan
Hiền, Tạp chí Triết học, số 6, 2005;...v.v.
Những cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đây cũng chỉ mới đề cập đến
những khía cạnh, phạm trù cụ thể của đạo đức như: Triết lý dân gian về hạnh

phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam; Tiêu chí kiểm định đạo đức
con người qua tục ngữ, thơ ca dân gian; triết lý nhân sinh trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam hoặc một khu vực cụ thể nào đó trên đất nước chúng ta…, mà


15

chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam.
Như vậy, văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ Việt Nam nói
riêng ẩn chứa nhiều nội dung liên quan đến triết học, giáo dục, đạo đức … và
được nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, mặc dù
đã có những cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến các khía cạnh
khác thuộc các lĩnh vực khác nhau như: đạo đức, lịch sử, văn hóa, tư tưởng …
của dân tộc Việt Nam hoặc các vấn đề liên quan đến điều kiện, tiền đề hình
thành văn học dân gian nói chung hay một số nội dung bên trong của ca dao,
tục ngữ Việt Nam nói riêng, mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống dưới góc độ triết học vấn đề “Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam” mà tơi đang nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Trên cơ sở khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam
và về đạo đức, luận án làm rõ những điều kiện hình thành, các nội dung, đặc
điểm cơ bản cũng như đánh giá về mặt giá trị và hạn chế của tư tưởng đạo đức
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và rút ra ý nghĩa của nó đối với vấn đề giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích nói trên, luận án tập
trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, trình bày khái quát lý luận chung về ca dao, tục ngữ Việt Nam
và về đạo đức cũng như phân tích, làm rõ những điều kiện hình thành tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

Hai là, phân tích, làm rõ các nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.


16

Ba là, phân tích những đặc điểm cơ bản cũng như đánh giá về mặt giá
trị, hạn chế của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và rút ra ý
nghĩa của nó đối với vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu những vấn đề
về tư tưởng đạo đức Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ của người Kinh – cộng đồng người
chiếm tỷ lệ đa số ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về lịch sử, văn hóa, đạo đức, xây dựng, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức trong bối cảnh hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án tiếp cận vấn đề dưới góc độ Triết học lịch sử, triết học văn hóa
cũng như giá trị học. Đồng thời, luận án cũng sử dụng phối hợp các phương
pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, so sánh, đối chiếu, quy nạp và
diễn dịch, văn bản… để nghiên cứu và trình bày luận án.
6. Cái mới của luận án
Một là, luận án đã luận giải, phân tích một cách có hệ thống những điều
kiện hình thành, các nội dung, đặc điểm cơ bản của tư tưởng đạo đức trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam.



17

Hai là, luận án đã đánh giá về mặt giá trị và hạn chế của tư tưởng đạo
đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng như rút ra ý nghĩa đối với vấn đề
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học của luận án: Việc nghiên cứu, phân tích, làm rõ
điều kiện hình thành, nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế của tư tưởng đạo
đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam sẽ góp phần giúp người đọc có thêm
những hiểu biết một cách có hệ thống và sâu sắc hơn về những giá trị đạo đức
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về tư tưởng
đạo đức Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Luận án góp phần củng cố, lưu giữ và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam chúng ta trong
giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, bổ sung
tích cực cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tư tưởng Việt Nam nói chung và
tư tưởng đạo đức của người Việt cũng như ý nghĩa của nó đối với vấn đề giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay nói riêng.
8. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 200 trang với 3 chương, 8 tiết và 20 tiểu tiết.


18

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VÀ NHỮNG
ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC

TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
1.1. KHÁI LƯỢC VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của ca dao, tục ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ là những thể loại của văn học dân gian, do quần
chúng nhân dân sáng tác và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ca dao, tục ngữ có nguồn gốc từ lâu đời, được hình thành trong cuộc sống,
trong lao động sản xuất của con người và nó được “ra đời ngay từ thời công
xã nguyên thủy, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội
có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay” (Đinh Gia Khánh & Chu
Xuân Diên, 1991a, tr. 13).
1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của ca dao Việt Nam
Theo nhiều nhà nghiên cứu về văn học dân gian, thì bản thân từ “Ca
dao” là một thuật ngữ Hán – Việt, trong đó “Ca” có nghĩa là hát, “Dao” muốn
nói đến những bài hát không chương khúc. Trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt của giáo sư Nguyễn Lân có đề cập đến “Ca dao” như sau: “câu hát truyền
miệng của dân gian không theo một điệu nhất định” (tr. C.75). Những nghiên
cứu về văn học dân gian đã chỉ ra rằng, mặc dù ca dao là một loại hình văn
học nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử, có nguồn gốc từ chính trong
hoạt động sống của con người Việt Nam chúng ta trước đây, nhưng tên gọi
“Ca dao” thực sự mới xuất hiện ở nước ta cuối thế kỉ

VIII, được các nhà

Nho ở Việt Nam vay mượn từ tiếng Hán để gọi tên cho bộ phận những câu


×