Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Khai thác giá trị di sản văn hóa ví giặm nghệ tĩnh phục vụ phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NHƢ HẢI

KHAI THÁC GIÁTRỊ DI SẢN VĂN HĨA
VÍ, GIẶM NGHỆTĨNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NHƢ HẢI

KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA
VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH DU LỊCH
Mã số: Thí điểm

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN PHẠM HÙNG

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là ông trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số


liệu, nhận xét, phân tích và các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhƣ Hải


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại Khoa Du lịch học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, dưới sự hướng dẫn khoa học nghiêm túc, chu đáo và
tận tình của PGS.TS. Nguyễn Phạm Hùng. Học viên bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến quý thầy, người đã thường xuyên dạy bảo, động viên, khuyến khích
để học viên nỗ lực hoàn thiện luận văn.
Học viên chân thành cảm ơn các Thầy/ Cô giảng dạy tại Khoa Du lịch
học Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, gia đình và đồng nghiệp
đã động viên, khuyến khích, tạo điều kiện để học viên hồn thiện chương
trình học tập.
Học viên cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với cán bộ lãnh đạo, phòng ban
của sở Du lịch Nghệ An, Trung tâm bảo tồn di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ
Tĩnh, Sở Văn hóa – Thể thao Nghệ An đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ
học viên trong quá trình thực hiện nghiên cứu tại địa phương. Cảm ơn bạn bè,
đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm và chia sẻ với học viên trong suốt thời
gian làm luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhƣ Hải


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. DI SẢN VĂN HĨA VÍ GIẶM NGHỆ TĨNH – TÀI
NGUNDU LỊCH VĂN HĨA QUAN TRỌNG ........................................ 9
1.1.Vai trị của di sản văn hóa trong phát triển du lịch ............................... 9
1.1.1. Di sản văn hóa ........................................................................................ 9
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể .................................................................... 11
1.1.3. Vai trò của di sản trong phát triển du lịch ............................................ 12
1.1.4. Nguyên tắc và phương pháp khai thác di sản văn hóa trong phát triển
du lịch .............................................................................................................. 13
1.2. Di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ..................................................... 15
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ................... 15
1.2.2. Phân bố khơng gian văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ............................... 18
1.2.3. Những hình thức tổ chức diễn xướng Ví, Giặm Nghệ Tĩnh .................. 20
1.2.4. Các làn điệu Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ......................................................... 24
1.2.5. Ca từ Ví, Giặm Nghệ Tĩnh .................................................................... 33
1.2.6. Những yếu tố văn hóa khác góp phần hình thành mơi trường văn hóa
Ví, Giặm Nghệ Tĩnh......................................................................................... 33
1.3. Vai trị của di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh trong hoạt động du lịch 36
1.3.1. Sức hấp dẫn của nghệ thuật diễn xướng Ví, Giặm ............................... 36
1.3.2. Khả năng trình diễn linh hoạt và sự tham gia của du khách ................ 38
1.3.3. Các yếu tố văn hóa – thiên nhiên phụ trợ khác .................................... 39


1.3.4. Khơng gian văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh có vị trí thuận lợi để phát triển du
lịch ................................................................................................................... 40

1.3.5. Đánh giá chung : Những thuận lợi, khó khăn, hạn chế của việc khai
thác di sản văn hóa Ví Giặm Nghệ Tĩnh trong phát triển du lịch................... 41
1.4. Bài học kinh nghiệm của một số loại hình nghệ thuật diễn xƣớng
trong phát triển du lịch ................................................................................. 41
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG DU LỊCH VÀ ĐIỀU KIỆN KHAI THÁC
DI SẢNVĂN HĨA VÍ GIẶM NGHỆ TĨNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH ........................................................................................................ 46
2.1. Thị trƣờng khách du lịch văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh .................... 46
2.1.1. Tiềm năng thị trường khách du lịch nội địa và quốc tế ........................ 46
2.1.2. Thực trạng thị trường khách du lịch nội địa và quốc tế ....................... 47
2.2. Sản phẩm du lịch đặc thù ...................................................................... 50
2.2.1. Sản phẩm du lịch văn hóa Ví, Giặm...................................................... 50
2.2.2. Chủ thể xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa Ví, Giặm ........................ 56
2.2.3. Tổ chức kinh doanh sản phẩm du lịch văn hóa Ví, Giặm ..................... 57
2.3. Nhân lực phục vụ du lịch Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ................................... 59
2.3.1. Nhân lực du lịch thường xuyên ............................................................. 59
2.3.2. Nhân lực du lịch mùa vụ ....................................................................... 61
2.3.3. Đội ngũ nghệ nhân, nghệ sỹ .................................................................. 62
2.3.4. Công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch văn hóa Ví, Giặm63
2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật, các nguồn lực xã hội phục vụ phát triển du
lịch Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ............................................................................... 65
2.4.1. Các làng dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ................................................... 65
2.4.2. Các sân khấu biểu diễn Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ........................................ 66
2.4.3. Các điểm du lịch có biểu diễn Ví, Giặm Nghệ Tĩnh.............................. 66
2.4.4. Cơng tác đầu tư cho du lịch văn hóa Ví, Giặm ..................................... 67


2.5. Công tác tổ chức, quản lý trong khai thác di sản văn hóa Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh phục vụ phát triển du lịch ......................................................... 68

2.5.2. Công tác quản lý, tổ chức khai thác di sản văn hóa Ví Giặm phục vụ
phát triển du lịch ............................................................................................. 70
2.5.3. Công tác xúc tiến du lịch văn hóa Ví Giặm .......................................... 70
2.6. Đánh giá chung: Tiềm năng, thực trạng và điều kiện phát triển du
lịch di sản văn hóa Ví Giặm Nghệ Tĩnh ...................................................... 72
2.6.1. Về tiềm năng phát triển du lịch di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ... 72
2.6.2. Về thực trạng phát triển du lịch di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh .. 73
2.6.3. Về điều kiện khai thác, phát triển du lịch di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh 73
2.6.4. Những kết quả đạt được ........................................................................ 74
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 76
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP KHAI THÁC DI SẢN VĂN HĨA VÍ GIẶM
NGHỆ TĨNHPHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH.................................... 77
3.1. Các căn cứ đề xuất ................................................................................. 77
3.1.1. Định hướng và kế hoạch bảo tồn di sản văn hóa Ví Giặm ................... 77
3.1.2. Định hướng phát triển du lịch Nghệ Tĩnh ............................................. 79
3.1.3. Điều kiện phát triển du lịch di sản văn hóa Ví Giặm ........................... 83
3.2. Những giải pháp cụ thể .......................................................................... 86
3.2.1. Về tổ chức, quản lý du lịch văn hóa Ví Giặm ....................................... 86
3.2.2. Về phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch văn hóa Ví Giặm .......... 88
3.2.3. Về đầu tư các nguồn lực vật chất cho du lịch văn hóa Ví Giặm .......... 90
3.2.4. Về phát triển thị trường khách du lịch văn hóa Ví Giặm...................... 91
3.2.5. Về xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch văn hóa Ví Giặm ................ 92
3.2.6. Về xúc tiến du lịch văn hóa Ví Giặm ..................................................... 95
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109


DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.1. Lượng khách nội địa đến Nghệ An................................................. 49
Bảng 2.2. Cơ cấu trình độ lao động du lịch của Nghệ An .............................. 60
Bảng 2.3. Số lượng lao động du lịch của Cửa Lò ........................................... 61


DANH MỤC VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

CLB

:

Câu lạc bộ

DCVGNT

:

Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh

DCVG

:

Dân ca Ví, Giặm


GS

:

Giáo sư

VH TT

:

Văn hóa thơng tin

VHTTDL

:

Văn hóa – Thể thao và Du lịch

Tp

:

Thành phố

UBND

:

Ủy ban nhân dân


UNESCO

:

United

Nations

Educational

Scientific and Cultural Organization
(Tổ chức giáo dục, khoa học và văn
hóa Liên hợp quốc)


PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Với xu thế hội nhập, với sự ra đời của đa dạng của các loại hình du lịch
thì các loại hình diễn xướng dân gian được xem là sản phẩm du lịch đặc thù,
độc đáo nhất của các nước đang phát triển. Với phương châm khơng hồn
tồn dựa vào những đầu tư lớn vào hạ tầng du lịch hay sự can thiệp bằng các
biện pháp kỹ thuật hiện đại để tạo ra những điểm du lịch thu hút khách, mà
hầu hết các quốc gia đều đã chuyển hướng là dựa vào nguồn du lịch tự nhiên
và sự đa dạng trong bản sắc văn hóa dân tộc để phát triển bền vững. Loại hình
du lịch này đã mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch các nước, đồng
thời đóng góp đáng kể cho sự phồn vinh của cộng đồng xã hội.Một trong
những cách thức mà trên thế giới thực hiện là đưa diễn xướng dân gian vào
các khu, điểm di tích - du lịch, vào các lễ hội và đưa hoạt động này trở thành
một điểm nhấn quan trọng trong hoạt động của các tua du lịch;các loại hình

diễn xướng dân gian được xem là sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo nhất và là
một nhu cầu không thể thiếu được của du khách thập phương. Kinh nghiệm
của các nước như Trung Quốc, Singapo, MalaiXia, Indonesia, Lào, Thái Lan,
Ấn độ, Philipin, Liên bang Nga, Yogyakarta cho thấy, địa phương nào biết khai
thác văn hoá truyền thống vào hoạt động du lịch, địa phương đó sẽ phát triển
và có doanh thu lớn về du lịch.
Nghệ An, với tiềm năng văn hóa, du lịch phong phú và đa dạng,
trong đó phải kể đến dân ca Ví, Giặm. Sự kiện dân ca Ví,Giặm Nghệ Tĩnh
được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại vào cuối năm 2014 là vinh dự to lớn của Việt Nam nói
chung và xứ Nghệ nói riêng. Đưa dân ca vào trong hoạt động du lịch là
một giải pháp có tính khả thi cao, lại đạt được nhiều mục đích: vừa bảo

1


tồn, phát huy được dân ca lại vừa đạt được mục đích khuyếch trương,
truyền bá dân ca sâu rộng; góp phần quan trọng làm cho ngành du lịch địa
phương phát triển bền vững.Nhiều địa phương trong cả nước đã đưa dân
ca, dân nhạc vào hoạt động du lịch khá thành công, như dân ca quan họ,
chèo, hát xoan (du lịch xứ Bắc), dân ca Huế (du lịch Bình Trị Thiên), cải
lương, đờn ca tài tử (du lịch phương Nam)...
Trên thực tế, du lịch gắn với các giá trị của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
chưa phát triển, chưa được nhiều người biết đến. Từ sau ngày vinh danh, một
số sản phẩm du lịch gắn với giá trị dân ca Ví, Giặm đã được khai thác nhưng
đầu tư cịn ít, cho nên sức hấp dẫn đối với khách du lịch còn hạn chế.
Với mong muốn di sản văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được bảo
tồn thơng qua hoạt động du lịch, đồng thời đi đúng hướng với xu thế trong và
ngoài nước, và cũng là vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ, tồn diện, nên
cần có một nghiên cứu phù hợp nhằm góp phần phát triển du lịch nên tác giả

đã chọn đề tài “Khai thác giá trị di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh phục
vụ phát triển du lịch”..
2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Dân ca Nghệ Tĩnh, mà tiêu biểu là Ví và Giặm là một hiện tượng sinh
hoạt văn hóa đặc sắc riêng của xứ Nghệ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm khai thác trên nhiều bình diện. Hiện nay, có hàng trăm cuốn sách, bài viết
nghiên cứu khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành về dân ca Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh. Hai tác giả đóng góp đầu tiên cho q trình nghiên cứu và sưu tầm
phải nói đến là Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Đổng Chi. Trong thời kỳ Pháp
thuộc, tác giả Nguyễn Văn Ngọc đã bỏ nhiều công sức đi sưu tầm, ghi chép,
kết quả là đã sưu tầm được 2 tập „Tục ngữ phong giao’ xuất bản 1928 do Vĩnh
Long thư quán xuất bản. Tiếp đó Giáo sư Nguyễn Đổng Chi cũng cho ra tập
„Hát giặm Nghệ Tĩnh‟ của Tân Việt Hà Nội, xuất bản năm 1944. Có thể nói,
đây là 2 cơng trình ra đời sớm nhất, mở đầu cho quá trình tìm lại vốn di sản
dân ca còn được lưu giữa trong đời sống nhân dân. Sau 1954, ông Vũ Ngọc

2


Phan cho ra cuốn khảo cứu về „Tục ngữ dân ca’ do Ban nghiên cứu văn – sử địa xuất bản, Hà Nội, 1956. Đầu năm 1958, tác giả Nguyễn Chung Anh ra
quyển „Hát ví Nghệ Tĩnh’. Ngồi ra có một số bài, một số câu đăng trên các
báo chí như trên các tạp chí ở miền Nam trước 1975 có Thú hát ví ở Nghệ An –
Hà Tĩnh của Hoàng Điệp – Thiết Mai năm 1962, nhưng đáng kể là khảo cứu
dân tộc học Vài nét về sinh hoạt của Hát Giặm và Hát Ví dân ca Nghệ Tĩnh của
Lê Văn Hảo năm 1963... tất cả những cơng trình đó đều là những đánh giá
bước đầu nhưng rất quý báu.
Đóng góp cho lĩnh vực bảo tồn thơng qua sưu tầm của dân ca Ví, Giặm
xứ Nghệ phải kể đến một đội ngũ đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhạc sỹ là
những người con xứ Nghệ, tiêu biểu trong đó có PGS Ninh Viết Giao, Thái
Kim Đỉnh, Trần Hữu Thung, Thanh Lưu, Lê Hàm, Vi Phong, ... Đó là những

người trân trọng và say mê với vốn dân ca dân tộc. Họ đã đi khắp các làng xã ở
Nghệ Tĩnh từ khe Nước Lạnh đến đèo Ngang, từ miền biển lên miền núi, ở đâu
có vốn dân ca cổ truyền, có nghệ nhân dân gian hát dân ca có chất giọng tốt, họ
đều có mặt để sưu tầm, ghi chép, bảo lưu, cải biên và thể nghiệm. Để rồi sau
này lại cho ra đời hàng loạt các cơng trình nghiên cứu, sưu tầm nhưPhường Vải
(1961,1993) của Ninh Viết Giao; Hát Giặm Nghệ Tĩnh (1963) của Nguyễn
Đổng Chi – Ninh Viết Giao; Dân ca Hà Tĩnh (1970) của Lê Hàm sưu tầm;
Bước đầu tìm hiểu những bài ca nhật trình (1981) của Ninh Viết Giao; Tuyển
tập dân ca xứ Nghệ (1982) của nhiều tác giả; Các làn điệu dân ca xứ Nghệ
(1991) của các tác giả Thanh Lưu – Lê Hàm – Vi Phong; Dân ca Nghệ Tĩnh
(1991) của các tác giả đoàn dân ca sưu tầm; Dân ca Thanh Nghệ Tĩnh (1991)
của sở VHTT Nghệ Tĩnh; Dân ca Nghệ Tĩnh (1993) của Vi Phong; Hát ví Nghệ
Tĩnh/ Tục ngữ cao dao, dân ca Việt Nam của Ninh Viết Giao; Tuyển tập các
làn điệu cải biên của dân ca (2007) của Thanh Lưu; Hát phường vải Trường
Lưu (1997) của Vi Phong và Phan Thư Hiền.... Đồng thời đó cịn là một tài liệu
quý, góp phần giúp các thế hệ hiện nay và mai sau có điều kiện tiếp cận và tiếp
thu để bảo tồn và phát huy vẻ đẹp của các làn điệu dân ca của quê hương.
Nhận thức được tầm quan trọng của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh hàng
thập kỷ qua, Trung tâm bảo tồn dân ca xứ Nghệ, các nhà nghiên cứu văn hóa

3


dân gian đã tổ chức nhiều chương trình, hội thảo, các đợt sưu tầm các làn điệu
dân ca Ví, Giặm cổ.
Trong khoảng gần 20 năm qua, sở VHTTDL của tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh đã tích cực thực hiện nhiều đề án, dự án nhằm bảo vệ và phát huy giá trị
dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Gần đây nhất Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia
Việt Nam khảo sát và điều tra thực trạng của sinh hoạt dân ca Ví, Giặm tại hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, tiến hành vào 2 đợt: Đợt 1 từ 25/12 đến 30/12 năm

2012; đợt 2 từ 19/2 đến 8/3 năm 2013. Cuộc khảo sát bước đầu, tập hợp một
cách có hệ thống những dữ liệu cụ thể do cộng đồng cung cấp, để đánh giá thực
trạng của cơ sở vật chất cũng như sinh hoạt văn hóa hát dân ca Ví, Giặm tại địa
bàn các thơn/xóm/khu dân cư và các câu lạc bộ dân ca Ví, Giặm (do chính
quyền hoặc các cơ quan quản lý văn hóa cấp xã và huyện của hai tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh ra Quyết định thành lập). Từ đó, có kế hoạch tiếp tục triển khai
hoạt đống sưu tầm, bảo tồn, khai thác giá trị di sản dân ca Ví, Giặm (như đã
tiến hành ở những cấp độ và mức độ khác nhau từ nhiều năm trước đây tại hầu
khắp các địa phương trên địa bàn hai tỉnh). Thu thập cứ liệu khoa học theo tiêu
chí UNESCO đặt ra để phục vụ công tác xây dựng hồ sơ, trình UNESCO cơng
nhận “Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Các tư liệu thu thập được từ cuộc điều tra bao gồm nhiều nội dung,
có thể chia thành 2 mảng chính: tư liệu định lượng (chủ yếu sử dụng phương
pháp định lượng như phỏng vấn bảng hỏi, thống kê,...để thu thập tư liệu) và tư
liệu định tính (được thu thập bởi các phương pháp hồi cố, dân tộc học,...)
Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu khoa học về dân ca Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh cịn rất hạn chế, những cơng trình mang tính khoa học ở mảng văn
hóa cũng hết sức khiêm tốn.
Tại hội thảo Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca Hị, Ví, Giặm xứ
Nghệ do sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An và sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Hội văn nghệ dân gian Nghệ An tổ
chức đã tập trung nhìn lại thực trạng bảo tồn và phát huy Hị, Ví, Giặm xứ
Nghệ, cũng như tìm hiểu sâu sắc hơn về kỹ thuật hát Ví, đặc điểm của thể loại
dân ca Hị, Ví, Giặm Nghệ Tĩnh; tầm quan trọng trong việc tuyên truyền quảng

4


bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, việc đưa dân ca vào trường học,...
Đây là một trong những hình thức bảo tồn và phát huy di sản dân ca Ví, Giặm;

đưa ra những chương trình hành động, các giải pháp định hướng bảo tồn, phát
huy, trong đó tập trung vào các vấn đề như: Cần quy hoạch cán bộ chuyên
môn, chuyên ngành di sản, phát triển các đội văn nghệ quần chúng, các đoàn
nghệ thuật; điều tra, sưu tầm, khai thác, phát triển dân ca Ví, Giặm phục hồi
các không gian diễn xướng, nuôi dưỡng nghệ nhân, đào tạo đội ngũ nghiên
cứu, đội ngũ hát dân ca; tập trung quy hoạch dân ca Ví, Giặm gắn với di tích
lịch sử, văn hóa, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực,... để
trong tương lao khơng xa, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh sẽ là sản phẩm có giá trị
cao phục vụ du khách trong và ngồi nước.
Để có được bộ hồ sơ trình UNESCO cơng nhận dân ca Ví, Giặm Nghệ
Tĩnh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nhiều cuộc hội thảo
được tổ chức. Một số vấn đề lý thuyết, phương pháp tiếp cận dân ca thông qua
vấn đề nghiên cứu bảo tồn văn hóa được các tác giả quan tâm; các nghiên cứu
so sánh giữa dân ca Ví, Giặm với các loại hình dân ca khác trên thế giới cũng
như với âm nhạc phương Tây, các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý thuyết,
những phương pháp tiếp cận nghiên cứu với tư cách một loại hình di sản văn
hóa phi vật thể đặc biệt, từ đó tìm ra những giá trị độc đáo, khác biệt cũng như
những điểm tương đồng giữa dân ca Ví, Giặm với các loại hình dân ca khác.
Làm rõ những giá trị nổi bật trên phương diện nghệ thuật của dân ca Ví, Giặm
và một số loại hình dân ca khác trên thế giới và ở Việt Nam, qua đó làm rõ tính
đa dạng của chúng trong bức tranh chung nhiều màu sắc của văn hóa nhân loại.
Thêm vào đó, nhiều bài nghiên cứu về dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh xuất
bản trong các tạp chí khoa học chuyên ngành (Tạp chí Văn hóa dân gian, tạp
chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Tạp chí Di sản văn hóa; Tạp chí Văn học;
Tạp chí Dân tộc học), các tạp chí ngành văn hóa thể thao du lịch, các báo chí
thuộc sự quản lý của tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như tạp chí văn hóa, Tạp chí
Sơng Lam, Báo Nghệ An, báo lao động Nghệ An,...
Tuy nhiên, tất cả các cơng trình sưu tầm, nghiên cứu trên cũng như một
số đề tài khóa luận của sinh viên, luận văn của học viên làm thạc sỹ cũng chỉ


5


mới dừng lại tập trung vào công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy các làn điệu
dân ca Ví, Giặm, việc nghiên cứu xem xét khai thác di sản văn hóa dân ca Ví,
Giặm Nghệ Tĩnh vào hoạt động du lịch chưa có nhiều người quan tâm. Cho
đến nay, chưa có một cơng trình dành riêng cho khai thác di sản văn hóa dân ca
Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để phát triển du lịch trên phạm vi tỉnh Nghệ An.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đíchnghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn xác định giá trị của dân ca ví, gặm
Nghệ Tĩnh nhằm góp phần tạo ra các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù của
Nghệ An trong phát triển du lịch, cũng như góp phần bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa quá khứ trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ
chính sau :
- Hệ thống hóa những vấn đề của di sản văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ
Tĩnh, bao gồm : Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, phân bố khơng
gian văn hóa, hình thức tổ chức diễn xướng, làn điệu, ca từ dân ca Ví, Giặm.
- Phân tích vai trị của di sản văn hóa Ví, Giặm trong hoạt động du lịch,
từ đó chỉ ra những những thuận lợi, khó khăn, hạn chế của việc khai thác cần
được giải quyết.
- Đề xuất một số giải pháp khai thác di sản dân ca Ví, Giặm phục vụ du
lịch.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là:
- Di sản văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh với những giá trị tiêu biểu
của nó;


6


- Ví,Giặm Nghệ Tĩnh là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phi vật thể, cơ
sở để phát triển các sản phẩm du lịch, các điểm đến du lịch.
- Các hoạt động du lịch khai thác di sản Ví,Giặm Nghệ Tĩnh như một sản
phẩm đặc thù.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề: Luận văn nghiên cứu giá trị di sản văn hóa dân ca Ví,
Giặm và những yếu tố ảnh hưởng đến việc khả năng khai thác DCVG phục vụ
phát triển du lịch.
- Phạm vi không gian : Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hóa của hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Do phạm vi ảnh hưởng của di sản khá rộng, nên
luận văn nàychỉ tập trung nghiên cứu du lịch dân ca Ví, Giặm phục vụ phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Nghệ An
- Phạm vi thời gian : Số liệu, tài liệu thu thập và thực trạng được xem xét
trong khoảng thời gian 05 năm trở lại đây (2013 – 2018).
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu chủ yếu của đề tài là thông qua các cơng trình nghiên cứu
về dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Ngồi ra cịn thơng qua sách, báo, những bài
viết có liên quan đến đề tài, cũng như trên các phương tiện truyền thông như
tivi, Internet,... Tư liệu thông qua những chuyến thực tế tại các làng dân ca
trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đặc biệt là nguồn tư liệu, thơng tin từ sở Văn hóa
thể thao Nghệ An, sở Du lịch Nghệ An, trung tâm bảo tồn và phát huy di sản
dân ca xứ Nghệ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, xử lý tư liệu
Luận văn thu thập thông tin từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực liên quan đến

hoạt động du lịch đối với di sản dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Trên cơ sở đó

7


tập hợp, phân loại, xử lý số liệu để sử dụng trong luận văn, lấy đó làm cơ sở
đưa ra nhận định, đánh giá sao cho khách quan nhất.
Phương pháp phân tích
Đây là phương pháp chủ đạo, được sử dụng thường xuyên trong quá
trình nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp này nhằm đánh giá khoa học,
khách quan mối quan hệ giữa các yếu tố liên quan đến phát triển du lịch dân
ca như : tài nguyên du lịch, điều kiện hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch, nguồn
nhân lực, hiệu quả kinh doanh,...
Phương pháp nghiên cứu thực địa
Phương pháp này giúp luận văn thu thập các tư liệu về quá trình ra đời
và tồn tại của dân ca Ví, Giặm, giá trị nội dung và nghệ thuật của dân ca Ví,
Giặm, thống kê về khách du lịch đến Nghệ An trong đó có khách du lịch văn
hóa Ví, Giặm; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại Nghệ An.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Để đưa ra giải pháp khai thác Ví, Giặm trong du lịch một cách thiết thực,
hiệu quả, tác giả sẽ tổ chức lấy ý kiến một số chuyên gia trong lĩnh vực văn
hóa là những người lâu năm làm cơng tác nghiên cứu sưu tầm Ví, Giặm và tổ
chức biểu diễn Ví, Giặm. Bên cạnh đó, lấy ý kiến chun gia trong lĩnh vực
du lịch là lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, là các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch, là các nhà quản lý tại khách sạn, tại các điểm du lịch có
biểu diễn Ví, Giặm.
6.Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể :
Chương 1. Di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh – Tài nguyên du lịch văn

hóa quan trọng
Chương 2. Thực trạng và khả năng khai thác di sản văn hóa Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh phục vụ phát triển du lịch
Chương 3. Giải pháp khai thác di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh phục
vụ phát triển du lịch

8


Chƣơng1
DI SẢN VĂN HĨA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH – TÀI NGUNDU LỊCH
VĂN HĨA QUAN TRỌNG

1.1.Vai trị của di sản văn hóa trong phát triển du lịch
1.1.1. Di sản văn hóa
Khái niệm di sản văn hóa có thể được xác định một cách thuận lợi từ
khái niệm văn hóa. Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm, cũng như định nghĩa
khác nhau về văn hóa.Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển
sách Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa
[31], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các
nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác
được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”[58]. Theo
định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh
vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật…F.Boas. Tylor định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản
ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá
nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân

trong mối quan hệ với mơi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người
khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với
nhau”[4, Tr.149]. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và
môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí
Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi

9


người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[42]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao
gồm tồn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu “‘Văn
hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”. [17, Tr.78]. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt
động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có
tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị
có tính nhân văn phổ qt, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản
sắc riêng của từng dân tộc.
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định
nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn
hóa. Tựu chung lại thì văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra. Cịn di sản, hiểu theo nghĩa thơng thường là những gì có

giá trị do con người để lại cho đời sau. Như vậy, di sản văn hóa chính là
những giá trị vật chất và giá trị tinh thần còn lưu giữ lại cho đến ngày nay.
Bất cứ một dân tộc nào cũng có di sản văn hóa riêng, đặc trưng cho bản
sắc của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam cũng vậy „„Di sản văn hóa bao gồm di
sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam‟‟[45]. Theo cách
tiếp cận giá trị văn hóa này, ta thấy di sản văn hóa bao gồm hầu hết các giá trị

10


văn hóa do thiên nhiên và con người tạo nên trong quá khứ. Nó là phần tinh
túy nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng loạt hoạt động sáng tạo của con
người từ đời này qua đời khác. Di sản văn hóa là những giá trị văn hóa đặc
biệt bền vững vì nó phải được thẩm định một cách khắt khe bằng sự thừa
nhận của cả cộng đồng người
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể
Trong Cơng ước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đã được Đại hội
đồng Unesco nhất trí thơng qua vào ngày 17/10/2003, và có hiệu lực từ tháng
4/2006: “Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức
thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những cơng cụ, đồ vật,
đồ tạo tác và các khơng gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một
phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ
khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người
khơng ngừng tái tạođể thích nghi với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa
cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý
thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa
dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người” [ Điều 2, Mục I, công ước

UNESCO, 2003]”.
Theo luật di sản văn hóa được sửa đổi bổ sung một số điều tại Quốc hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thơng qua
ngày 18 tháng 6 năm 2009 [45, Tr.4,5] “Di sản văn hóa phi vật thể là sản
phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
không ngừng được tái tạo và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”.
Ở Việt Nam, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được coi là hai bộ
phận hữu cơ cấu thành kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Nếu như di sản văn

11


hóa vật thể là những giá trị hữu hình, tồn tại dưới dạng vật chất, chứa đựng
những hồi ức sống động của loài người, là bằng chứng vật chất của các nền
văn hóa, văn minh nhân loại; thì di sản văn hóa phi vật thể là những giá trị vơ
hình, được lưu truyền và biểu hiện bằng hình thức truyền miệng, truyền nghề
và các dạng bí quyết nghề nghiệp khác. Khi nghiên cứu di sản văn hoá cần
phải đặt di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể trong mối quan hệ
tương tác không thể tách rời, như vậy mới hiểu rõ được những giá trị vật chất
và giá trị tinh thần của di sản văn hố đối với đời sống xã hội.
1.1.3. Vai trị của di sản trong phát triển du lịch
Thực tế minh chứng di sản văn hóa tạo sức hấp dẫn vơ cùng tận cho điểm
đến du lịch. Di sản văn hóa là động cơ, là duyên cớ thôi thúc chuyến đi, là môi
trường tương tác và là những trải nghiệm đáng giá cho du khách, qua đó trở
thành tài nguyên, nguồn lực chiến lược cho phát triển du lịch.
Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch: Di sản văn hóa là tài nguyên du
lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách tham
quan trong nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành du

lịch xem đây là nền tảng, trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế du lịch bên
cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và nguồn
nhân lực.
Di sản văn hóa chính là nguồn tài ngun du lịch văn hóa, góp phần
quan trọng tạo nên sản phẩm du lịch đặc thù.Khơng phải tất cả các di sản văn
hóa đều trở thành tài nguyên du lịch văn hóa. Việc hình thành các sản phẩm
du lịch văn hóa như thế nào là phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm, tính chất, thể
loại di sản văn hóa đó; hay nói cách khác, sản phẩm du lịch có hấp dẫn khách
du lịch hay khơng thì chính di sản văn hóa đóng vai trị quyết định. Di sản văn
hóa tạo nên sự phong phú, đa dạng của sản phẩm du lịch.
Di sản văn hóa góp phần quan trọng quyết định các thương hiệu, hình
ảnh du lịch. Hiện tại, hầu hết các địa phương đều xác định thế mạnh của các

12


di sản văn hóa để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng và nhiều nơi đã
tạo thành những thương hiệu nổi tiếng: Khu vực Miền Trung có thương hiệu
“Con đường di sản”; Quảng Ninh có lễ hội đường phố Các-na-van Hạ
Long;... Các tua, tuyến du lịch lên các tỉnh vùng cao Tây Bắc, Việt Bắc cũng
ngày càng phát triển.
Việt Nam có một nền văn hóa đa dạng cùng với hệ thống di sản vật thể,
phi vật thể phong phú. Đó chính là lợi thế để thu hút du khách, đặc biệt là du
khách nước ngồi, bởi họ ln coi trọng yếu tố văn hóa trong hành trình khám
phá vẻ đẹp của những miền đất mới.
1.1.4. Nguyên tắc và phương pháp khai thác di sản văn hóa trong phát triển
du lịch
Các di sản văn hóa là các di sản của thời gian, được truyền lại qua nhiều
thế hệ và trong nhiều hồn cảnh khác nhau. Di sản văn hóa cần được bảo vệ
vì nó là một thành tố quan trọng trong việc hình thành nên bản sắc văn hóa

của một cộng đồng. Khi gắn kết các di sản với hoạt động du lịch khơng thể
chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt là nguồn lợi kinh tế mà khai thác cạn kiệt các
di sản văn hóa mà bỏ qua việc khai thác kết hợp với đầu tư cho hoạt động bảo
tồn và cho bản thân các di sản. Phát triển du lịch bền vững cũng được coi là
nguyên tắc chung cần đảm bảo trong khai thác di sản văn hóa.
Khai thác di sản trong phát triển du lịch cần phải có sự tham gia của
cộng đồng dân cư địa phương. Di sản văn hóa dù hình thức nào đi chăng nữa
cũng là niềm tự hào của người dân địa phương, nó gắn liền với cộng đồng dân
cư bản địa. Sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương trong kinh doanh
du lịch là rất quan trọng, nó được thể hiện ở việc cư dân địa phương được
tham gia vào các hoạt động kinh doanh du lịch như cung cấp các dịch vụ ăn
uống, lưu trú, bán hàng lưu niệm, các sản vật địa phương cho du khách để thu
lợi nhuận và được chia sẻ các quyền lợi khác từ hoạt động du lịch. Từ đó

13


cưdân địa phương có ý thức bảo vệ các di sản văn hóa và có trách nhiệm bảo
tồn các di sản văn hóa hơn.
Cần tuân thủ triệt để các quy định quốc tế và trong nước trong việc khai
thác di sản, tránh tác động nhiều vào di sản và cố gắng duy trì bảo quản
nguyên trạng di sản như khi phát hiện là tốt nhất. Hiện nay việc không tuân
thủ các việc trùng tu và phục dựng tùy tiện, thiếu khoa học hoặc làm biến
dạng, đánh mất tính nguyên gốc của các di sản. Những di tích cịn giữ được
nhiều nét nguyên bản thường có giá trị hấp dẫn nhiều hơn đối với du khách.
Cần quan tâm xây dựng nội dung giới thiệu giá trị của di sản, bảo vệ,
tôn tạo di sản phải nhằm mục đích giới thiệu di sản đến với công chúng. Do
vậy cần chuẩn bị tốt nội dung giới thiệu về di sản. Đây cũng là yêu cầu của
phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên hiện nay, việc chuẩn bị nội dung giới
thiệu về giá trị các di sản cho khách du lịch vẫn còn nhiều bất cập. Có nhiều

bản giới thiệu thay vì diễn giải, phân tích thì lại nặng về phần ca ngợi chung
chung. Những bản giới thiệu như thế thường không đem lại sự hài lịng cho
du khách.
Phải có quy hoạch khơng gian khu di sản tạo những điều kiện cần thiết
về hạ tầng để du khách có thể tham quan, thưởng ngoạn. Thông thường không
gian nguyên thủy của các di sản chưa có sẵn các cơ sở hạ tầng và cơ sở vật
chất cần thiết có thể đáp ứng yêu cầu của hoạt động du lịch. Do vậy, việc xây
dựng quy hoạch, thiết kế cẩn thận phải được coi là một nội dung quan trọng
của công tác khai thác trong phát triển du lịch.
Bảo vệ mơi trường khu vực di tích di sản là yêu cầu quan trọng trong
phát triển du lịch. Môi trường ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn. Môi trường du lịch tự
nhiên bao gồm mơi trường nước, mơi trường khơng khí, mơi trường đất, tình
hình nước thải, chất thải rắn. Mơi trường xã hội nhân văn trong khu di tích, di
sản thể hiện qua tình hình quản lý quản lý khu di tích, tình hình trật tự an ninh

14


khu vực. Môi trường tự nhiên bị ô nhiễm, cũng như mơi trường văn hóa xã
hội thiếu lành mạnh sẽ làm giảm tính tính hấp dẫn của di sản đối với khách du
lịch và đương nhiên làm giảm tính hiệu quả trong khai thác phát triển du lịch.
Tóm lại, đối với các di sản văn hóa hiện nay việc bảo tồn tôn tạo và phát
huy giá trị các di sản cần được quan tâm đúng mức. Phát triển du lịch là yêu
cầu tự nhiên nhằm phát huy giá trị di sản. Tuy nhiên, phát triển du lịch cần
tuân thủ những ngun tắc về bảo tồn.
1.2. Di sản văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
- Về têngọi dân ca xứ Nghệ :
Xứ Nghệ là tên gọi của vùng Châu Hoan cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà

Tĩnh), có từ thời nhà Hậu Lê. Vào năm 1490 (niện hiệu Hồng Đức thứ 21)
vua Lê Thánh Tông, đã đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi
tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như :
Xứ Kinh Bắc, xứ Nam Sơn, xứ Đơng, xứ Đồi, xứ Thanh, xứ Lạng, xứ
Huế,…
Trải qua bao lần tách nhập, Nghệ An và Hà Tĩnh trở thành 2 tỉnh như
hiện nay nhưng trong lịch sử lại là „„xứ‟‟ có chung một vùng văn hóa gọi là
văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng và sông Lam ( mặc dù
núi Hồng Lĩnh nằm gọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa
Nghệ An và Hà Tĩnh). Trung tâm của văn minh xứ Nghệ nằm ở hai bên dịng
sơng Lam là phủ Đức Quang và phủ An Đô khi xưa (tức là các huyện Hương
Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các
huyện Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn của Nghệ An ngày nay).
Ngày nay, khái niệm „„xứ Nghệ‟‟ khơng cịn mang nặng tính chất địa
giới hành chính mà dùng để nói về văn hóa của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh,
gọi chung là văn hóa xứ Nghệ. Vì lẽ đó, di sản dân ca Ví, Giặm là kho tàng
văn hóa của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, được gọi là dân ca ví,
giặm xứ Nghệ.

15


Tên gọi của di sản được cộng đồng các làng/thơn/xóm/khu dân cư và các
câu lạc bộ gọi theo nhiều cách khác nhau. Phổ thông nhất là các tên gọi sau:
Dân ca Ví, Giặm; Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh; Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ;
Hát đị đưa sơng La; Hát ví phường vải; Hát giao duyên Ví, Giặm;
- Vài nét về quá trình hình thành và phát triển dân ca ví – giặm
Nghệ Tĩnh
Ví – Giặm là sản phẩm của cộng đồng người Việt ở xứ Nghệ, sáng tạo
nên trong quá trình sinh hoạt lao động sản xuất, mang đậm bản sắc địa

phương, là „„thổ sản‟‟ tinh thần phản ánh trung thành nhiều khía cạnh độc đáo
của người dân xứ Nghệ: Chịu cực, chịu khổ, nhẫn nãi, vừa giàu nghị lực, vừa
chan chứa tình người.
Cũng bởi xuất phát từ trong nhân dân lao động mà việc xác định dân ca
Ví, Giặm xứ Nghệ ra đời từ thế kỷ nào cũng khó chính xác. Theo nhiều nguồn
tư liệu để lại, căn cứ vào một ít bài hát giặm phản ánh tình hình thời Lê –
Trịnh mà các nhà nghiên cứu đã sưu tầm được ở Hà Tĩnh, từ thế kỷ XVII –
XVIII, DCVG xứ Nghệ đã phát triển và trở thành hình thức trình diễn dân
gian phổ biến trong quần chúng nhân dân [7,Tr.299]. Như vậy, quãng thời
gian bắt đầu cho đến khi phát triển ắt phải trải từ rất lâu trong lịch sử. Qua bao
thăng trầm, dân ca có sự biến thiên, khơng ngừng đổi mới, hồn thiện, phù
hợp với đương đại nhưng vẫn không làm mất đi hơi thở, cốt cách của người
Nghệ trong đó.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, phong trào sinh hoạt hát dân ca
diễn ra khá sơi nổi, lúc đó các nghề thủ cơng cịn đang phát triển, cịn chỗ
khơng gian sinh hoạt văn hóa cho hát ví, giặm. Sau khi nhà Nguyễn ký hiệp
định nhường 3 tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp cũng là lúc xã hội Việt
Nam có nhiều biến động, trước hết là phong trào Văn Thân, rồi đến phong
trào Cần Vương. Trong giai đoạn này, ở Nghệ Tĩnh, xuất hiện những bài dân
ca ví – giặm cách mạng phản ánh lại các cuộc đấu tranh của nhân dân.

16


×