Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm qua việc giảng dạy học phần thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.65 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HUỲNH THỊ TIẾN

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY BIỆN CHỨNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM QUA VIỆC
GIẢNG DẠY HỌC PHẦN "THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƢƠNG
PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN"

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HUỲNH THỊ TIẾN

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY BIỆN CHỨNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM QUA VIỆC
GIẢNG DẠY HỌC PHẦN "THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƢƠNG
PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Chuyên ngành

: Triết học



Mã số

: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện. Các
số liệu, kết quả phân tích trong luận văn là hồn tồn trung thực, bảo đảm tính
khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tơi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Huỳnh Thị Tiến


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn đã hướng dẫn em
hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, em cũng chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của các thầy giáo,
cô giáo trong Khoa Triết học Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội và tất cả người thân, bạn bè đã ln sát cánh giúp đỡ em trong suốt q trình
học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn.
Tác giả


Huỳnh Thị Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………....…1
CHƢƠNG 1. TƢ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÕ CỦA GIẢNG
DẠY HỌC PHẦN THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
TƢ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ
PHẠM.................................….........……………………….……............................7
1.1. Năng lực tƣ duy biện chứng và sự cần thiết nâng cao nó ở sinh
viên cao đẳng Sƣ phạm………..………….………………………………..….....7
1.1.1. Tư duy biện chứng và năng lực tư duy biện chứng.........................7
1.1.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các
trường cao đẳng sư phạm........................................................................................13
1.2. Các yếu tố tác động và vai trò của giảng dạy học phần Thế giới quan
và phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với nâng cao
năng lực tƣ duy biện chứng của sinh viên các trƣờng Cao đẳng Sƣ
phạm……………………………………………………………………………...22
1.2.1. Một số yếu tố tác động đến nâng cao năng lực tư duy biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm......................................................22
1.2.2. Vai trò của giảng dạy học phần đối với việc xây dựng, bồi dưỡng
năng lực tư duy biện chứng ở sinh viên Cao đẳng Sư phạm.................................34
CHƢƠNG 2. GIẢNG DẠY HỌC PHẦN THẾ GIỚI QUAN VÀ
PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI
VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN
CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP......................................................................................................................46



2.1. Thực trạng giảng dạy học phần Thế giới quan và phƣơng pháp luận
triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tƣ duy biện
chứng cho sinh viên Cao đẳng Sƣ phạm ………………………….....................46
2.1.1. Những thành tựu đạt được……………………………......................46
2.1.2. Những mặt còn hạn chế…………..………………………………......57
2.1.3. Những vấn đề đặt ra……………………………...............................65
2.2. Những giải pháp chủ yếu trong giảng dạy học phần Thế giới quan và
phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm nâng cao năng
lực tƣ duy biện chứng cho sinh viên các trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm...............67
2.2.1. Xác đinh rõ vị trí, vai trò của học phần “Thế giới quan và phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” trong hệ thống các môn học......67
2.2.2. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy…………..………....…..70
2.2.3. Phát huy vai trò của sinh viên các trường cao đẳng Sư phạm trong
việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng qua học tập học phần “Thế giới quan và
phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin”….……………..............81
KẾT LUẬN…………………………………………………………....…..86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………….......88
PHỤ LỤC……………………………………………………………….....95


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế ở nước ta
hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao khơng chỉ có chun mơn,
nghiệp vụ nghề nghiệp vững vàng mà cịn phải có năng lực phân tích, sáng tạo phục vụ cơng việc
của mình, đáp ứng các yêu cầu của giao lưu, hợp tác khu vực và thế giới. Phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn vậy, nguồn nhân lực đó cần phải
được chuẩn bị, đào tạo từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho
đất nước là nhiệm vụ của toàn xã hội, nhưng trước hết là nhiệm vụ của ngành giáo dục và đào tạo,

của đội ngũ các nhà giáo. Vì thế, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định:
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và là
động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [21].
Để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện nhằm trở thành những người giáo
viên - lực lượng nòng cốt, quyết định cho sự nghiệp “trồng người”, trực tiếp đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, sinh viên Sư phạm cần được trang bị về mọi mặt, đặc biệt
là tư duy biện chứng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sinh viên Sư phạm nói riêng và sinh
viên Việt Nam nói chung chiếm lĩnh tri thức khoa học, giáo dục họ trở thành những chủ
nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sinh viên Sư phạm hiện nay bộc
lộ khá rõ sự yếu kém về tư duy biện chứng, do đó, việc tiếp nhận, rèn luyện chuyên môn
nghiệp vụ chưa cao.
Nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như di truyền, q trình học tập, rèn luyện, mơi
trường văn hóa..., trong đó giảng dạy triết học nói riêng và giảng dạy học phần Thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc giảng dạy học phần này trong các trường cao
đẳng, đại học hiện nay cịn có nhiều hạn chế, chưa thực sự phát huy được vai trò của bản thân môn
học giúp nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên.

1


Do đó, nghiên cứu tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng, vai trò của việc giảng
dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên, chỉ ra thực trạng và những giải pháp
góp phần nâng cao tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Sư phạm trở nên đặc biệt cần thiết.
Đây là vấn đề quan trọng trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo nói chung và đổi mới giảng dạy
các mơn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng, đại học nói
riêng. Để góp phần nhận thức và khắc phục những hạn chế đó, tơi chọn đề tài: Nâng cao năng lực
tƣ duy biện chứng cho sinh viên các trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm qua việc giảng dạy học phần

“Thế giới quan và phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư duy, tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng, đã và đang được nhiều tác
giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và được công bố trên các sách, báo, luận văn thạc sĩ,
tiến sĩ trong và ngoài nước.
Trên thế giới nhiều tác giả đề cập tới vấn đề tư duy. Chẳng hạn M.M. Rơdentan (1960) khi
phân tích về vị trí của lơgíc học biện chứng trong cuốn sách Ngun lý lơgíc biện chứng [87] và
Những vấn đề về phép biện chứng trong bộ “Tư bản” của Mác [88] đã cho rằng, tư duy là công cụ
mạnh mẽ của con người dùng để nhận thức và cải tạo thế giới. E.V. Ilencov (1974) là tác giả đÃ
dành sự quan tâm đặc biệt và có công lớn trong nghiờn cu khái niệm t- duy” . Trong
cn L«gÝc häc biƯn chøng [46], «ng đà trình bày hệ vấn đề lôgíc biện chứng, khảo sát
lịch sử phát triển đối t-ợng của khoa học lôgíc trong suốt tiến trình lịch sử thông qua
những nhà triết học tiêu biểu. Vấn đề t- duy đ-ợc ông vạch thảo trong Bút kí 8: Cách
hiểu duy vật về t- duy nh- là đối t-ợng của khoa học lôgíc, nh- là cơ sở để tiếp cận các
vấn đề khác của lôgíc học. Bởi theo Ilencov: chính trên con đ-ờng phát triển của lôgíc
học nổi lên vấn đề bản chất của t- duy con ng-ời, vấn đề cái t- t-ởng [46, 324 - 325].
Tác giả đà đ-a ra những nhận định chung nhất, có tính gợi mở vấn đề nh-ng vô
cùng sâu sắc về bản chất, nguồn gốc, sự vận động, phát triển của t- duy trong đời sống
con ng-ời trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan niệm của Hêghen về t- duy, trên cơ sở
nghiên cứu, ứng dụng Lôgíc học viết hoa - T- bản của C.Mác, và do đó, đà đề xuÊt
2


những quan niệm mang tính cách mạng về t- duy” . Cùng chủ đề loại này có thể kể đến các
cơng trình của Nguyễn Trọng Chuẩn và Đỗ Minh Hợp (1999) trong cuốn sách chuyên khảo Vấn
đề tư duy trong triết học Hêghen [11] đã phân tích những hạt nhân hợp lý và hạn chế trong quan
điểm của Hêghen về tư duy. Những “hạt nhân hợp lý” đó thực sự là những tiền đề cho sự ra đời
của quan niệm Mác - Lênin sau này về tư duy khoa học. Cùng hai tác giả trên (2000) đã viết bài
tạp chí Ý nghĩa của phép biện chứng Hêghen [12], trong đó phân tích sâu sắc bản chất của phép

biện chứng của Hêghen và giá trị lịch sử của nó đối với sự ra đời của phép biện chứng duy vật
mácxít.
Trong nước ta, từ đổi mới đến nay, vấn đề tư duy, năng lực tư duy, tư duy lý luận đã và
đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau và đã được cơng
bố rộng rãi trên các tạp chí lý luận, xuất bản thành sách, tài liệu tham khảo. Cố Tổng bí thư Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh (1987) đã mở đầu bằng tác
phẩm Đổi mới tư duy và phong cách tư duy [59], kế đó là các tác giả Nguyễn Ngọc Long (1987)
với bài Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy [60]; tác giả Dương Phú Hiệp
(1987) với bài viết Quán triệt tư duy biện chứng duy vật là nội dung quan trọng của đổi mới tư duy
[31]... Các cơng trình này đã tập trung phân tích bản chất của tư duy và vai trò của việc phát triển
năng lực tư duy trong tình hình thực tiễn đổi mới đất nước. Nhiều tác giả đã tập trung khai thác,
phân tích những sai lầm trong tư duy của đội ngũ cán bộ nước ta như: bệnh kinh nghiệm, bệnh
giáo điều, bệnh tả khuynh... Đó là các tác giả Trần Văn Phòng (1994) với Luận án Tiến sĩ Bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội [79];
hay tác giả Lê Hữu Nghĩa (1997) có bài Phép biện chứng của cơng cuộc đổi mới ở nước ta [73].
Có thể kể tiếp các cơng trình như Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ [74] của Lê Hữu Nghĩa và Phạm Duy Hải (1998); Trần Thành (chủ biên, 2003), Tư
duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn [95]... Trong các tác phẩm
này, các tác giả đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ vấn đề tư duy, bản chất và đặc điểm chủ yếu
của tư duy khoa học cũng như một số đặc trưng của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách
mạng khoa học cơng nghệ.
Trên tạp chí Triết học và các tạp chí khác, có một số bài viết đề cập tới tư duy biện chứng,
các đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật, đổi mới phương pháp giảng dạy và nghiên cứu triết

3


học. Trong số các bài viết đó, phải kể đến các bài của tác giả Nguyễn Bá Dương (1991), Về đặc
trưng của tư duy biện chứng duy vật [16] và (2000), Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc [Luận án tiến sĩ Triết học]; Tác giả Nguyễn Ngọc Hà (1995), Phi mâu thuẫn có

phải bao giờ cũng là quy luật của tư duy đúng đắn [26] và (2000), Góp phần tìm hiểu các khái
niệm sự vật và thuộc tính [27]; Tác giả Vũ Văn Viên (1992) viết hai bài Rèn luyện nâng cao năng
lực tư duy khoa học cho sinh viên, học sinh [104] và Về thực chất tư duy khoa học hiện đại [105],
đến năm 2006 tác giả này tiếp có bài Tư duy lơgíc - một bộ phận hợp thành tư duy khoa học [106];
hay tác giả Trần Đình Thoả (2002) có bài Một số vấn đề tư duy biện chứng mácxít [99].
Nghiên cứu vấn đề phát triển tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận được nhiều tác giả
quan tâm công bố trên các bài viết, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ Triết học. Tác giả Hồ Bá
Thâm (1994) với Luận án tiến sĩ Triết học Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã hiện nay [93]; luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh
[100]; luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Bích Thuỷ (2001), Vai trị của tư duy biện chứng
đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta [98]; luận văn thạc sĩ triết học
của Nguyễn Đa Phúc (1997), Phát triển tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ở
nước ta hiện nay [80]; Dương Minh Đức (2002), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
lãnh đạo cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế Bắc Giang)” [25].
Nghiên cứu về tư duy, năng lực tư duy biện chứng, tư duy lơgíc cho học sinh, sinh viên
cũng đã được nhiều tác giả quan tâm. Nhiều bài viết, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ triết học đi
vào nghiên cứu vai trò của giảng dạy triết học với việc phát triển tư duy lý luận cho sinh viên. Điển
hình ở đây là các tác giả Nguyễn Xuân Tạo (1998), Rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho sinh viên trong quá trình dạy học [90]; Trần Viết Quang (2008) với luận án Triết học với việc
xây dựng năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên sư phạm ở nước ta hiện nay [81] là cơng trình
gần hơn cả với chủ đề của luận văn này, nhưng thời kỳ tác giả viết và bảo vệ luận án môn triết học
vẫn là môn học chưa bị sáp nhập trong thành phần của môn Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
– Lênin, nên có những luận điểm ở đó đã bị vượt qua; khá gần với hệ vấn đề tư duy biện chứng

4


dành cho lứa tuổi đến trường được xét đến trong bài báo của Nguyễn Thanh Hưng (2004), Phát
triển tư duy biện chứng thơng qua dạy học Hình học ở trường trung học phổ thông [43].

Qua khảo sát các tài liệu đã có, chúng tơi thấy rằng, dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về các vấn đề tư duy, tư duy biện chứng... nhưng thực chất, biểu hiện, đặc trưng và những giải
pháp phát triển năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên, đặc biệt là vấn đề nâng cao năng lực tư
duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm qua việc giảng dạy học phần “Thế
giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” vẫn chưa được
nghiên cứu và cần phải làm sáng tỏ hơn trong giai đoạn hiện nay. Đây chính là nhiệm vụ mà luận
văn đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Luận văn làm rõ lý luận về tư duy, vai trò của giảng dạy học phần Thế
giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” của môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho
sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm; từ sự đánh giá thực trạng, luận văn đưa ra một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của việc giảng dạy học phần này trong việc nâng cao năng
lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm.
* Nhiệm vụ:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng, thực
chất của việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư
phạm.
Thứ hai, làm rõ vai trò của giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm.
Thứ ba, phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của việc giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao
đẳng Sư phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5



* Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự ảnh hưởng, tác động của giảng
dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin
đối với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm.
* Phạm vi nghiên cứu: luận văn đi sâu vào toàn bộ nội dung học phần Thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin (gọi tắt là học phần Triết
học) và khảo sát thực tế ở các trường Cao đẳng Sư phạm trên địa bàn Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
triết học Mác - Lênin, đặc biệt là những nguyên lý nhận thức luận và lơgíc biện chứng.
* Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
thống nhất phân tích - tổng hợp, thống nhất lịch sử - lơgíc, so sánh, khái qt hố, thống
kê, điều tra xã hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, luận văn góp phần chỉ ra vai trị của năng lực tư duy biện chứng đối với
sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm.
Thứ hai, luận văn làm rõ vai trò của việc giảng dạy học phần Thế giới quan và
phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tư duy
biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm.
Thứ ba, luận văn phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò của việc giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các
trường Cao đẳng Sư phạm.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những luận điểm và kết luận trong luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với vấn đề
nghiên cứu về tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng; góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong các trường Cao đẳng Sư phạm. Luận văn có thể làm tài liệu cho nghiên cứu,
học tập, và giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học
phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng.


6


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung luận văn gồm
2 chương, 4 tiết.

7


Chƣơng 1
TƢ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÕ GIẢNG DẠY HỌC PHẦN THẾ GIỚI
QUAN VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH
VIÊN CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM
1.1. Năng lực tƣ duy biện chứng và sự cần thiết nâng cao năng lực này ở
sinh viên cao đẳng Sƣ phạm
1.1.1. Tƣ duy biện chứng và năng lực tƣ duy biện chứng
* Tư duy biện chứng
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát, gián tiếp, tích cực
và sáng tạo về thế giới. Tư duy là sản phẩm của một dạng vật chất sống có tổ chức cao; được hình
thành trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư duy là hình thức phản ánh cao nhất,
đặc trưng nhất của con người. Nó là kết quả phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Triết học Mác Lênin chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội trong việc hình
thành, phát triển ý thức của con người. Ph.Ăngghen cho rằng: “Nếu người ta đặt câu hỏi tư duy, ý
thức là gì, chúng từ đâu đến thì người ta thấy chúng là sản phẩm của bộ óc con người” [4, 55].
Xét về bản chất, tư duy không chỉ là q trình phản ánh mang tính chủ quan, mà cịn là
một q trình sáng tạo. Tính sáng tạo là sự hình thành tri thức mới mang tính qui luật chi phối sự
phát triển của các sự vật. Trong quá trình nhận thức chân lý, chủ thể tư duy phải biết đặt ra các vấn
đề mới và huy động sáng tạo vốn tri thức đã có, bao gồm cả kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề

nghiệp, tri thức lý luận chung và sự am hiểu cần thiết để giải quyết chúng bằng phương pháp thích
hợp đem lại hiệu quả cao. Vốn tri thức này có vai trị quan trọng trong q trình nhận thức, thiếu
nó chủ thể sẽ khơng có tư duy sáng tạo. Ngồi ra, sự tham gia tích cực của tưởng tượng và trực
giác trong sự sáng tạo của tư duy ở trình độ tư duy lý luận khoa học.
Tư duy khơng chỉ là sự phản ánh mang tính chủ quan, tính sáng tạo, mà cịn mang bản chất
xã hội bởi tư duy có quan hệ chặt chẽ với lao động và ngôn ngữ. Lao động và thực tiễn xã hội là cơ
sở chủ yếu và trực tiếp nhất quyết định sự hình thành và phát triển tư duy con người. Chính sự vận

8


động và phát triển của nhu cầu thực tiễn - xã hội đã đặt ra những nhu cầu và động lực cho sự phát
triển của tư duy. Khi tư duy xem xét về giới tự nhiên, về lịch sử xã hội đã đem lại cho con người sự
hiểu biết phong phú, đa dạng, phức tạp về sự vận động, biến đổi, phát sinh và tiêu vong của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư duy trừu tượng hướng vào việc tìm ra chân lý, nắm
bắt những mối liên hệ khách quan, bản chất, phát hiện ra tính qui luật chi phối sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Qua tư duy trừu tượng mà nhận thức của con người đi từ sự hiểu biết
ngẫu nhiên, bề ngồi đến quan hệ có tính tất nhiên, bản chất của các sự vật, hiện tượng. Tư duy
giúp chúng ta nhận thức sự vật trong chỉnh thể thống nhất chứ không dừng lại ở sự hiểu biết riêng
lẻ, tách rời các bộ phận của sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, tư duy cịn bị quy định bởi tính chất và
trình độ của phương thức sản xuất của mỗi dân tộc, mỗi thời đại và là kết quả của cộng đồng, của
tập thể lao động trong xã hội loài người. Do vậy, nghiên cứu tư duy không thể xem nhẹ bản chất xã
hội của nó mà phải dựa trên cơ sở kinh tế, văn hoá đặc thù của chế độ xã hội.
Tư duy hình thành, phát triển trong quá trình nhận thức và sự hoàn thiện của bộ não người;
cùng với sự phát triển của thực tiễn, tư duy cũng có q trình phát triển riêng của mình. Q trình
đó đi từ thấp đến cao theo các quy luật khách quan của nhận thức. Nếu ở thời nguyên thủy, tư duy
lồi người ở trình độ sơ khai nhất, và được thể hiện dưới các hình thức tư duy như tư duy hoang
đường thể hiện trong các huyền thoại, tư duy đạo đức, thẩm mỹ, thì thời cổ đại, tư duy con người
đã đạt trình độ mới, cao hơn về chất so với tư duy thời nguyên thủy đó là tư duy triết học. Cùng với
sự xuất hiện của triết học, tư duy triết học với hai phương pháp tư duy đối lập đó là phương pháp

siêu hình và phương pháp biện chứng đã ra đời, đánh dấu một phương thức tư duy mới của con
người trong nghiên cứu và khám phá thế giới.
Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình diễn ra trong suốt
quá trình phát triển của tư duy triết học. Phương pháp tư duy siêu hình xem xét, nghiên cứu sự vật
trong trạng thái cô đọng, tĩnh tại, biệt lập, không vận động, không phát triển với lối tư duy cứng
nhắc “chỉ thấy sự vật riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ
nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật mà khơng nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự
vật ấy chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy
cây mà không thấy rừng” [4, 37]. Phương pháp tư duy siêu hình chưa đáp ứng được những địi
hỏi của nhận thức, nó bị phương pháp tư duy biện chứng phủ định và thay thế.
9


Phương pháp tư duy biện chứng với lối tư duy linh hoạt, mềm dẻo trong nghiên cứu thế
giới, không chỉ thấy sự vật trong trạng thái tĩnh tại mà còn thấy sự vật trong trạng thái vận động,
biến đổi, trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng, trong sự phát triển và
tiêu vong của sự vật. Khẳng định tính đúng đắn của tư duy biện chứng, Ph.Ăngghen đã nêu một
cách vắn tắt cái cốt lõi trong quan điểm biện chứng: “Phương pháp biện chứng là phương pháp mà
điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối
liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng” [4, 38].
Cùng với sự phát triển của khoa học cũng như của thực tiễn xã hội, phương pháp tư duy
biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn với các hình thức khác nhau. Thứ nhất, phép biện chứng tự
phát thời cổ đại với những kiến giải mang tính trực quan, cảm tính về sự sinh thành, biến đổi của
vạn vật. Tiêu biểu cho phương pháp tư duy này là quan niệm của các nhà triết học Trung Quốc thể
hiện trong Đạo Lão hay trong thuyết Âm - Dương, Ngũ hành; ở Hy Lạp cổ đại như Hêraclít,
Xơcrát, Aritxtốt... Thứ hai, phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện khi
phương pháp siêu hình khơng cịn đáp ứng được u cầu của nhận thức khoa học thời phục hưng
và cận đại. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong nền triết học cổ điển Đức với sự khởi đầu là
Cantơ và phát triển đến đỉnh cao trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Theo Ăngghen,

công lao lớn nhất của Hêghen là “đã quay trở lại phép biện chứng, coi đó là hình thức cao nhất của
tư duy” [4, 34].
Dựa trên việc khái quát những thành quả mới nhất của khoa học đương thời, cũng
như thực tiễn lịch sử, trên tinh thần kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của các nhà triết
học tiền bối, mà trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây
dựng phép biện chứng duy vật. Sau này được V.I. Lênin bổ sung, phát triển làm cho phép
biện chứng duy vật của Mác trở thành “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hồn
bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện” [4, 53].
Như vậy, có thể khẳng định, tư duy biện chứng được thể hiện trong triết học Mác Lênin là tư duy biện chứng duy vật. Nó là kết quả của sự phát triển tư duy qua các giai
đoạn phát triển của xã hội. Đây là hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng, là
đỉnh cao của tư duy biện chứng. Do đó, tư duy biện chứng cũng đòi hỏi phải tuân thủ các
10


nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng, như nguyên tắc toàn diện,
nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử cụ thể, xem xét sự vật trong tính thống nhất giữa
lịch sử và lơgíc, đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Nói riêng, Tư duy biện chứng duy vật mác xít là loại hình tư duy mà nhờ đó chủ
thể khơng chỉ phản ánh những mối liên hệ, sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan mà còn phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn tri thức khái
niệm, phạm trù, quy luật và những phương pháp luận của phép biện chứng duy vật vào
nhận thức và hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Tư duy biện chứng duy vật mácxít là sự
thống nhất giữa nội dung và phương pháp tư duy nên để có tư duy biện chứng duy vật mác
xít, chủ thể nhận thức phải nắm vững, vận dụng linh hoạt những nguyên lý, qui luật, phạm trù
của phép biện chứng duy vật, các nguyên tắc, các phạm trù của lơgíc biện chứng để giải quyết
tốt những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Khác với tư duy siêu hình, tư duy biện chứng duy
vật mác xít phản ánh các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phong phú, đa dạng, giữa các
yếu tố, các bộ phận tạo nên sự vận động, biến đổi và chuyển hóa khơng ngừng.
* Năng lực tư duy biện chứng
Năng lực tư duy: Theo Hoàng Phê, trong Từ điển tiếng Việt, năng lực là “khả năng, điều

kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó ở mức độ cao, hoặc năng
lực được hiểu là những phẩm chất của con người tạo khả năng hồn thành có kết quả một quá trình
hoạt động nhất định” [78, 639]. Hiểu theo nghĩa hẹp thì, năng lực là tổng hợp những thuộc tính
độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm
đảm bảo hồn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy. Còn theo nghĩa khái quát, rộng hơn
thì năng lực là tồn bộ những đặc tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện
cho hoạt động sống của cá thể; hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là tồn bộ những đặc tính tâm
lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất định được
hình thành trong lịch sử.
Như vậy, khái niệm năng lực nói chung được hiểu: thứ nhất, là khả năng và điều kiện chủ
quan để hình thành một hoạt động nào đó của chủ thể. Thứ hai, năng lực bao gồm khả năng và
điều kiện tự nhiên sẵn có - cơ sở để hình thành hoạt động nhất định của chủ thể. Thứ ba, năng lực
là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý tạo cơ sở và khả năng hình thành một hoạt động xác
11


định của chủ thể. Theo chúng tôi, mỗi cá nhân cụ thể có rất nhiều năng lực tiềm ẩn và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: yếu tố tự nhiên, sinh học, gen di truyền, vai trò của bộ não... Bên cạnh đó, năng
lực cịn phụ thuộc vào mơi trường xã hội và điều kiện sống của con người.
Năng lực tự nhiên của con người phải được xã hội hố thơng qua môi trường xã hội và rèn
luyện trong thực tiễn thì mới phát huy tác dụng, nếu khơng sẽ bị thui chột. Khác với con người,
năng lực của loài vật là tổng hợp những bản năng loài được truyền lại thơng qua cơ chế di truyền,
chọn lọc tự nhiên, thói quen cá thể. Do vậy, cuộc sống bầy đàn, “cộng đồng” quần thể, điều kiện tự
nhiên là điều kiện tốt nhất để kích thích năng lực của chúng phát triển.
Năng lực của con người mang tính lịch sử, gắn liền với trình độ phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội, của hệ thống giáo dục tương ứng. Vì thế, mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì năng
lực tư duy được phát triển ở các trình độ nhau. Trong đời sống xã hội có những năng lực gắn liền
với tính đặc thù ở những cá thể riêng lẻ do năng khiếu bẩm sinh, di truyền tạo thành những ngành
nghề đặc biệt như hội họa, điêu khắc, âm nhạc nghệ thuật hoặc những ngành nghề tư duy khoa học
rất cao, nó chỉ có ở một số ít cá nhân, những nhà khoa học thiên tài, đầu ngành.

Năng lực là tổng hợp những khả năng vốn có của con người khi có những điều kiện thích
hợp nó sẽ phát huy sức mạnh. Năng lực tư duy với tư cách là một phạm trù triết học chiếm vị trí vơ
cùng quan trọng trong nhận thức khoa học. Kể từ đổi mới tới nay (1986) đã có nhiều nhà nghiên
cứu đề cập tới phạm trù năng lực tư duy dưới nhiều góc độ khác nhau, phần lớn đều coi đó là một
vấn đề quan trọng khi bàn về đổi mới tư duy ở nước ta. Giáo sư Nguyễn Ngọc Long đã bàn trực
tiếp về khái niệm năng lực tư duy với hàm ý nói về tác dụng cơ bản của năng lực tư duy. Nội hàm
của khái niệm năng lực tư duy bao gồm tổng hợp những phẩm chất trí tuệ, đáp ứng yêu cầu nhận
thức thế giới và bản thân con người, đảm bảo cho hành động sáng tạo của mình [xem: 60].
Nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ triết học cũng đề cập tới khái niệm năng lực tư duy ở
những góc độ khác nhau. Tác giả Hồ Bá Thâm cho rằng “Năng lực tư duy là tổng hợp những khả
năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng trừu tượng hố, khái qt hóa và xử lý tri thức. Trong quá trình
phản ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình huống thực tiễn nhất định” [94, 8].
Tác giả Nguyễn Đa Phúc coi năng lực tư duy “Là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý của con
người nhằm đáp ứng yêu cầu nhận thức và cải tạo thế giới trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử xã
hội nhất định” [80, 10-11]. Ở đây, tác giả đã đi từ khái niệm năng lực để định nghĩa khái niệm

12


năng lực tư duy và nhấn mạnh khả năng nhận thức, cải tạo thế giới của con người trong mỗi giai
đoạn lịch sử. Tác giả Dương Minh Đức lại coi năng lực tư duy “là khả năng sử dụng thành thạo,
nhuần nhuyễn cả nội dung và phương pháp tư duy phát hiện vấn đề và xây dựng được những
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó” [25, 32]. Tác giả tập trung làm rõ khái niệm năng lực tư
duy bao gồm năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả năng
sử dụng thành thạo cả nội dung, phương pháp tư duy trong quá trình nhận thức thể hiện qua các
khái niệm, phán đốn, suy luận. Những hình thức tư duy có mối liên hệ mật thiết khơng tách rời
nhau, thiếu nó tư duy trừu tượng khoa học khơng thể diễn ra.
Tổng hợp lại, chúng tôi cho rằng, năng lực tư duy là khả năng nắm bắt và vận dụng tri
thức vào cuộc sống của con người, là khả năng phản ánh ở trình độ cao bằng suy nghĩ, liên tưởng,
phát hiện và xử lý thơng tin trong những tình huống, những hồn cảnh cụ thể. Năng lực tư duy

khơng đơn giản chỉ dựa vào năng lực sinh lý, thần kinh của bộ não mà còn thể hiện trên hai lĩnh
vực nhận thức và thực tiễn. Tức là chủ thể vừa phải có năng lực khái qt hố những tri thức, vừa
phải cụ thể hoá thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để xử lý tốt những tình huống thực
tế. Các phương pháp, hình thức tư duy tạo thành cơ chế vận hành trong hoạt động nhận thức và
cũng là công cụ, phương thức để hiện thực năng lực tư duy. Trong tư duy thường sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống nhất lịch sử - lơgíc hoặc hình thức trừu
tượng hố, khái quát hoá, liên tưởng để đi sâu vào bản chất của sự vật, đây vừa là quy luật hoạt
động, vừa là công cụ của tư duy. Nếu xem xét năng lực tư duy ở góc độ này thì ta có thể hiểu một
cách khái quát, năng lực tư duy là lực lượng tinh thần đang nhận thức, là cơ chế đang vận động, là
sự tổng hợp của các quy luật tư duy trên cơ sở quy luật của đời sống hiện thực.
Mở rộng cách hiểu trên cho phù hợp với mục đích của luận văn, có thể hiểu Năng lực tư
duy biện chứng là khả năng nắm vững và vận dụng một cách chủ động, nhuyền nhuyễn, sáng tạo
phương pháp luận biện chứng duy vật cũng như các thao tác tư duy lơgíc nhằm phát hiện và giải
quyết hiệu quả những vẫn đề nhận thức và thực tiễn đang đặt ra. Năng lực tư duy biện chứng
được xem là năng lực tư duy phát triển ở trình độ cao nhất của tư duy, có vai trị quan trọng trong
q trình nhận thức thế giới và cải tạo thực tiễn của con người. Một mặt nó giúp chủ thể tư duy huy
động, sử dụng thành thạo tồn bộ trí lực để nhận thức bản chất, phương thức tồn tại của sự vật; mặt
khác, nó cụ thể hóa nhận thức đó để chỉ đạo hành động thực tiễn của con người.

13


Phát triển năng lực tư duy biện chứng đặc biệt cần thiết cho sinh viên - những người ở độ
tuổi cịn rất trẻ, có sức khỏe, niềm đam mê khoa học và tố chất thông minh, là lực lượng lao động
chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Mục đích của việc phát triển năng lực tư duy biện
chứng cho sinh viên cao đẳng sư phạm hiện nay là nhằm phát triển cho họ năng lực nhận thức và
vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, năng lực tư duy lơgíc, năng lực tổng kết thực tiễn
trong học tập, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ chuyên môn, tổng hợp tri thức đã có, sáng tạo ra tri
thức mới để trở thành nguồn lao động chất lượng cao đáp ứng các u cầu, địi hỏi của sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay ở các trường Cao đẳng Sư phạm việc phát triển

năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên được thực hiện chủ yếu thông qua các môn học, đặc biệt
là các môn khoa học Mác - Lênin, tuy nhiên, việc nhận thức đúng vị trí, vai trị, tầm quan trọng của
nó trong học tập và hoạt động nghề nghiệp của sinh viên cịn chưa đồng bộ, do đó, năng lực tư duy
biện chứng của sinh viên sư phạm còn nhiều hạn chế.
1.1.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực tƣ duy biện chứng cho sinh viên các
trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm
* Tính đặc thù của lao động sư phạm
Trong điều kiện hiện nay, những địi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, và hội nhập quốc tế, đã đặt con người vào vị trí trung tâm của các q trình đó. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, đóng vai trị
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với những
đặc điểm của quá trình hội nhập của Việt Nam, người lao động rất cần được trang bị một
năng lực tư duy biện chứng phát triển theo kịp với sự phát triển của thời đại để có thể
tranh thủ tốt các thời cơ và vượt qua được các thách thức, nguy cơ tiềm ẩn. Một mặt, đòi
hỏi tư duy của mỗi người phải có độ nhạy bén, mềm dẻo cao để nắm bắt thời cơ, đề ra
các quyết sách hợp lý; mặt khác phải có tính lơgíc cao, xác định chính xác hiệu quả kinh
tế của mỗi quyết sách và tính trước được các phương án cụ thể tối ưu để giải quyết các
vấn đề do q trình hội nhập đặt ra.
Trong cơng cuộc thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, giáo dục đóng vai trị
then chốt, điều này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và khẳng định. Do đó, hơn bao giờ
hết, chất lượng giáo dục cần phải được chú trọng. Một trong những yếu tố quan trọng

14


quyết định chất lượng giáo dục là đội ngũ giáo viên. Phải có một đội ngũ giáo viên có
năng lực chun mơn và nhiệt huyết nghề nghiệp mới có thể đảm đương được trọng trách
mà xã hội kỳ vọng, giao phó.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, BCHTƯ Ðảng khóa XI về "Ðổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã khẳng định vai trò
"quyết định chất lượng giáo dục" của đội ngũ nhà giáo. Ðiều này vừa thể hiện niềm tin
vừa thể hiện sự mong đợi rất nhiều từ Ðảng và Nhà nước đối với đội ngũ nhà giáo các
cấp trong công cuộc đổi mới giáo dục đang diễn ra quyết liệt.
Nhiệm vụ "đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" đang đặt lên vai đội ngũ nhà
giáo Việt Nam những yêu cầu mới với trách nhiệm lớn hơn trong dạy học và giáo dục.
Mỗi thầy giáo, cô giáo theo yêu cầu đổi mới không những phải là người giỏi về chun
mơn dạy học các mơn mình phụ trách, mà cịn phải là người có năng lực sư phạm, năng
lực giáo dục và truyền động lực học tập, tu dưỡng đạo đức nhân cách tới mỗi học sinh.
Bên cạnh đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, mỗi thầy giáo, cơ giáo cũng cần có
năng lực huy động và hợp tác rộng rãi hơn với đồng nghiệp, với cha mẹ học sinh, cộng
đồng và các tổ chức xã hội cùng tham gia hiệu quả vào các hoạt động giáo dục. Khơng
những thế, mỗi thầy cơ giáo cịn có trách nhiệm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của cộng đồng và tham gia rộng rãi các hoạt động ngồi nhà trường.
Vì vậy, việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới
được ngành giáo dục và đào tạo xác định là nhiệm vụ quan trọng, là khâu then chốt trong
công cuộc đổi mới giáo dục theo yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có năng lực
giáo dục, gương mẫu về đạo đức nhà giáo và trách nhiệm nghề nghiệp.
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trị quan trọng đối với việc xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực cho đất nước. Giáo dục không chỉ là điều kiện cần mà còn là điều kiện
quyết định đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trong hệ thống giáo dục của Việt Nam, giáo dục phổ thông có vị trí quan trọng.
Giáo dục phổ thơng được chia thành 3 cấp học: Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học
phổ thông. Trong nhà trường phổ thông, hoạt động chủ yếu là dạy học. Dạy học là quá

15


trình tác động qua lại giữa thầy và trị. Dạy là hoạt động của thầy nhằm tổ chức sự lĩnh
hội nội dung giáo dưỡng, giáo dục và chỉ đạo sự lĩnh hội đó. Học là hoạt động của trị

nhằm lĩnh hội nội dung giáo dưỡng và giáo dục. Hoạt động dạy học của người giáo viên
bao gồm công việc chuẩn bị (lập kế hoạch, soạn giáo án...); việc truyền đạt hay tổ chức
lĩnh hội nội dung; kiểm tra tiến trình và kết quả của hoạt động học để đảm bảo sự liên hệ
ngược từ học sinh đến giáo viên. Do đó, để đảm bảo thực hiện tốt hoạt động dạy học,
người giáo viên phải biết xác định rõ việc dạy ai (đối tượng giáo dục), dạy để làm gì
(mục tiêu giáo dục) và dạy như thế nào (phương pháp giáo dục).
Thứ nhất, về mục tiêu giáo dục phổ thông. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục
nước ta là “đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3, 5], nên mục tiêu của giáo dục phổ thông được
chia khá rõ theo từng cấp học. Trên cơ sở mục tiêu chung của giáo dục phổ thông “giúp
học sinh phát triển tồn diện về mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[3, 14], giáo dục phổ thông đã xác định mục tiêu cụ thể đối với từng cấp học. Nếu giáo
dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học trung học cơ sở thì giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn phổ thơng ở trình độ cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ
thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Mục tiêu của giáo dục trung
học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục
trung học cơ sở, hồn thiện học vấn phổ thơng và có những hiểu biết thơng thường về kỹ
thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát

16



triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động
[xem 61].
Đội ngũ giáo viên là lực lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện mục tiêu do yêu cầu
thực tiễn giáo dục đặt ra. Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng vô cùng vẻ vang
của những người làm công tác giáo dục. Hoạt động lao động của người giáo viên là lao
động đặc biệt, lao động thiết yếu của xã hội, góp phần nâng cao dân trí, chuẩn bị lực
lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Thứ hai, đối tượng của lao động sư phạm là con người, là thế hệ trẻ đang lớn lên,
đang trưởng thành và hồn thiện về nhân cách, thường có tuổi đời từ 6 - 18 tuổi. Tuy
nhiên, học sinh vừa là đối tượng nhưng đồng thời cũng vừa là chủ thể của hoạt động giáo
dục. Bởi vậy, kết quả của hoạt động giáo dục phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ qua lại
giữa người dạy và người học, giữa thầy và trò.
Do đó, người thầy đóng một vai trị quan trọng trong quá trình dạy học, từ việc xác
định mục tiêu, phương pháp và cách thức tổ chức dạy học. Trong quá trình giảng dạy,
thầy khơng nên trở thành người chỉ chuyển tải tri thức và rao giảng đạo đức cho trò. Thầy
phải biết tơn trọng tính chủ quan của trị, coi trọng chủ thể học tập là người học, coi trọng
việc tự giáo dục, tự thân vận động, độc lập suy nghĩ, rèn luyện óc sáng tạo của người học
để thực hiện mục đích lựa chọn và quyết định của mình. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
nhấn mạnh: “Trong nhà trường, điều quan trọng không phải là nhồi nhét một mớ kiến
thức hỗn loạn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học trò
phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương pháp
nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề. Ở nhà trường, điều
quan trọng chủ yếu khơng phải là rèn luyện trí nhớ mà là rèn luyện trí thơng minh” [24,
33].
Giáo dục thế giới hiện đại cũng đã nhấn mạnh rằng, một nền giáo dục chỉ hữu ích
khi nó đào tạo được những cơng dân có óc suy nghĩ độc lập. Do đó, trong quá trình thực
hiện hoạt động dạy và học, nhà giáo dục phải đưa đến cho người học thói quen tự học,
học thầy, học bạn, học trong đời sống hàng ngày, và phải coi đó là q trình liên tục tự


17


học, tự đào tạo, tự rèn luyện, giúp người học nhận thức sâu sắc rằng, không phải học để
chuẩn bị sống mà phải sống trong khi đang học.
Để quá trình giáo dục đạt được kết quả tối ưu, cả thầy và trị đều phải là cá nhân
có tính chủ thể. Quan hệ thầy - trị trong q trình giáo dục phải thật sự dân chủ, tôn trọng
và hợp tác lẫn nhau, phát huy được tiềm năng, trí thơng minh, khả năng sáng tạo của
người học đến mức tối đa. Ở đó, người học mới là trung tâm của các hoạt động giáo dục,
người thầy chỉ đóng vai trị như người khơi gợi, hướng dẫn. Quá trình học được diễn ra
một cách tự nhiên, thoải mái khơng có sự áp đặt hay gị ép.
Khơng giống với bất kỳ ngành nghề nào khác, sản phẩm của giáo dục không thể
bỏ đi, không tái sản xuất, sản phẩm của giáo dục phải là những con người được giáo dục,
có tri thức, phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, quan điểm, niềm tin, lý tưởng, ước mơ hoài
bão nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong... Do đó, các nhà giáo dục cho rằng, để
đạt được mục tiêu trên thì “nhà giáo dục trước hết cần phải được giáo dục”. Nếu sinh
viên Sư phạm được chuẩn bị thật tốt về thái độ, kỹ năng, vốn sống, đảm bảo những năng
lực cơ bản cần thiết thì người đó sẽ có được hành trang vững bước vào đời.
Dạy học là nghề cao quý và có những yêu cầu riêng, đòi hỏi mỗi người khi tham
gia đều phải được xác định rất cụ thể về sự mẫu mực "mơ phạm", sự cống hiến và cần có
sự nỗ lực, tận tụy, thậm chí hy sinh khơng mệt mỏi vì lợi ích cơng việc, cũng như vì
thành tựu của đối tượng phục vụ thay vì những lợi ích vật chất vị kỷ. Ðể có thể đáp ứng
yêu cầu của nghề sư phạm, trước hết cần phải có đạo đức nghề nghiệp tức là có tình u
nghề giáo, tâm huyết và sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục; có tình u với học
trị và sự xả thân "tất cả vì học sinh thân u". Sau nữa là ln tự hồn thiện và nâng cao
năng lực chun mơn, nghiệp vụ sư phạm và các năng lực theo những yêu cầu của chuẩn
nghề nghiệp để có thể đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn mới.
Để đạt được mục tiêu trên, bên cạnh những phẩm chất cơ bản về chính trị, đạo
đức, lối sống, kiến thức chuyên môn, phương pháp dạy học và các kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp, người giáo viên cần phải có năng lực tư duy biện chứng. Thực tế cho thấy, không

phải bất cứ sinh viên nào vào trường sư phạm, khoa sư phạm cũng đều là những sinh viên
giỏi, có năng lực tư duy tốt, có thiên hướng và năng lực sư phạm cao. Nhiều sinh viên lựa
chọn theo ngành sư phạm là do hoàn cảnh của bản thân, của gia đình hoặc xuất phát từ
18


u cầu địi hỏi thực tế của địa phương... Vì vậy, để nâng cao năng lực tư duy biện chứng
cho sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ mỗi sinh viên
mà còn là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường sư phạm.
* Vai trò của năng lực tư duy biện chứng đối với sinh viên Cao đẳng Sư phạm
Xuất phát từ tính đặc thù của lao động sư phạm, và mục tiêu của các nhà trường sư
phạm nên năng lực tư duy biện chứng có vai trị quan trọng nhưng cũng rất cụ thể đối với
sinh viên sư phạm trong quá trình học tập, rèn luyện.
Đối với hoạt động học tập của sinh viên nói chung, vai trị của năng lực tư duy
biện chứng khơng chỉ thể hiện ở sự tìm hiểu, phân tích, lý giải những vấn đề cụ thể của
các mơn học theo chun ngành đào tạo mà cịn thể hiện ở nhiều mặt khác như học tập để
nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong
nghề nghiệp; tham gia nghiên cứu khoa học; tìm hiểu và tham gia giải quyết các vấn đề
mà thực tiễn xã hội đặt ra. Thực tế cho thấy, để tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề cụ thể
của các môn học theo chuyên ngành đào tạo, cần đứng vững trên quan điểm duy vật, phải
biết nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp luận biện chứng duy vật. Do
đó, có thể khái quát vai trò năng lực tư duy biện chứng đối với sinh viên Cao đẳng Sư
phạm trên các điểm cơ bản sau.
Thứ nhất, năng lực tư duy biện chứng là cơ sở quan trọng để sinh viên nắm vững
phương pháp luận dạy học.
Để thực hiện được quá trình dạy học, người giáo viên khơng chỉ có phẩm chất đạo
đức tốt, có kiến thức khoa học cơ bản về một lĩnh vực chun mơn nhất định như Tốn,
Vật lý, Mỹ thuật... mà địi hỏi mỗi người phải có tri thức sư phạm. Nghiệp vụ sư phạm là
sự kết hợp giữa tri thức sư phạm và kỹ năng sư phạm. Nếu như tri thức sư phạm được
cung cấp cho sinh viên qua các môn học như: Tâm lý học, Giáo dục học, Phương pháp

giảng dạy... thì kỹ năng sư phạm được hình thành chủ yếu trong quá trình sinh viên tự rèn
luyện thông qua các hoạt động kiến tập, thực tập sư phạm...
Nhiệm vụ chủ yếu của đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sư phạm là trang bị cho sinh
viên phương pháp và phương pháp luận dạy học. Phương pháp luận dạy học được hiểu là
tổng hợp những cách thức, những phương pháp tìm tịi có ý nghĩa, những tư tưởng chỉ

19


×