Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.4 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÀI TẬP NHÓM

Đề tài: Tổng quan về Thị trường chứng khốn
Danh sách Nhóm 06:


MỤC LỤC
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng khốn

3

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng
khốn Thế giới

3

1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng
khoán Việt Nam
2. Khái niệm và đặc điểm của Thị trường chứng khoán

5
6

2.1 Khái niệm

6

2.2 Đặc điểm



6

3. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán

7

3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán

7

3.2 Nhà đầu tư chứng khoán

8

3.3 Người kinh doanh chứng khoán

9

3.4 Quản lý và giám sát thị trường

9

3.5 Các tổ chức phụ trợ khác

10

4. Các nguyên tắc hoạt động trên Thị trường chứng khoán

12


5. Phân loại Thị trường chứng khoán

13

5.1 Theo đối tượng giao dịch

13

5.2 Theo q trình lưu thơng chứng khốn

15

5.3 Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động

16

5.4 Theo thời hạn thanh tốn

18

6. Chức năng và vai trị của Thị trường chứng khoán
6.1 Các chức năng chủ yếu

18

6.2 Các vai trị chủ yếu

19


7. Các khía cạnh tiêu cực của Thị trường chứng khoán

2

18

20


1. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng khốn
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng khoán Thế
giới
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất
sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa
thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các
thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao
đổi các vật phẩm hàng hố. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó
tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện
hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành "thị trường" với việc họ thống
nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hồn chỉnh thành
những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia "thị
trường".
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ
điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi
da với một tiếng Pháp là "Bourse" tức là "mậu dịch thị trường" hay còn
gọi là "Sở giao dịch".
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo
biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được
chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và
giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và

về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được
gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác
cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và
chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì
vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường
khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị
trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khốn... với
đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham
gia trong đó.
Quá trình các giao dịch chứng khốn diễn ra và hình thành như vậy
một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các
nước Tây Âu và Bắc Mỹ.


Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả
khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận
lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển
từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khốn chính thức được
thành lập.
Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật,
các phương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải
tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất
lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để
truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp \/ói
máy vi tính sang sử dụng hồn tồn hệ thống giao dịch điện tử thay cho
thủ công trước kia.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một
sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875 – 1913,
thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng

trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ năm đen
tối " tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu
và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới
thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát
triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị
trường chứng khoán.
Thế giới điên đảo với "ngày thứ hai đen tối" do hệ thống thanh tốn
kém cỏi khơng đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng
khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó
cịn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau
gần hai năm mất lịng tin, thị trường chứng khốn Thế giới lại đi vào giai
đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như
vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới
sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác
nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khốn tồn cầu và cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên
160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các
nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 – 1970
vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á
như Trung quốc vào những năm 1980 – đầu năm 1990.


Tổng kết lại, lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng
khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một
cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về
sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị
trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can
thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của
công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được

ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau
này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả,
ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng
hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản
lý nghiêm ngặt của Nhà nước.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường chứng khoán Việt
Nam
Mở đầu bằng việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Việt
Nam vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, 2 năm
sau đó, thị trường chứng khốn Việt Nam chính thức được khai sinh khi
Nghị định số 48/CP của Chính phủ được ký vào ngày 11/07/1998.Ngay
trong ngày hơm đó, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán và sẽ đặt cơ sở tại TP.HCM và Hà Nội. Ngày
28/07/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khốn TP.HCM (TTGDCK
TP.HCM) đã chính thức đi vào hoạt động, thực hiện phiên giao dịch đầu
tiên với 2 mã cổ phiếu REE và SAM.Khơng lâu sau đó, Trung tâm Giao
dịch chứng khốn (TTGDCK) Hà Nội cũng chính thức ra mắt vào ngày
08/03/2005. Nếu như TTGDCK TP.HCM là nơi niêm yết giao dịch chứng
khốn của những cơng ty lớn, thì TTGDCK Hà Nội là nơi tập trung niêm
yết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong hơn 20 năm qua, thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua
khá nhiều biến động, nhưng cũng đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, qua
nhiều giai đoạn khác nhau.Giai đoạn từ 2000 – 2005 đánh dấu khởi đầu
của thị trường chứng khoán, hay còn được coi là giai đoạn chập chững tập
đi. Trong suốt giai đoạn này, vốn hóa thị trường chỉ đạt mức trên dưới 1%
GDP, gần như khơng có thay đổi gì nhiều.Tuy nhiên qua giai đoạn bắt đầu
từ năm 2006, khi Luật Chứng khốn được Quốc ban hành và chính thức
có hiệu lực từ đầu năm 2007, đã dần cải thiện những bất cập, xung đột với
các văn bản pháp lý khác, giúp thị trường chứng khốn Việt Nam có khả
năng hội nhập hơn với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.



Thị trường chứng khốn Việt Nam trở nên an tồn minh bạch hơn, tăng
khả năng quản lý giám sát cho các cơ quan quản lý nhà nước.Về quy mô thị
trường, năm 2006 đánh dấu bước nhảy vọt mạnh mẽ khi đạt 22,7% GDP, con số
thậm chí tiếp tục tăng mạnh tới mức trên 43% vào năm 2007.Tất nhiên “có lên
thì phải có xuống“, do ảnh hưởng của thị trường tài chính và nền kinh tế trong
nước và thế giới, năm 2008 là một năm “thị trường buồn” với mức vốn hóa thị
trường giảm mạnh, xuống cịn 18% GDP.Qua năm 2009, thị trường bắt đầu hồi
phục nhẹ với vốn hóa thị trường đạt 37,71% GDP. Đi kèm với sự phục hồi này là
sự gia tăng đáng kể của các công ty niêm yết trên thị trường. Và tính đến thời
điểm hiện tại, mức vốn hóa thị trường đã tăng thần tốc lên tới hơn 82% GDP, thể
hiện sự bùng nổ của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang và sẽ còn tiếp tục phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới, các nhà đầu tư hãy nắm bắt cơ hội để tham gia
vào thị trường trước khi chuyển qua giai đoạn bão hòa.
2. Khái niệm và đặc điểm của Thị trường chứng khoán
2.1 Khái niệm
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các giao dịch mua bán trao
đổi các loại chứng khoán. Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở
hữu của chứng khốn, và như vậy, thực chất đây là q trình vận động của tư
bản chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
TTCK không giống với các thị trường các hàng hóa thơng thường khác vì
hàng hóa của thị trường chứng khốn là loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu
về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể
nói, bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của
vốn đầu tư nào đó, giá cả của chứng khốn chứa đựng thơng tin về chi phí vốn
hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản
xuất và lưu thơng hàng hóa.
2.2 Đặc điểm

TTCK được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp vì người cần vốn,
người cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia vào thị trường và giữa họ không có
trung gian tài chính.
• Đặc điểm của thị trường chứng khoán cơ bản là một thị trường liên
tục. Sau khi các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.


Nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần ở thị trường thứ cấp. Thị
trường


chứng khốn đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán
của họ thành tiền mặt bất cứ lúc nào mà họ muốn.
• Là một thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người
tự do tham gia vào thị trường. Khơng hề có sự áp đặt giá cả trên thị
trường chứng khoán. Giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan hệ
cung và cầu giữa người bán, người mua.
• Đặc điểm giao dịch cơng khai giúp cho thị trường chứng khốn duy trì
tính minh bạch trong giao dịch tài chính. Vì tính minh bạch nên những
người tham gia đều nắm được thông tin về giá cả cổ phiếu đang được
giao dịch trên thị trường. Và những người tham gia có thể truy cập vào
những thơng tin tương tự giúp cho họ có thể giao dịch tự do, hiệu quả.
• Khả năng thanh khoản là một trong những đặc điểm của thị trường
chứng khoán, tạo nên sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán đối với
các nhà đầu tư. Việc kinh doanh tự do và minh bạch diễn ra trên thị
trường chứng khoán dựa trên nguồn cung – cầu. Bằng cách này, thì các
nhà đầu tư có thể chuyển đổi những cổ phần họ sở hữu thành tiền mặt,
cũng như các loại chứng khoán khác khi họ muốn thông qua cơ chế
định giá đang được hoạt động.
3. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán

Chủ thể tham gia TTCK thường bao gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư,
tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức quản lý TTCK và các tổ chức phụ trợ
khác.
3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán
Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy
động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp hàng hóa cho
thị trường và có trách nhiệm cơng bố các thơng tin về chứng khốn. Các tổ chức
được phát hành chứng khốn gồm:
- Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính
phủ và trái phiếu địa phương.
- Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính
ngân hàng và phi tài chính): phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.
Theo luật lệ của hầu hết các quốc gia, cổ phiếu chỉ do một chủ thể duy
nhất phát hành, đó là cơng ty cổ phần; cịn trái phiếu có thể do nhiều loại
hình doanh nghiệp phát hành như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước.
- Công ty quản lý quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.


3.2 Nhà đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khoán
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như:
nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngồi. Tùy theo chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi
quốc gia, trong từng thời kỳ mà số lượng các ngành và tỷ lệ tham gia đầu tư cổ
phiếu, trái phiếu của các tổ chức và cá nhân nước ngoài vào các doanh nghiệp
thuộc các ngành có thể khác nhau.
- Nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán chứng khoán trên
TTCK. Cũng giống như những hoạt động đầu tư khác, mục đích của đầu tư

chứng khốn để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, mỗi nhà đầu tư có khả năng tài
chính, tâm lý đầu tư và điều kiện nhân thân khác nhau, do vậy, họ sẽ có thái độ
khác nhau đối với rủi ro.
- Nhà đầu tư tổ chức (còn gọi nhà đầu tư chuyên nghiệp)
Nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm các
chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định
đầu tư. Nhìn chung, có một số nhà đầu tư chun nghiệp sau:
 Cơng ty đầu tư và quỹ tín thác đầu tư: được thành lập nhằm thu hút
vốn của nhiều nhà đầu tư cá nhân để đầu tư trên TTCK. Ưu điểm
nổi bật của hình thức đầu tư qua các quỹ tín thác là có thể đa dạng
hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi
các chuyên gia có kinh nghiệm.
 Cơng ty bảo hiểm: Cơng ty bảo hiểm quản lý phí bảo hiểm của
những người tham gia bảo hiểm và sử dụng số tiền đó để đầu tư
dưới các hình thức như: gửi ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán...
Để đảm bảo khả năng thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm,
pháp luật các nước thường có quy định khá chặt chẽ về tỷ trọng các
khoản đầu tư.
 Quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác: Các quỹ này thu phí đóng
góp định kỳ của các cá nhân để sau này trả cho họ lương hưu hay
các khoản trợ cấp khác. Phần phí thu được chưa phải chi trả có thể
được nhà quản lý quỹ đầu tư vào các chứng khốn có độ an tồn
cao như trái phiếu chính phủ.


 Các cơng ty tài chính, các NHTM… cũng có thể trở thành nhà đầu
tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khốn cho chính mình.



3.3 Người kinh doanh chứng khoán
Tham gia kinh doanh chứng khốn bao gồm các tổ chức như: cơng ty
chứng khốn (CTCK), công ty quản lý quỹ đầu tư (QLQĐT) và cá nhân hành
nghề độc lập.
- Cơng ty chứng khốn:
CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực
chứng khốn, thực hiện một hoặc tồn bộ các hoạt động: môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khốn với mục đích tìm
kiếm lợi nhuận. Tùy theo điều kiện về năng lực tài chính, cơ sở vật chất
kỹ thuật và nguồn nhân lực, một CTCK có thể đảm nhận tất cả các nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán hoặc chỉ đảm nhận một số nghiệp vụ nhất
định theo giấy phép kinh doanh.
- Công ty quản lý quỹ đầu tư:
Cơng ty QLQ là tổ chức có tư cách pháp nhân, hoạt động cung cấp
dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán
3.4 Quản lý và giám sát thị trường
Tùy theo chính sách phát triển thị trường và thực tế phát triển TTCK của
mỗi quốc gia mà việc quản lý và giám sát TTCK được thực hiện bởi các chủ thể
khác nhau. Thông thường tham gia quản lý giám sát TTCK bao gồm: Nhà nước
(thông qua các cơ quan chức năng như Ủy ban chứng khoán nhà nước/
UBCKNN, Ngân hàng nhà nước/NHNN), các tổ chức tự quản (Sở giao dịch,
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán).
- Cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán: Sự quản lý
của nhà nước đối với TTCK là nhân tố rất quan trọng để đảm bảo cho thị
trường hoạt động trật tự, công bằng, khách quan, đúng pháp luật. Tuy
nhiên, mơ hình quản lý nhà nước đối với TTCK ở mỗi nước đều có những
điểm khác nhau. Nhìn nhận khái qt có thể thấy có hai loại mơ hình về
cơ quan quản lý nhà nước đối với TTCK:
 Giao nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với TTCK cho một bộ của

Chính phủ, thường là Bộ Tài chính (Nhật Bản, Hàn Quốc),
 Thành lập cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ: Ủy ban chứng
khốn (Mĩ). Bên cạnh Bộ Tài chính hoặc Ủy ban chứng khốn, một
số bộ ngành khác cũng có chức năng tham gia quản lý TTCK ở một
lĩnh vực thuộc thẩm quyền. Ví dụ: Ngân hàng Trung ương quản lý


các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện các hoạt động kinh
doanh có liên quan đến chứng khốn như hoạt động thanh tốn bù
trừ, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xử lý các hành vi gian lận trên
TTCK.
- Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là nơi giao dịch các chứng
khoán đã được niêm yết. Nhiệm vụ của SGDCK là tổ chức vận hành thị
trường thông qua các bộ phận chức năng như: quản lý niêm yết, quản lý
giao dịch, quản lý công bố thông tin, thanh tra giám sát… trên cơ sở các
văn bản pháp luật của Nhà nước và các quy định của Sở.
SGDCK ở nhiều nước là tổ chức tự quản bao gồm các cơng ty
chứng khốn thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động
giao dịch chứng khoán. Khi phát hiện ra các hành vi vi phạm quy chế thị
trường, SGDCK tiến hành xử lý, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích
hợp. Trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định
của ngành chứng khoán, Sở có trách nhiệm báo cáo lên Ủy ban chứng
khốn để giải quyết. Hoạt động điều hành và giám sát của SGDCK phải
được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định pháp luật có liên
quan.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán (KDCK) Hiệp hội các nhà
KDCK là tổ chức của các CTCK và một số thành viên khác hoạt động
trong ngành chứng khoán được thành lập với mục đích bảo vệ lợ ích cho
các cơng ty thành viên nói riêng và cho tồn ngành chứng khốn nói

chung. Hiệp hội các nhà KDCK thường là tổ chức tự điều hành, tham gia
quản lý giám sát thị trường theo một số nội dung chủ yếu sau:
 Ban hành các quy định đối với thành viên và có trách nhiệm giám
sát việc thực hiện các quy định của các thành viên Hiệp hội.
 Thu nhận các khiếu nại của khách hàng đối với các CTCK thành
viên. Xử lý các vi phạm của thành viên theo quy chế của Hiệp hội.
 Đề xuất các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về các
biện pháp phát triển thị trường
3.5 Các tổ chức phụ trợ khác
Để đảm bảo cho TTCK có thể vận hành một cách bình thường, bên cạnh
các chủ thể nêu trên cần có các tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
chứng khoán như: tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ, tổ chức


đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ chức tài trợ chứng khốn, tổ chức kiểm tốn, tổ
chức cơng nghệ thơng tin TTCK…
- Tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ:


+ Tại hầu hết các TTCK trên thế giới, để nâng cao khả năng quản lý
rủi ro trong các giao dịch mua bán chứng khoán và đảm bảo sự vận hành
trơn tru của thị trường, chứng khoán thuộc sở hữu của các nhà đầu tư phải
được lưu ký tại một trung tâm lưu ký chứng khốn (TTLKCK), thơng qua
các thành viên lưu ký nước sở tại, trước khi những chứng khoán này được
giao dịch trên thị trường. Tùy theo thực tế phát triển của mỗi TTCK mà
hoạt động lưu ký có thể thực hiện theo cơ chế phân tán, hoặc tập trung. Tổ
chức lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ,
bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng và thay mặt khách
hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán (quyền nhận
cổ tức, ghi chép theo dõi những thay đổi về tình hình đăng ký, lưu ký

chứng khốn, quyền tham gia đại hội cổ đông...) và tiến hành các nghiệp
vụ thanh toán bù trừ các giao dịch mua bán chứng khốn. Thơng thường,
thành viên lưu ký chủ yếu là các CTCK, NHTM được cấp phép hoạt
động. Ngoài ra, tại thị trường của một số quốc gia, các tổ chức tài chính,
quỹ đầu tư và một số tổ chức đầu tư lớn cũng có thể được chấp nhận làm
thành viên lưu ký. Khách hàng không phải là thành viên của trung tâm lưu
ký sẽ phải ký gửi và mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các thành viên
lưu ký. Khi muốn trở thành thành viên lưu ký, tổ chức có nhu cầu là thành
viên phải thoả mãn một số điều kiện nhất định như: lĩnh vực kinh doanh
mà tổ chức đó tiến hành, khả năng tài chính... Sau khi được cơ quan quản
lý Nhà nước về lĩnh vực chứng khoán chấp thuận và cấp phép hoạt động
lưu ký, mọi hoạt động cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán của
thành viên lưu ký phải tuân thủ những quy định cụ thể của từng thị
trường.
+ Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm Cơng ty đánh giá hệ số tín
nhiệm là tổ chức chuyên thực hiện việc đánh giá về tình hình hiện tại và
triển vọng hoạt động của các doanh nghiệp dưới dạng các hệ số tín nhiệm.
Ở các nước có TTCK phát triển, tổ chức xếp hạng tín nhiệm đóng vai trị
cực kỳ quan trọng, vì tổ chức này vừa có vai trị thúc đẩy hoạt động thị
trường, vừa giúp nhà đầu tư đánh giá, xếp hạng chứng khoán làm cơ sở
cho việc ra quyết định đầu tư, bảo vệ nhà đầu tư tránh rủi ro. Đánh giá và
xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp cịn có ý nghĩa quan trọng với cả
chính doanh nghiệp phát hành chứng khốn, bởi vì nó là cơ sở đánh giá
khả năng rủi ro vỡ nợ, xác định chi phí sử dụng vốn (lãi suất trái phiếu) và
khả năng phân phối, tiêu thụ chứng khoán... Một số tổ chức xếp hạng tín
nhiệm nổi tiếng trên thế giới khơng thể khơng nhắc đến Mood và S&P.
Việc sắp xếp thứ hạng của tổ chức phát hành dựa trên cơ sở một số yếu tố


như các tỷ số tài chính (hệ số thanh tốn, cơ cấu vốn...), vật thế chấp,

thời gian đáo hạn của trái


phiếu, tính ổn định của doanh thu và thu nhập, các hoạt động kinh doanh,
chính sách tài chính, mơi trường kinh doanh...
- Tổ chức tài trợ chứng khoán
+ Tổ chức tài trợ chứng khoán là các tổ chức được thành lập với
mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng TTCK thông qua các hoạt
động cho vay bảo lãnh, cho vay để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán
cho các giao dịch chênh lệch… Các tổ chức tài trợ chứng khốn ở các
nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có nước khơng có loại hình tổ
chức này, nhưng mơ hình tổ chức phổ biến nhất là sự kết hợp giữa các
CTCK và NHTM trong cung cấp dịch vụ tín dụng chứng khoán.
4. Các nguyên tắc hoạt động trên Thị trường chứng khoán
TTCK hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc trung gian, nguyên
tắc đấu giá và nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc trung gian:
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị truờng
chứng khoán đều đuợc thực hiện thơng qua các trung gian, hay cịn gọi là
các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của
khách hàng và huởng hoa hồng. Ngồi ra, nhà mơi giới cịn có thể cung
cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tu vấn cho khách hàng
trong việc đầu tư...
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả
thuận với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thơng qua các nhà
mơi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ
thống để khớp lệnh.
- Nguyên tắc đấu giá:
Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các
lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều

không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là
đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao
dịch và trực tiếp đấu giá.
Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc
nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy
chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao
dịch với khối luợng cao nhất.
- Nguyên tắc công khai:


Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều phải đảm bảo
tính cơng khai. Sở giao dịch chứng khốn cơng bố các thơng tin về giao
dịch chứng khốn trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố cơng khai
các thơng tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất
thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản
lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được cơng bố cơng khai minh bạch,
thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khốn
đuợc hình thành một cách thống nhất, cơng bằng cho tất cả các bên giao
dịch. Do đó, ở hầu hết các nuớc trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có
một Sở giao dịch chứng khốn duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền
đất nuớc đều có thể tiếp cận thị trường thơng qua các phịng giao dịch của
cơng ty chứng khốn mở tới các điểm dân cư).
Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khốn do lịch
sử để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán
riêng biệt.
5. Phân loại Thị trường chứng khốn
5.1 Theo đối tượng giao dịch
• Thị trường cổ phiếu (Stock Market) Thị trường cổ phiếu, còn gọi là TTCK

vốn, là thị trường mà đối tượng giao dịch là các loại cổ phiếu của các
công ty cổ phần. Thị trường cổ phiếu được coi là bộ phận cơ bản và giữ vị
trí quan trọng nhất của hệ thống TTCK. Nói đến TTCK, người ta thường
đồng nghĩa với thị trường cổ phiếu. Thị trường cổ phiếu có một số đặc
điểm sau:
 Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại cổ phiếu (còn gọi là
các chứng khốn vốn) như: cổ phiếu thường (cịn gọi là cổ phiếu
phổ thông), cổ phiếu ưu đãi.
 Người sở hữu cổ phiếu giữ vai trị là cổ đơng, là đồng sở hữu một
phần công ty cổ phần – tổ chức phát hành ra cổ phiếu đó.
 Do cổ phiếu khơng có thời hạn nên để thu hồi vốn đầu tư, nhà đầu
tư không thể yêu cầu tổ chức phát hành mua lại mà phải đem bán
chúng (chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những nhà đầu tư khác
trên thị trường cổ phiếu.
• Thị trường trái phiếu (Bond Market) Thị trường trái phiếu, còn gọi là thị
trường nợ, là nơi giao dịch các loại trái phiếu. Thị trường trái phiếu có
một số đặc điểm sau:


 Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại trái phiếu (cịn gọi là
các chứng khốn nợ) như: trái phiếu chính phủ và chính quyền địa
phương, trái phiếu công ty, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…
 Người sở hữu trái phiếu giữ vai trò là chủ nợ của tổ chức phát hành.
 Do trái phiếu có kỳ hạn nên việc thu hồi vốn đầu tư có thể thực
hiện trực tiếp tại tổ chức phát hành (nếu trái phiếu đã đến ngày đáo
hạn). Trường hợp ngược lại, nhà đầu tư phải đem bán chúng
(chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những nhà đầu tư khác trên thị
trường trái phiếu.
• Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư (Fund Certificate Market/ Fund Stock
Market) Thị trường chứng chỉ quỹ là nơi giao dịch các loại chứng chỉ quỹ.

Thị trường chứng chỉ quỹ có một số đặc điểm sau:
 Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại chứng chỉ quỹ do các
công ty quản lý quỹ đầu tư phát hành.
 Người sở hữu chứng chỉ quỹ là người ủy thác cho công ty quản lý
quỹ thực hiện hoạt động đầu tư tập thể theo điều lệ của quỹ. Nhà
đầu tư khơng có quyền kiểm soát hàng ngày đối với hoạt động đầu
tư của quỹ.
 Tùy theo đặc điểm của từng loại quỹ đầu tư, người sở hữu chứng
chỉ quỹ có thể thu hồi vốn đầu tư trực tiếp tại quỹ, hoặc đem bán
chúng (chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những nhà đầu tư khác
trên thị trường chứng chỉ quỹ.
• Thị trường chứng khoán phái sinh (Derivatives Market) TTCK phái sinh
là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai. TTCK
phái sinh là thị trường mà sự ra đời và phát triển của nó bắt nguồn từ
chính việc phát hành, giao dịch các loại chứng khoán gốc. Sự tồn tại và
phát triển của thị trường này có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy thị
trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu hoạt động sôi động và hiệu quả
hơn. Tiêu thức phân chia này giúp chúng ta có thể đánh trình độ phát triển
của nền kinh tế nói chung cũng như sự phát triển của TTCK nói riêng. Với
những nước phát triển, sự phát triển của thị trường cổ phiếu là biểu trưng
cho sự phát triển của nền kinh tế. Song hành cùng với sự phát triển và
hồn thiện của thị trường, các loại chứng khốn phái sinh cũng ngày càng
gia tăng để đáp ứng nhu cầu đa dạng, đồng thời cung cấp các cơng cụ
phịng chống rủi ro cho các nhà đầu tư, kinh doanh chứng khoán.


5.2 Theo q trình lưu thơng chứng khốn
• Thị trường sơ cấp (Primary Market) Là thị trường phát hành chứng khốn
mới. TTCK sơ cấp có vai trị tạo vốn cho tổ chức phát hành và chuyển hoá

các nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng vào công cuộc đầu tư. Đặc điểm
của thị trường sơ cấp:
 Trên thị trường sơ cấp, chứng khoán là phương tiện huy động vốn
của tổ chức phát hành, là công cụ đầu tư các nguồn tiền nhàn rỗi
của nhà đầu tư.
 Chủ thể giao dịch: trên thị trường sơ cấp, người bán chứng khoán là
các tổ chức phát hành, người mua là các nhà đầu tư.
 Kết quả giao dịch trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư cho tổ
chức phát hành.
 Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường sơ cấp là thị trường
khơng liên tục.
• Thị trường thứ cấp (Secondary Market) Là thị trường diễn ra các giao
dịch mua bán chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Vai
trò của TTCK thứ cấp là thực hiện việc chuyển đổi quyền sở hữu chứng
khoán giữa các nhà đầu tư chứng khốn. Xét trên góc độ kinh tế vĩ mơ,
TTCK thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính thực
hiện chức năng điều tiết vốn đầu tư giữa các ngành, các lĩnh vực, tạo ra
một sự cân đối mới cho nền kinh tế. Đặc điểm của TTCK thứ cấp:
 Trên thị trường thứ cấp, chứng khoán chỉ thuần túy là công cụ đầu
tư mà không tồn tại với tư cách là phương tiện huy động vốn cho tổ
chức phát hành.
 Chủ thể giao dịch trên thị trường thứ cấp chủ yếu là các nhà đầu tư,
kinh doanh chứng khoán. o Kết quả hoạt động của thị trường thứ
cấp không làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế mà chỉ làm thay đổi
quyền sở hữu chứng khốn giữa các nhà đầu tư.
 Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường thứ cấp là thị trường
liên tục. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ
hữu cơ, gắn bó với nhau, làm tiền đề cho sự phát triển của TTCK.
Thị trường sơ cấp có vai trị tạo hàng hóa cho TTCK, thị trường thứ
cấp làm gia tăng tính thanh khoản của chứng khoán, đảm bảo cho

sự phát triển của thị trường sơ cấp Phân chia và nghiên cứu TTCK
theo tiêu thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích quan
hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế, đồng thời tạo cơ sở để đánh giá
hiện trạng


nền kinh tế cũng như vị thế, uy tín của tổ chức phát hành thông qua
sự biến động giá chứng khốn trên thị trường thứ cấp.
5.3 Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động
• Thị trường chứng khốn chính thức - TTCK chính thức (cịn gọi là thị
trường có tổ chức) là thị trường mà sự ra đời và hoạt động được thừa
nhận, bảo hộ về mặt pháp lý. Các hoạt động giao dịch của thị trường này
nằm dưới sự kiểm soát và chịu sự ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý của Nhà
nước thông qua các pháp luật chun ngành. Thị trường có tổ chức bao
gồm:
• Thị trường tập trung – Sở giao dịch TTCK tập trung là thị trường ở đó
việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập
trung gọi là sàn giao dịch. Đặc điểm của TTCK tập trung:
 TTCK tập trung có địa điểm giao dịch cố định.
 Các chứng khoán được giao dịch tại TTCK tập trung phải thoả mãn
những điều kiện nhất định và hoàn tất thủ tục niêm yết, thường là
chứng khốn của những cơng ty lớn, có danh tiếng, đã qua thử
thách của thị trường.
 Phương thức giao dịch chủ yếu là đấu giá hoặc ghép lệnh để hình
thành giá cả cạnh tranh tốt nhất trong các phiên giao dịch.
 Thành viên giao dịch có giới hạn, thường chỉ bao gồm những tổ
chức và/ hoặc cá nhân có đủ điều kiện, đã được cơ quan quản lý
nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCK cấp phép thành viên.
 Nhà nước quản lý thị trường thông qua các pháp luật chuyên ngành
về CK & TTCK.

- Thị trường phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC - Over The Counter)
Thị trường OTC là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khốn
khơng diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống máy vi
tính và điện thoại kết nối giữa các thành viên của thị trường. Đặc điểm
của TTCK OTC:
 TTCK OTC khơng có địa điểm giao dịch cố định. Các giao dịch
được tiến hành qua mạng lưới các CTCK phân tán trên khắp quốc
gia.
 Chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC là những chứng khoán
chưa được niêm yết trên bất kỳ thị trường tập trung nào và thường
bao gồm các chứng khốn có tiêu chuẩn thấp hơn chứng khoán
được niêm yết trên thị trường tập trung– chứng khốn của các cơng
ty vừa và nhỏ.


 Giá chứng khoán trên thị trường OTC được xác định chủ yếu theo
phương thức thoả thuận.


 Nhà nước quản lý đối với thị trường OTC thơng qua các pháp luật
chun ngành về CK & TTCK.
• Thị trường chứng khốn khơng chính thức - TTCK tự do (The free market)
Thị trường chứng khốn tự do, (cịn gọi là thị trường ngầm, thị trường chợ
đen) là thị trường ở đó các hoạt động giao dịch mua bán chứng khốn khơng
được thực hiện qua hệ thống giao dịch của thị trường tập trung và thị trường
OTC, nó ra đời và hoạt động một cách tự phát theo nhu cầu của thị trường.
TTCK tự do là thị trường mà hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng
chứng khốn có thể diễn ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào, có thể thơng qua
các nhà mơi giới hoặc do chính những người có nhu cầu đầu tư, mua bán
chứng khốn thực hiện. Dưới góc độ pháp lý, TTCK tự do là thị trường mà

sự ra đời, tồn tại và hoạt động không được thừa nhận và bảo hộ bởi các pháp
luật chuyên ngành về chứng khoán và TTCK. Nó ra đời và hoạt động bởi các
nhu cầu tự phát của thị trường. Do không được bảo hộ về mặt pháp lý nên
việc mua bán chứng khoán trên thị trường tự do chứa đựng nhiều rủi ro như
lừa đảo, hàng giả, hàng khơng có thật…
Thị trường có tổ chức và thị trường tự do là hai bộ phận cùng song song
tồn tại và phát triển. Xét về lịch sử, thị trường tự do ra đời sớm hơn rất nhiều
so với thị trường có tổ chức. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế thị
trường cũng như sự gia tăng vai trị kiểm sốt của Nhà nước thì quy mô và
phạm vi hoạt động của thị trường tự do ngày càng giảm đi rõ rệt, ngược lại
với sự phát triển nhanh chóng của thị trường có tổ chức.
Xem xét TTCK theo tiêu thức này giúp chúng ta có thể đánh giá được vai
trò cũng như mức độ kiểm sốt của Nhà nước đối với hoạt động của TTCK
nói riêng cũng như tồn bộ nền kinh tế nói chung.
Ngồi cách phân chia nêu trên, theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt
động, người ta còn chia TTCK thành thị trường tập trung, thị trường phi tập
trung, thị trường Private thị trường riêng và thị trường thứ ba.
Thị trường Private là thị trường cổ phiếu của các công ty cổ phần nội bộ.
Cổ phiếu của các công ty này có tính thanh khoản kém, giao dịch chủ yếu
diễn ra giữa các cổ đơng cũ của cơng ty. Do tính thanh khoản kém, giá cổ
phiếu không phản ánh đúng giá trị của công ty và rủi ro thanh khoản cao,
song công ty gần như không phải đối mặt với các xung đột lợi ích giữa các
nhóm cổ đơng nên hoạt động khá ổn định. Thị trường thứ ba là thị trường
dành cho các chứng khốn đích danh và giao dịch khối. Các chứng khoán


đích danh thường có điều kiện đặc biệt trong điều kiện chuyển nhượng, vì
vậy thường khơng được đăng



ký giao dịch tại các thị trường chính thức. Đối với các giao dịch khối, sở giao
dịch thường giới hạn khối lượng giao dịch, chẳng hạn tại Sở giao dịch chứng
khốn New York, những giao dịch có khối lượng chứng khoán lớn hơn
10.000 đơn vị thuộc giao dịch khối.
5.4 Theo thời hạn thanh tốn
• Thị trường giao ngay là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và
thanh toán được diễn ra ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian
thanh toán bù trừ theo quy định. Đặc điểm của TTCK giao ngay:
 Việc ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện ở
hiện tại.
 Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán được
thực hiện ngay trong ngày giao dịch, hoặc trong thời gian thanh
toán bù trừ theo quy định của thị trường mỗi nước (T+1 hoặc T+2
hoặc T+3).
• Thị trường kỳ hạn là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và thanh
toán được diễn ra sau ngày giao dịch một khoảng thời gian nhất định. Đặc
điểm của TTCK kỳ hạn:
 Việc ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện ở
hiện tại.
 Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán được
thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định theo hợp đồng đã
ký kết. Tùy theo cơ chế hoạt động của thị trường theo kiểu Âu hay
kiểu Mĩ mà ngày thực hiện hợp đồng (chuyển giao quyền sở hữu
chứng khoán và thanh toán) được thực hiện sau ngày giao ngay một
khoảng thời gian đã ký hay bất cứ ngày nào trong thời hạn của hợp
đồng.
6. Chức năng và vai trị của Thị trường chứng khốn
6.1Các chức năng chủ yếu
- Kênh huy động và phân bổ nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
Đây là chức năng quan trọng nhất. TTCK đưa các nguồn vốn nhàn rỗi từ

các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ sang những chủ thể thiếu vốn khi
họ muốn chi tiêu nhiều hơn thu nhập họ có. Do vậy, TTCK nếu vận hành tốt
sẽ nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển nền kinh tế
quốc dân.
- Công cụ để ổn định kinh tế vĩ mô


TTCK là kênh quan trọng để chính phủ thực thi các chính sách kinh tế,
đặc biệt là các chính sách tài chính – tiền tệ để ổn định kinh tế và kiểm soát
lạm


×