Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm của tâm lý học mác xít về NHÂN CÁCH và ý NGHĨA đối với GIÁO dục NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.43 KB, 20 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA TÂM LÝ HỌC MÁC XÍT VỀ NHÂN CÁCH
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC NHÂN CÁCH
QUÂN NHÂN HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau, như triết học, giáo dục học, xã hội học, luật học, tâm lý học, y học,…
Tuy nhiên, mỗi khoa học lại xem xét nhân cách theo góc độ riêng của nó, vì
vậy quan điểm của Tâm lý học về nhân cách cũng có những khác biệt so với
quan điểm của các khoa học khác. Theo đó, nhân cách trước hết là đặc trưng
ở tính xã hội của con người, là " phẩm chất xã hội" của con người. Ngày nay,
trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
nhân tố con người đã trở thành nhân tố giữ vị trí trung tâm của sự phát triển
xã hội. Vì vậy, sự hiểu biết con người nói chung, về vấn đề nhân cách đã trở
thành tiền đề của việc đầu tư có hiệu quả vào sự phát triển con người - yếu tố
quyết định mọi sự phát triển trong xã hội.
Vấn đề nhân cách được coi là một trong những vấn đề cơ bản song
cũng là một vấn đề phức tạp nhất của khoa hoc tâm lí nói riêng và của khoa
học xã hội và nhân văn nói chung. Giải quyết đúng vấn đề nhân cách sẽ cho
phép giải quyết được những vấn đề khác của tâm lí học và của nhiều lĩnh vực
đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục,
phát triển nhân cách người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói
riêng.
Đặc biệt, trong điều kiện thực tiễn hiện nay, trước sự biến đổi và thay
thế không ngừng của hệ thống giá trị xã hội và định hướng giá trị, việc tìm
hiểu làm rõ lý luận về nhân cách cũng như những nhân tố tác động đến sự
hình thành phát triển nhân cách, xu hướng lựa chọn giá trị và định hướng giá

1



trị nhân cách sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để giáo dục hình thành phát triển
nhân cách thế hệ tương lai của đất nước.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả sẽ chọn nghiên cứu
và làm rõ vấn đề: "Quan điểm của tâm lý học Mác xít về nhân cách và ý nghĩa
đối với giáo dục nhân cách quân nhân hiện nay".

2


NỘI DUNG
Như trên đã nói, nhân cách là một phạm trù rộng lớn và vơ cùng phức
tạp, vì vậy cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về nhân cách.
Ngay từ những năm 1937, Allport đã dẫn ra được tới trên 50 định
nghĩa khác nhau về nhân cách trong tác phẩm của nhiều nhà nghiên cứu. Đến
nay, số định nghĩa về nhân cách đã đạt tới con số hàng trăm và ngày càng tăng
lên. Có rất nhiều học thuyết, quan điểm nghiên cứu khác nhau về nhân cách
trong khoa học tâm lý: như thuyết phân tâm của S.Freud, thuyết siêu phẳng
và bù trừ của A.Adller, thuyết hành vi, tâm lý học Gestalt, tâm lý học nhân
văn v.v... Trong đó, đặc biệt quan trọng là cơng lao và những cống hiến to lớn
của các nhà Tâm lý học Mác xít về nhân cách.
1. Quan điểm của các nhà tâm lý học Mác xít về nhân cách.
1.1. Tâm lý học Xô Viết bàn về nhân cách.
Đứng trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tâm lý
học Xô Viết đã cống hiến cho nhân loại những thành tựu to lớn, phong phú,
đa dạng, đặc biệt là vấn đề nhân cách và cấu trúc nhân cách.
Các nhà tâm lí học theo quan điểm mác xít đều cho rằng khái niệm
nhân cách phải là một phạm trù xã hội chứ khơng thể thuần tâm lí .Tuy nhiên
điều đó khơng loại trừ việc mỗi khoa học tiếp cận vấn đề nhân cách theo góc
độ của mình, trong số đó có khoa học tâm lí. Rõ ràng là một người sẽ chỉ trở
thành nhân cách khi đã có tâm lí và có ý thức.

Dưới đây là một số quan điểm về nhân cách của các nhà tâm lí học Xơ
Viết được thừa nhận và sử dụng rộng rãi:
1.1.1. Quan điểm của B.G.Ananiev về nhân cách.
B.G.Ananiev đã xuất phát từ những khái niệm cá thể, chủ thể, khách
thể, hoạt động, cá nhân để giải quyết vấn đề nhân cách. Ông cho rằng nhân

3


cách là cá thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng bước tiến
lịch sử. Nhân cách khơng tồn tại ngồi xã hội, khơng tồn tại ngoài lịch sử. Sự
phong phú của mối quan hệ xã hội của cá nhân đã tạo nên những đặc điểm
của nhân cách. Cấu trúc nhân cách được dần dần hình thành trong quá trình cá
nhân hoạt động trong mối quan hệ xã hội. Vì vậy, những yếu tố sinh học
không tác động trực tiếp trong mối quan hệ, trong cấu trúc nhân cách mà nó
tác động gián tiếp với tư cách là yếu tố đã được xã hội hóa, mang tính chất xã
hội của nhân cách.
Ơng đưa ra cấu trúc nhân cách theo hai nguyên tắc: Nguyên tắc thứ
bậc và nguyên tắc phối hợp. Nguyên tắc thứ bậc là sự sắp xếp đặc điểm xã hội
chung nhất quy định những đặc điểm tâm sinh lý. Nguyên tắc phối hợp là sự
tác động qua lại giữa các thành phần độc lập tương đối và thành phần phụ
thuộc.
Theo B.G.Ananhiep, để nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách phải
nghiên cứu xu hướng, tính cách, hành vi xã hội, động cơ hành vi, cấu trúc
nhân cách, vị thế nhân cách, con đường sống của nhân cách trong xã hội.
Điều này đòi hỏi các nhà khoa học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học, đạo
đức học phải quan tâm nghiên cứu. Ananiev coi con người là tiểu vũ trụ. Điều
này rất tương đồng với quan niệm phương Đông về con người. Con người là
tinh hoa của vũ trụ, trong con người có đại diện của quy luật vũ trụ.
Như vậy, luận điểm Ananiev coi việc nghiên cứu nhân cách là tổng

hợp các khoa học nghiên cứu về con người là một đóng góp quan trọng trong
việc chỉ hướng nghiên cứu nhân cách. Nghiên cứu nhân cách không tách rời
việc nghiên cứu con người và các khoa học khác nghiên cứu về con người.
1.1.2. Quan điểm của A.N.Lêônchiep về nhân cách.
A.N.Leonchiev (1903 - 1979) là nhà tâm lý học Xô Viết kiệt xuất. Về
mặt nhân cách, ơng cũng có những quan điểm mới mẻ. Leonchiev coi nhân
cách như một cấu tạo tâm lý mới, được hình thành trong các quan hệ sống của
4


cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó. Khái niệm nhân cách thể
hiện tính chỉnh thể của chủ thể cuộc sống. Nhân cách là một cấu tạo đặc biệt
có tính trọn vẹn. Nhân cách là sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã
hội lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của con người. Sự hình thành nhân cách
là một quá trình riêng khơng trùng khớp với q trình biến đổi các thuộc tính
tự nhiên của cá thể. Những q trình thần kinh của cá nhân sẽ khơng biến
thành những thuộc tính nhân cách, mặc dù q trình thần kinh sẽ khơng thiếu
được trong quá trình hình thành nhân cách. Muốn hiểu nhân cách phải dựa
vào hoạt động của chủ thể để phân tích hoạt động là cơ sở của nhân cách.
Việc nghiên cứu nhân cách phải xuất phát từ sự phát triển của hoạt động,
những loại hình cụ thể của hoạt động và mối liên hệ của nhân cách đó với
những người khác.
Quan điểm của A.N.Lêônchiep về động cơ, xúc cảm và nhân cách:
Trước hết ơng đưa ra cách hiểu sự hình thành nhu cầu của con người theo sơ
đồ Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động, luận điểm này cho rằng nhu cầu của con
người cũng được sản xuất ra. Nhu cầu được phân tích về mặt tâm lý sẽ dẫn tới
phân tích động cơ. Ơng chia ra hai loại động cơ: Động cơ tạo ý và động cơ
kích thích. Động cơ tạo ý gắn liền với nhân cách. Động cơ tạo ý ở cấp cao
hơn so với động cơ kích thích, song có khi nó khơng tham gia vào kích thích,
thúc đẩy hoạt động mà khuất đằng sau kích thích. Tiền đề của sự hình thành

nhân cách là sự phát triển của q trình hình thành mục đích và phát triển
những hành động của chủ thể tương ứng gắn với mục đích. Sự hình thành
nhân cách là một q trình liên tục gồm các giai đoạn tuần tự thay thế nhau,
làm thay đổi tiến trình sự phát triển tâm lý sau này. Nền tảng của nhân cách là
sự phong phú của mối quan hệ giữa cá nhân với thế giới. Trong mối quan hệ
này con người phải hoạt động bao gồm hoạt động lý luận và hoạt động thực
tiễn. Điều cuối cùng mà A.N.Leonchiev bàn đến là vấn đề con người tự ý thức
mình là một nhân cách. Đó là quá trình phát triển ý thức bản ngã. Ý thức cá
nhân không chỉ là kiến thức, hệ thống ý nghĩ, hoặc các khái niệm thu nhận
5


được mà còn là sự vận động bên trong phân biệt sự hiểu biết về bản thân và tự
ý thức về mình.
Tóm lại, trung tâm trong quan điểm chủ yếu về nhân cách của
Leonchiev lấy hoạt động là cơ sở của nhân cách . Vì vậy, phải lấy hoạt động
để phân tích, biện giải hiện tượng nhân cách. Khi phân tích nhân cách phải kể
đến động cơ, nhu cầu, mục đích và hành động của cá nhân trong hoạt động.
Có như vậy mới có thể tách bạch được những cấp độ khác nhau: Cấp độ sinh
vật, cấp độ tâm lý với tư cách là chủ thể và cấp độ xã hội, ở đó con người thực
hiện những quan hệ xã hội trong nghiên cứu của mình. Đây là một đóng góp
to lớn của A.N.Leonchiev.
1.1.3. Quan niệm của K.K.Polatonov về nhân cách.
K.K.Polatonov đưa ra đinh nghĩa nhân cách như sau: “nhân cách là
một con người cụ thể như là một chủ thể cải tạo thế giới trên cơ sở nhận thức,
thể nghiệm thế giới, trên cơ sở quan hệ với thế giới đó”, ta có thể diễn đạt tư
tưởng đó ngắn gọn hơn: “nhân cách là con người mang ý thức”. Ý thức không
phải là một thực thể thụ động mà là một hình thức phản ánh bậc cao chỉ có ở
người. Đứa trẻ mới ra đời chưa có ý thức. Nhân cách sẽ hình thành trong giao
tiếp với người khác. Có nhân cách tiến bộ và nhân cách phản động, nhân cách

lành mạnh và nhân cách ốm yếu. Ông cho rằng khơng thể xác định được lúc
nào thì con người hình thành nhân cách. Theo K.K.Polatonov, cấu trúc tâm lý
chức năng cơ động của nhân cách gồm bốn cấu trúc nhỏ được xác định bằng
bốn phạm trù sau đây.
* Tính cần và đủ để đưa toàn bộ các yếu tố, các nét của nhân cách vào
bốn cấu trúc ấy.
* Sự thừa nhận nhân cách phân loại các thuộc tính cá nhân và các khái
niệm tâm lý về phương diện thực tế.

6


* Tỉ lệ nghịch của độ chênh lệch tính chế ước xã hội và tính chế ước
sinh vật của các thuộc tính cá nhân riêng biệt và những cấu trúc nhỏ thống
nhất những thuộc tính ấy.
* Tính chất chuyên biệt của các loại quan hệ trong sự hình thành mỗi
cấu trúc nhỏ.
Liên quan đến bốn phạm trù trên có bốn cấu trúc nhỏ: Cấu trúc nhỏ
thứ nhất là xu hướng (lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…); cấu trúc nhỏ thứ
hai là kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen); cấu trúc nhỏ thứ ba
là các q trình tâm lý; cấu trúc nhỏ thứ tư là các thuộc tính sinh học quy định
nhân cách (khí chất giới tính, lứa tuổi, bệnh lý…). Ngoài cấu trúc kể trên,
theo K.K.Polatonov, nhân cách con người cịn ở thuộc tính khác là tính cách
và năng lực. Tính cách cũng như năng lực là tổng hồ các thuộc tính có trong
sự tương ứng với hoạt động. Tính cách và năng lực cá nhân tương hỗ với
nhau. Trong một mức độ nào đó, năng lực biểu hiện ra và trở thành tính cách.
Tóm lại quan điểm của K.K.Polatonov là một đóng góp mới cho việc
giải quyết vấn đề nhân cách. Hệ thống chức năng cơ động, bốn tiểu cấu trúc
của nhân cách, tính cách và năng lực là các thuộc tính của nhân cách đã làm
sáng tỏ thêm vấn đề nhân cách. Tuy nhiên trong khi khẳng định nhân cách là

con người có ý thức, ông đã không thấy được sự tham gia của vô thức trong
hành vi con người. Thêm nữa, xã hội đóng vai trị quyết định như thế nào đối
với nhân cách, chúng ta cũng chưa thấy rõ.
1.1.4. Luận điểm của trường phái Uzơnatze về nhân cách.
Để hiểu con người với tư cách là nhân cách, D.Uzơnatze đã phân chia
tính tích cực tâm lý của con người ra ba cấp độ. Con người với tư cách là cá
nhân đó là cấp độ đầu tiên, thấp nhất. Cấp độ thứ hai, con người với tư cách là
chủ thể. Cấp độ thứ ba phức tạp và cao nhất con người với tư cách là nhân
cách.

7


Theo quan niệm này, cá nhân, chủ thể, nhân cách là sự thể hiện ở ba
mức độ khác nhau của tâm thế con người. Ở mức độ thứ nhất, tâm thế quan hệ
nhiều đến nhu cầu sinh vật; ở mức độ thứ hai, tâm thế có quan hệ đến q
trình tư duy để nhận thức hoàn cảnh; ở mức độ thứ ba, tâm thế quan hệ đến ý
chí và định hướng giá trị. Quan điểm trên đã đóng góp nhiều kiến thức quý
cho vấn đề nhân cách. Song những vấn đề về tâm lý và nhân cách nếu chỉ dựa
vào tâm thế để phân tích là chưa đủ. Tâm lý và nhân cách con người vô cùng
phong phú và phức tạp, liên quan đến nhiều khoa học khác nhau.
1.1.5. Cách tiếp cận của X.L.Rubinstein về nhân cách.
Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, Rubinstein đi từ các phạm
trù tinh thần, ý thức, chủ thể… đến phạm trù nhân cách, coi nhân cách là các
trải nghiệm và đi vào vấn đề hình thành và phát triển nhân cách trong hoạt
động. Rubinstein đã nhấn mạnh tính chất đặc thù của riêng từng nhân cách,
nói lên xu hướng riêng của người ấy, bao gồm ý hướng, ý muốn của từng
người, năng lực của từng người, bản tính của nó. Nội dung này gắn liền với
cái gọi là ý thức của chủ thể và các thái độ: thái độ đối với thế giới xung
quanh, thái độ đối với người khác và thái độ đối với bản thân. Rubinstêin coi

nhân cách là bộ máy điều chỉnh toàn bộ hệ thống thân thể con người nói
chung, gắn liền với khái niệm đường đời. Rubinstein đi từ một nhận xét triết
học cho rằng toàn bộ tâm lý học người được coi là tâm lý học nhân cách, coi
tất cả các hiện tượng tâm lý được mô tả trong tâm lý học đại cương đều diễn
ra trong nhân cách và đều phụ thuộc vào sự phát triển của nhân cách. Nhân
cách ở đây được hiểu là các đặc điểm cá thể riêng từng người. Nhân cách
cũng được hiểu là khả năng con người điều khiển các quá trình hay thuộc tính
tâm lý của bản thân, hướng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho bản
thân. Từ đó muốn hiểu nhân cách là gì phải xem con người mang nhân cách
ấy có xu hướng gì, có khả năng đáp ứng mong muốn đó khơng, vấn đề nghĩa
và ý của cuộc đời, của từng công việc. Từ đây, Rubinstein đến rất gần với
8


cách tiếp cận của Uzơnatze về nhân cách, tức là ông thấy trong nhân cách có
các thành phần gọi là hứng thú, sự đam mê, tâm thế tạo nên các xu hướng, lý
tưởng của nhân cách.
Như vậy, Rubinstein đã chỉ ra cho chúng ta thấy quá trình hình thành ý
thức và thái độ như là hai thành tố tạo nên nhân cách. Ông đã chỉ ra rằng
nghiên cứu nhân cách là nghiên cứu tự ý thức của nhân cách, nghiên cứu “cái
tôi” như là chủ thể nắm lấy tất cả cái gì con người làm ra, có trách nhiệm của
bản thân đối với tất cả các sản phẩm vật chất mà mình tạo ra. Rubinstein cũng
đã nói đến nhân cách như là bộ mặt của từng người, nói lên lập trường thế
giới quan của người ấy.
Nhìn lại những xu hướng, quan điểm nghiên cứu về nhân cách của
một số nhà Tâm lý học Xơ Viết tiêu biểu trên, ta có thể thấy:
Các luận điểm xuất phát để giải quyết vấn đề nhân cách đều dựa trên
lập trường duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Có nhiều luận điểm khác nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và
đa dạng cho lý luận nhân cách.

Tuy chưa có cách diễn đạt thống nhất, nhưng các nhà tâm lí học Xơ
Viết đều thống nhất với nhau ở những quan điểm sau: nhân cách là một hệ
thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và với bản thân,
nhân cách sinh thành là do hoạt động, nó có tính xã hội - lịch sử. Cá nhân con
người trở thành nhân cách là do các hoạt động và giao lưu của nó trong cộng
đồng, trong xã hội. Khi một cá nhân với tư cách là là thành viên của một cộng
đồng nhất định ở một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ xã hội, của
hoạt động ý thức và giao lưu thì được coi là một nhân cách .
1.2. Quan điểm của các nhà Tâm lý học Việt Nam về nhân cách.
Đứng trên lập trường Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng, các nhà Tâm lý học Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc

9


các lý luận về nhân cách của Tâm lý học Xô Viết và áp dụng linh hoạt, sáng
tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Theo Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc: nhân cách là hệ thống thái độ
của con người. Là thước đo độ phù hợp của phẩm chất, năng lực con người
với yêu cầu xã hội, độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng phát triển.
Theo tác giả Lê Đức Phúc: nhân cách là cấu tạo tâm lý phức tạp bao
gồm nhiều thuộc tính tâm lý cá nhân, được hình thành và phát triển trong
cuộc sống và hoạt động, quy định giá trị xã hội của mỗi người.
Theo tác giả Trần Trọng Thủy: nhân cách là toàn bộ đặc điểm phẩm
chất tâm lý quy định toàn bộ đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân cách thì
ở nước ta, chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song
cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
* Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao

động).
* Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
* Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ,
yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
* Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người. Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học
đại cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004) đã nêu lên định nghĩa nhân
cách như sau: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý
của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.
Trên cơ sở định nghĩa này, các nhà Tâm lý học Quân sự Việt Nam
(trong cuốn Tâm lý học quân sự xuất bản năm 2005) đã đưa ra khái niệm về
nhân cách: Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất xã hội, được cá nhân lĩnh

10


hội trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của cá nhân đó
trong cộng đồng.
Như vậy, nhân cách là sự tổng hịa nhưng khơng phải tổng hòa những
đặc điểm của con người, mà chỉ là tổng hòa những đặc điểm quy định con
người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị
và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Những quan điểm của các nhà Tâm lý học Việt Nam cũng đều thống
nhất thừa nhận, nhân cách là tính xã hội của con người, nhân cách mang bản
chất xã hội, nó khơng phải được sinh ra mà được hình thành và phát triển
trong quá trình con người tham gia hoạt động vào các mối quan hệ xã hội.
Trên cơ sở này, khoa học tâm lí đã chỉ ra 4 con đường cơ bản trong
xây dựng, hình thành nhân cách là: giáo dục, hoạt động, giao lưu và nhóm.
* Giáo dục: đây là một hoạt động chun mơn của xã hội nhằm hình

thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của từng giai đoạn xây
dựng và phát triển xã hội đó.
Giáo dục vạch ra chiều hướng hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ em và dẫn dắt trẻ em phát triển theo hướng đó. Điều này được thực hiện
thông qua mục tiêu giáo dục và qua sự thực hiện mục tiêu đó của các cơ quan
giáo dục trong và ngồi nhà trường.
Giáo dục có thể đưa lại cho trẻ em những yếu tố khác với mơi trường
tự nhiên hoặc yếu tố bẩm sinh.
Giáo dục có thể bù đắp cho những thiếu hụt ở một người do bị tật hay
bị bệnh nào đó gây ra.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí của một người theo
yêu cầu của xã hội.
Giáo dục có thể chuẩn bị cho con người vươn tới tương lai mà với
những điều kiện hiện tại mà nó chưa thể có được.
11


Giáo dục và dạy học một cách khoa học đảm bảo sự hình thành và
phát triển tâm lí, nhân cách của trẻ em theo hướng tốt đẹp
* Hoạt động chính là nhân tố quyết định trực tiếp việc hình thành và
phát triển nhân cách của con người. Chúng ta biết rằng tâm lí khơng chỉ biểu
hiện trong hoạt động, mà cịn hình thành và phát triên bằng hoạt động. Do đó,
nhân cách con người chúng ta cũng được hình thành và phát triển bằng hoạt
động.
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích và bao giờ cũng
mang tính tập thể, tính cộng đồng, hoạt động của con người bao giờ cũng
được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những cơng cụ nhất định.
Do đó mỗi hoạt động bao giờ cũng yêu cầu con người những phẩm chất và
năng lực nhất định thì mới thực hiện được. Chính trong q trình tham gia
trực tiếp hoạt động đó mà con người hình thành và phát triển được những

phẩm chất năng lực này.
Từ mối quan hệ mật thiết giữa hoạt động và nhân cách như thế chúng
ta hiểu rằng, giáo dục muốn đạt được mục đích của mình thì trước hết phải tổ
chức cho trẻ em tham gia những hoạt động nhất định.
Nhưng hoạt động của con người luôn mang tính xã hội tính cộng
đồng. Vì vậy hoạt động ln đi với giao lưu. Do đó đương nhiên giao lưu là
một con đường trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
* Giao lưu (giao tiếp) là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người để trao
đổi với nhau những thông tin cần thiết. Giao lưu tạo ra các quan hệ người người, các quan hệ xã hội. Nếu với xã hội, giao lưu là một điều kiện tồn tại và
phát triển của nó, thì đối với cá nhân, giao lưu cũng có vai trị như thế. Khơng
có sự giao lưu với người khác, cá nhân không phát trỉên được tâm lí, ý thức
của mình, khơng thể trở thành một nhân cách. Sự phát triển của một cá nhân
được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu
một cách trực tiếp hay gián tiếp với họ.
12


Trong q trình giao lưu, con người ta khơng chỉ nhận thức những
người khác, mà cịn nhận thức chính bản thân mình với những cái mà họ
nhận ra được ở mình so với những cái họ thấy được ở những người khác.
Trong giao lưu, sự tiếp xúc về mặt tình cảm là rất quan trọng. Và điều đó chỉ
có khi mà bản thân những người đối thoại có khả năng hiểu được nhau và
đồng cảm với nhau. Đây là tính chất đối lưu của sự tiếp xúc. Nhu cầu giao lưu
là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con
người. Việc thoả mãn nhu cầu giao lưu một cách đúng đắn sẽ làm cho tâm lí,
ý thức con người phát triển, nhân cách được hình thành.
* Nhóm và tập thể: nhân cách con người hình thành trong mơi trường
xã hội. Nhưng con người lớn lên và trở thành nhân cách không phải đơn thuần
trong môi trường xã hội chung chung và trừu tượng. Mơi trường xã hội cụ
thể, gần gũi của nó chính là các nhóm và cộng đồng, là các tập thể mà nó là

thành viên.
2. Nhân cách quân nhân và vấn đề giáo dục, xây dựng nhân cách
người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
2.1. Phẩm chất nhân cách cơ bản của người quân nhân cách mạng
(Bộ đội Cụ Hồ).
Người qn nhân, ngồi những phẩm chất nói chung của nhân cách
người Việt Nam, nhân cách quân nhân còn được thể hiện đậm nét qua lời
tuyên dương của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng”. Đây vừa là sự khái quát, cô đọng nhất, bản chất, truyền
thống của quân đội ta, đồng thời cũng là những phẩm chất nhân cách đặc thù
của người quân nhân cách mạng.
Đặc trưng nhân cách của người quân nhân trước hết là ở lịng trung
thành vơ hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Mục tiêu, lí tưởng của
13


quân đội ta cũng chính là mục tiêu của cách mạng và lí tưởng cao cả của
Đảng. Sự kiên định lí tưởng, nắm vững mục tiêu chiến đấu, lịng trung thành
vơ hạn, lịng tin sâu sắc và thắng lợi của cách mạng là cội nguồn của ý chí
quyết tâm và tinh thần sẵn sàng hi sinh, hoàn thành nhiệm vụ của “Bộ đội Cụ
Hồ”.
Hiếu với dân là phẩm chất nhân cách cao đẹp của người quân nhân
cách mạng. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hi sinh.
Sự gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân trở thành chất nhân dân trong
anh “Bộ đội Cụ Hồ”. Hiếu với dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội vượt ra khỏi
khuôn khổ của thái độ dân vận thông thường trong quan hệ quân dân, trong
công tác dân vận. Hiếu với dân bao hàm cả đức độ nghĩa nặng tình sâu, là sự
hàm ơn sâu sắc đối với người đã sinh ra, nuôi dưỡng, che chở cho mình. Sự

báo đền lớn nhất là hi sinh phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng nhân dân, bảo vệ
dân, giúp đỡ dân làm cho dân tin yêu, mến phục đối với “Bộ đội Cụ Hồ”.
Ý chí quyết chiến, quyết thắng là đặc trưng tiêu biểu của nhân cách
người quân nhân cách mạng. Ý chí quyết chiến quyết thắng của “Bộ đội Cụ
Hồ” được bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân của quân đội, kế thừa
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ ngàn xưa, kế tục và phát
huy truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng, được tiếp thêm sức mạnh ý
chí của nhân cách Hồ Chí Minh. Ý chí ấy được trở thành cốt cách của “Bộ đội
Cụ Hồ”, là sức mạnh tinh thần to lớn, giúp cho cán bộ, chiến sĩ giành thắng
lợi trong chiến tranh. Hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” đồng nghĩa với sự thử
thách ác liệt giữa cái sống và cái chết, giữa cống hiến và hưởng thụ, với mn
vàn khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà ở đâu, lúc nào, thời chiến cũng như
thời bình người lính ln là lớp người đứng hàng đầu nơi khó khăn, ác liệt
nhất của cuộc sống. Dường như càng khó khăn ác liệt thì ý chí quyết chiến
quyết thắng của “Bộ đội Cụ Hồ” càng được bộc lộ và thể hiện rõ nhất. Hiện
nay cùng với toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta đang phát huy

14


phẩm chất ý chí quyết chiến quyết thắng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một đặc trưng hết sức tiêu biểu làm nên vẻ đẹp hình ảnh cao quý “Bộ
đội Cụ Hồ” là nếp sống dân chủ, kỉ luật, là tình đồng chí đồng đội, là tác
phong của người lính. Đó là vẻ đẹp vừa gần gũi, bình dị, giàu tính nhân văn,
văn hoá, toát lên trong cuộc sống hàng ngày của anh “Bộ đội Cụ Hồ” cả trong
thời bình cũng như trong thời chiến. Nếp sống lạc quan yêu đời, ý thức tổ
chức kỉ luật nghiêm minh, tác phong trung thực, khiêm tốn, giản dị trở thành
yếu tố tự giác của “Bộ đội Cụ Hồ”. Tình cảm đồn kết, đồng cam cộng khổ,
gắn bó với nhau trong mơi trường qn đội lúc thường cũng như lúc chiến

đấu, quý nhau như anh em ruột thịt đã làm cho quân đội ta trở nên một mơi
trường lí tưởng, mà càng khó khăn gian khổ chất keo của tình đồng chí đồng
đội ấy càng bộc lộ rõ nét.
Những đặc trưng tiêu biểu về hình ảnh cao quý của người quân nhân
cách mạng, của “Bộ đội Cụ Hồ” trên đây là một chỉnh thể thống nhất, hoàn
chỉnh tạo nên nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”. Nêu lên điều đó trước hết là để nói
tới cơng lao của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của nhân dân đã xây dựng
thành công một quân đội cách mạng, đồng thời là để nhắc nhở mỗi cán bộ,
chiến sĩ ta luôn tu dưỡng, rèn luyện xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.
2.2. Vấn đề giáo dục, xây dựng nhân cách người quân nhân cách
mạng trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta
có nhiệm vụ mới hết sức nặng nề là phải đẩy mạnh được xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nêu cao tinh thần sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu, nhận và hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Điều đó, đòi hỏi phẩm chất nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” có sự phát triển mới.
Nhưng địi hỏi mới đó khơng làm thay đổi hoàn toàn những yếu tố cấu thành
trong mơ hình nhân cách cán bộ, chiến sĩ, mà cái mới là trong điều kiện, hoàn
15


cảnh mới đòi hỏi phẩm chất nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” cần được phát huy
phát triển ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, con người Việt Nam cũng
có những đặc trưng mới. Những phẩm chất nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” được
các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội kế thừa và phát triển. Tuy nhiên, những
mặt tiêu cực trong đời sống xã hội, sự phá hoại nhiều mặt trong chiến lược
“Diễn biến hồ bình” của kẻ thù, những biến đổi khó lường của tình hình thế
giới đã có tác động không nhỏ tới nhân cách cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho một
bộ phận cán bộ, chiến sĩ bị giảm sút về lập trường tư tưởng, đạo đức, lối

sống... ảnh hưởng tới nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”.
Do đó, để xây dựng, phát triển và hồn thiện nhân cách “Bộ đội Cụ
Hồ” trong mỗi cán bộ, chiến sĩ hiện nay cần quán triệt và thực hiện tốt những
vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải có nhận thức đúng đắn về sự phát triển nhân
cách quân nhân hiện nay. Quan điểm Mác xít khẳng định rằng, nhân cách
mang bản chất xã hội, một khi điều kiện, hoàn cảnh xã hội thay đổi thì nhân
cách con người cũng có những biến đổi cho phù hợp. Cho nên cần có nhận
thức đúng, có tư duy mới trong xem xét đánh giá nhân cách cán bộ, chiến sĩ
dưới tác động của cơ chế thị trường theo cơ chế xã hội chủ nghĩa hiện nay, từ
đó thấy được những mặt tích cực, mặt tiêu cực trong nhân cách quân nhân,
cũng như xu hướng biến đổi của chúng. Chúng ta khơng thể lấy tồn bộ các
giá trị nhân cách của thời kì chiến tranh như là khuôn mẫu cứng nhắc để vận
dụng đánh giá nhân cách cán bộ, chiến sĩ trong thời kì đổi mới hiện nay.
Thứ hai, xây dựng nhân cách quân nhân hiện nay, một mặt phải dựa
trên nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”, của các đặc trưng con người Việt Nam trong
thời kì mới, mặt khác phải tính đến cơ sở kinh tế xã hội, sự đòi hỏi của nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tính đặc thù của hoạt động quân sự.

16


Thứ ba, coi trọng giáo dục định hướng giá trị cho cán bộ, chiến sĩ trên
cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân
tộc, của Đảng, của Quân đội. Đồng thời quán triệt và vận dụng tốt tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng mơ hình nhân cách quân nhân.
Hiện nay, trong xã hội nói chung cũng như trong quân đội đang có sự
chuyển đổi thang giá trị và định hướng giá trị. Có những giá trị khơng cịn
phù hợp cần được loại bỏ. Có những giá trị cần được gìn giữ, có những giá trị
mới đang hình thành và phát triển có tác dụng chỉ đạo ý thức và hành vi của

các cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, cần phải xác định cho được các hệ thống
giá trị chuẩn làm cơ sở để giáo dục nhân cách quân nhân.
Trải qua chiến đấu và rèn luyện gian khổ trong đấu tranh cách mạng,
các thế hệ “Bộ đội Cụ Hồ” đã tạo nên một hệ thống các giá trị tinh thần tốt
đẹp. Đó là các giá trị: lịng trung thành, độc lập tự do, chiến thắng, yêu nước,
lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần tập thể kỉ luật, nhân ái... Những giá trị cao
quý này cần phải được kế thừa, đổi mới nâng cao chất lượng và được bổ sung
các thuộc tính mới mang yếu tố thời đại, làm cho cấu trúc nhân cách “Bộ đội
Cụ Hồ” giữa các thế hệ quân nhân, cũng như mỗi quân nhân khơng có sự tách
rời giữa các giá trị truyền thống và các giá trị hiện đại, giữa cái mới và cái cũ,
đảm bảo tính xuyên suốt, liên tục trong sự vận động và phát triển của nhân
cách quân nhân.
Thứ tư, xây dựng các tập thể quân nhân trở thành môi trường quân sự
lành mạnh là điều kiện thuận lợi để giáo dục, rèn luyện nhân cách cán bộ,
chiến sĩ. Trong các tập thể quân nhân, ngoài việc xây dựng các điều kiện vật
chất, tinh thần đảm bảo cuộc sống, hoạt động tốt cho quân nhân cần đặc biệt
chú trọng xây dựng để trở thành mơi trường chính trị, đạo đức, mơi trường
văn hố, mơi trường nhân văn... lành mạnh. Thơng qua đó giáo dục, rèn luyện
nhân cách qn nhân phát triển tồn diện. Trong mơi trường qn sự tốt đẹp,
lành mạnh làm cho các q trình xã hội hố cá nhân, cá nhân hoá xã hội mới
17


có thể diễn ra tốt đẹp, mới đem lại cho quân đội những nhân cách quân nhân
tốt đẹp phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong điều kiện lịch sử
mới.

18



KẾT LUẬN
Có thể nói, với những tác giả lỗi lạc và những cơng trình nghiên cứu
đa dạng, phong phú và chuyên sâu trên các mặt nhân cách, các nhà Tâm lý
học Xơ Viết đã có sự cống hiến to lớn đối với nền tâm lý học thế giới. Những
thành tựu đó khơng chỉ có ý nghĩa ở thời điểm đó mà nó cịn có giá trị định
hướng cho sự nghiên cứu, ứng dụng về nhân cách ở cả hiện tại và tương lai.
Đứng trên lập trường Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà Tâm lý học Việt
Nam đã có thái độ trân trọng, kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo những
quan điểm tư tưởng về nhân cách của các nhà Tâm lý học Xô Viết vào nghiên
cứu nhân cách ở Việt Nam. Vì vậy, nền Tâm lý học Việt Nam chịu ảnh hưởng
rất lớn bởi nền tâm lý học Xô Viết. Những luận điểm cơ bản của các nhà Tâm
lý học Xô Viết, sự vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của họ mãi
mãi là bài học cho những nhà Tâm lý học Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng
để các nhà Tâm lý học Việt Nam nghiên cứu và đề ra những phương hướng,
giải pháp xây dựng, phát triển nhân cách con người Việt Nam mới (trong đó
có người quân nhân cách mạng) đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích, Tâm lý học nhân cách, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội. 2000.
2. Đào Thị Oanh (chủ biên), Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học ngày
nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2007.
3. Hoàng Đình Châu (chủ biên), Tâm lý học quân sự, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội. 2005.
4. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội. 2004.
5. Phạm Minh Hạc - Lê Đức Phúc (chủ biên), Một số vấn đề nghiên
cứu nhân cách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2004.
6. Lại Ngọc Hải (chủ biên), Nghiên cứu định hướng giá trị nhân cách
đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội. 2002.
7. Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mạc Văn Trang, Giá trị - Định
hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Đề tài KX-07-04, Hà Nội. 1995.
8. Barry D. Smith & Harold J. Vetter, Các học thuyết về nhân cách,
Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội. 2005.

20



×