Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nhân tố con người trong cải cách hành chính nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.56 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HÀ QUANG TRƯỜNG

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HÀ QUANG TRƯỜNG

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết Học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG VĂN THỊNH

HÀ NỘI – 2006


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1


CHƯƠNG 1. VẤN ĐỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC................................................................................................. 10
1.1. Vai trò của nhân tố con người đối với hệ thống xã hội.................................. 10
1.2. Cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành chính nhà nước ở Việt
Nam ....................................................................................................................... 24
1.3. Sự tác động của con người tới cải cách hành chính nhà nước . ..................... 42
CHƯƠNG 2. CON NGƯỜI – NHÂN TỐ CHỦ THỂ CỦA Q TRÌNH CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY………………...... 46
2.1. Con người với việc hình thành chương trình cải cách hành chính nhà
nước. ...................................................................................................................... 46
2.2. Con người trong việc trực tiếp tổ chức thực hiện chương trình cải cách....... 52
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò chủ thể của con người trong cơng
cuộc cải cách hành chính nhà nước....................................................................... 58
2.4. Một số yêu cầu đặt ra đối với con người – chủ thể của cơng cuộc cải
cách hành chính nhà nước ..................................................................................... 68
KẾT LUẬN................................................................................................................ 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 91


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới xảy ra nhiều biến động
to lớn trên hầu khắp các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, kinh tế, xã hội và đạo
đức buộc con người phải tư duy lại về mình. Con người và nhân tố con người
trong sự phát triển kinh tế - xã hội trở thành vấn đề được cộng đồng thế giới
hết sức quan tâm, bàn luận sôi nổi. Không phải ngẫu nhiên triết lý con người là
trung tâm của sự phát triển của UNDP lại làm thoả mãn được thái độ của
nhiều cộng đồng, nhiều giới chức xã hội. Mọi nền văn hố, mọi tơn giáo, mọi
chính kiến… dù khác nhau đến mấy cũng đều thừa nhận và buộc phải thừa
nhận giá trị và vai trò quyết định điều phối mọi nguồn lực khác của con người

vì hạnh phúc của chính con người [47].
Đây là điều khác với tư duy về phát triển vốn nghiêng hẳn về khía cạnh
vật chất - kỹ thuật trước đây, khi mà người ta lầm tưởng rằng giải quyết được
vấn đề kinh tế là có thể khống chế được mọi vấn đề. Đã có nhiều trường phái
khác nhau thuộc cách tư duy trên. Các quan niệm khác về con người xã hội, về
con người chính trị cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết khi được ứng dụng trong
đời sống.
Để khắc phục những khiếm khuyết trên, những vấn đề triết học về con
người, triết lý về sự phát triển đã được nhiều nhà tư tưởng chú ý tìm kiếm.
Trong quá trình tìm đường đổi mới và cải cách cuối những năm 80, ở nhiều
quốc gia, đặc biệt là ở Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa,
nhân tố con người được coi là một khái niệm mới; nhiều quan điểm mới về con
người đã được bàn luận sôi nổi và cũng đã có những đề án thực tiễn rất tầm cỡ
được đề xuất. Người ta hiểu rằng, khơng thể có sự phát triển nếu con người
không được đặt đúng vào vị trí của nó trong guồng máy kinh tế xã hội [14]
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới mà chúng ta đang sống đã có những
thay đổi nhanh chóng và đặt ra hàng loạt vấn đề mang tính tồn cầu cần phải
giải quyết. Những diễn biến và chuyển đổi mau lẹ của thế giới đang đòi hỏi
1


các Nhà nước phải tư duy lại vai trò của mình, đưa ra được các chủ trương và
giải pháp đúng, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế,
xã hội bền vững. Nói khác đi, để có sự phát triển kinh tế xã hội năng động, bền
vững đòi hỏi nhà nước biến đổi, chuyển đổi chức năng phù hợp với sự phát
triển của đời sống xã hội. Nhà nước chú ý hơn vai trò xúc tác, khuyến khích và
bổ khuyết những hoạt động của thị trường và của xã hội. Phải xây dựng một
nhà nước khơng chỉ có hiệu lực mà phải có hiệu quả. Điều chắc chắn là: sự
phát triển về mặt kinh tế - xã hội do nhà nước khống chế (ví dụ như trong thời
kỳ bao cấp ở các nước XHCN) đã thất bại. Nhưng sự phát triển khơng có nhà

nước cũng đã thất bại - thể hiện quá rõ ràng qua sự đau khổ của nhân dân các
nước mà nhà nước đã sụp đổ như Libêria và Xơmali. Nếu khơng có một nhà
nước hiệu quả thì khơng thể có phát triển kinh tế và xã hội được. Và như vậy
cải cách nhà nước mà cụ thể là hoạt động cải cách hành chính nhà nước trên
tồn thế giới là một q trình tất yếu và trở thành một làn sóng trên phạm vi
thế giới kể từ cuối thế kỷ XX. Quá trình này làm cho mỗi nhà nước vẫn giữ
được bản chất của mình đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động nhà nước
cho khớp với khả năng của nó, tạo ra những cơ chế kích thích các cơng chức
làm việc tốt hơn, linh hoạt hơn, cũng như hình thành những cơ chế để kiềm
chế hành vi độc đoán và tham nhũng.
Nhận thức được những vấn đề nêu trên, từ những thập niên cuối thế kỷ
XX, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về phát huy nhân
tố con người và cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Vấn đề nhân tố con người và cải cách hành chính nhà nước vì sự phát
triển kinh tế - xã hội vốn dĩ là những vấn đề lớn, thường được nghiên cứu tách
rời nhau. Tuy nhiên nghiên cứu về con người để phát huy nguồn lực con người
và hoạt động cải cách hành chính nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta có mối liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau. Đó là yêu cầu tất
yếu cho sự phát triển con người bền vững để phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời cũng là mục đích, là cơ sở và tiêu chuẩn của hoạt động cải cách hành
2


chính nhà nước trước sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hố. Có
thể nói con người đóng vai trị quyết định ở “đầu vào”, trong tồn bộ q trình
phát triển và ở cả “đầu ra”. Đặt trong hoạt động cải cách hành chính nhà nước,
ở “đầu vào” - con người là nhân tố tác động hình thành nên nhu cầu phải cải
cách hành chính, là người trực tiếp xây dựng nên các chương trình kế hoạch
cho việc cải cách hành chính; trong q trình - con người, mà cụ thể ở đây là
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quản lý, lãnh đạo, điều hành, vận hành

bộ máy hành chính là người trực tiếp tổ chức thực hiện thành cơng chương
trình, kế hoạch cải cách; ở “đầu ra”, chất lượng sống, sự phát triển hạnh phúc
của con người phải là mục tiêu hướng tới của chương trình, kế hoạch cải cách
hành chính nhà nước. Con người luôn là nhân tố quyết định là động lực của
tồn bộ q trình cải cách hành chính.
Việc xác định vấn đề nhân tố con người trong cải cách hành chính nhà
nước, xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân là một nhiệm vụ
do thực tiễn đặt ra. Đây là một vấn đề bức thiết nhưng cịn để ngỏ vì về mặt lý
luận, vấn đề con người, nhân tố con người cho phát triển bền vững vì tương lai
lồi người mới được nhận thức lại trong một vài thập kỷ gần đây, cịn hoạt
động cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam mới thực sự chịu những sức ép
lớn từ yêu cầu đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ hố đời sống chính trị của
xã hội, nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân và yêu cầu phát
triển kinh tế, ổn định chính trị trong quá trình hội nhập tồn cầu hố mới có
chục năm trở lại đây. Do đó, việc nghiên cứu lý luận về nhân tố con người
trong cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam, làm rõ bản chất, đặc thù của
mối quan hệ biện chứng của nhân tố con người và cải cách hành chính nhà
nước, tham gia giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, đồng thời góp phần
làm rõ những vấn đề lý luận chung về con người - một vấn đề cần được nghiên
cứu ở Việt Nam hiện nay. Đó chính là những lý do để tác giả chọn vấn đề
“Nhân tố con người trong cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài cho luận văn thạc sĩ triết học.
3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nhân tố con người trong hoạt động cải cách hành chính cho đến
nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu trực tiếp, nhưng xung quanh vấn đề con
người và cải cách hành chính nhà nước đã có nhiều cơng trình được công bố.

Một trong những lĩnh vực khoa học và thực tiễn quan tâm nhiều nhất
đến nhân tố con người là tổ chức và hành chính – quản lý nhà nước. Ngồi
việc coi con người là nguồn lực lao động đóng góp và tạo ra sự tăng trưởng,
khoa học về hành chính rất coi trọng triết lý về con người và những giá trị
nhân văn do hoạt động này liên quan trực tiếp tới các mối quan hệ giữa con
người với con người và sự phát triển của mỗi con người nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ chức, quản lý.
Việc nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực theo quan điểm phát triển tổ
chức, quản lý tập trung đảm bảo mối quan hệ bên trong giữa các đơn vị và các
quá trình, giữa các cá nhân và nhóm để tác động đến tổ chức như một chỉnh
thể đã được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Hiện nay, các nhà khoa học
xã hội và quản lý ở Việt Nam đều biết tới cơng trình nghiên cứu lớn về vấn đề
này của hai học giả Marquardt và Enghel với tựa đề Phát triển nguồn nhân lực
toàn cầu (1993 Marquardt, M., Engel, D. (1993), Global Human Resource
Development,

Human

Resource

Development

Series,

Prentice-Hall,

Englewood Cliffs,). Ngồi ra cũng cịn có hai cơng trình lớn khác của các tác
giả Nadler L & Nadler Z. 1990 là cuốn Sổ tay về phát triển nguồn nhân lực
(Nadler, L. & Nadler, Z. (1990). The handbook of human resource
development, second edition. New York: John Wiley & Sons. Phillips) và

Hướng dẫn về phát triển nguồn nhân lực của mọi nhà quản lý (Nadler, L. &
Nadler, Z. 1992, Every Manager’s Guide to Human Resource Development,.
Jossey-Bass Inc., San Francisco, CA. Nelson-Jones, R. 1991). Cả hai tác phẩm
này cũng đều tập trung làm rõ vấn đề con người trong những hệ thống tổ chức.
Ở Việt Nam, những luận điểm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người được khẳng định là cơ sở phương pháp luận khoa học chỉ đạo trong
4


việc nghiên cứu con người và phát triển nguồn lực con người trong công cuộc
đổi mới đất nước tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng và làm rõ. Trong văn
kiện đại hội lần thứ VII của Đảng có viết: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát triển” [11]. Tiếp tục một
cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ đổi mới, đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “xã hội ta là xã hội vì con
người và coi con người ln ln giữ vị trí trung tâm của phát triển kinh tế,
văn hoá và xã hội, chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá”[13].
Những chủ trương đúng đắn của Đảng đã tạo điều kiện cho những
nghiên cứu lớn về con người, phát huy, phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều cơng trình nghiên cứu có chiều
sâu về con người ở Việt Nam thời gian gần đây được đăng tải trên các phương
tiện thông tin đại chúng đã phần nào tháo gỡ những khó khăn trong các vấn đề
lý luận về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực.
Một số cơng trình như: Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001 của tác
giả, GS.VS. Phạm Minh Hạc đã góp phần xây dựng các quan điểm trong chiến
lược con người trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Thanh về Phát triển nguồn nhân lực phục
vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Tái bản) 6/2005 đã trình bày khái
quát quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực; chỉ rõ thực
trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và phân tích một số định hướng chủ
yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho cơng nghiệp hóa,

5


hiện đại hóa trên cơ sở lấy phát triển giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng
đầu”.
Các cơng trình của Viện nghiên cứu con người được công bố từ năm
2000 đến nay về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực đã góp phần xây
dựng và hồn thiện các quan điểm tiếp cận nghiên cứu sự phát triển con người,
các nhận định khoa học về khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lực con người
cùng các đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Nhìn chung, các nghiên cứu về con người hiện nay đã và đang xây dựng
và hoàn thiện cơ sở lý luận chung về vị trí và vai trị của con người trong các
q trình xã hội. Ngồi ra, do u cầu về tăng trưởng và phát triển kinh tế nên
phần lớn các nghiên cứu về con người và nguồn lực con người đang nghiêng
về phía tập trung làm rõ yêu cầu về nhân lực trong hoạt động tổ chức, quản lý
kinh tế. Đối với hoạt động cải cách hành chính nhà nước, do tính chất mới của
vấn đề trong q trình hội nhập tồn cầu hóa cùng với đặc thù của từng quốc
gia và vùng lãnh thổ nên nghiên cứu con người trong cải cách hành chính nhà
nước là một vấn đề hồn tồn cịn bỏ ngỏ.
Ở Việt Nam, vấn đề nhân tố con người trong cải cách hành chính nhà
nước cũng nằm trong tình trạng tương tự. Bản thân khái niệm cải cách hành
chính nhà nước cũng chỉ mới được sử dụng rộng rãi trong một vài năm trở lại

đây. Đối với vấn đề nhân tố con người trong cải cách hành chính, trong các
văn kiện quan trọng của Đảng về cải cách hành chính cũng như trong Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 của Chính
phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày
17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã được đề cập tới như là một nội
dung của chương trình cải cách hành chính.
Trong vài năm trở lại đây, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học và
quản lý đã cơng bố nhiều cơng trình về hoạt động hành chính và cải cách hành
chính ở nước ta. Đáng chú ý là nghiên cứu về Cải cách hành chính nhà nước;
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp do TS. Thang Văn Phúc (chủ biên), Nxb
6


Chính trị quốc gia HN – 2001. Giáo trình Tổ chức nhân sự hành chính nhà
nước của Học viện hành chính quốc gia 2002. Tài liệu Quản lý hành chính nhà
nước – Hành chính nhà nước và cơng nghệ hành chính, Nxb giáo dục 2004.
Sách tham khảo về Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước
trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia HN - 2004 …cùng nhiều nghiên cứu khác.
Tất cả những nghiên cứu trên về cơ bản đều chú trọng đến hoạt động cải
cách hành chính nhà nước trong đó có lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn
nhân lực căn cứ trên thực trạng đội ngũ cán bộ cơng chức để hồn thiện tổ
chức nhân sự hành chính nhà nước.
Có thể nói, những nghiên cứu trên là những tài liệu tốt để tác giả tiếp thu
phát triển trong luận văn của mình
Tuy nhiên, một cơng trình khái qt lý luận, xun suốt hoạt động để cụ
thể hóa vị trí và vai trị của con người trong cải cách hành chính nhà nước ở
Việt Nam chưa được thực hiện. Đó cũng là những căn cứ đầy đủ cho sự hình
thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn:

Làm rõ những vấn đề lý luận về con người với vai trò là nhân tố chủ thể
của hoạt động cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay; từ đó đề
xuất các quan điểm nhằm phát huy vai trò nhân tố con người phù hợp với u
cầu của cơng cuộc cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Khái quát lại những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin
về vai trò của nhân tố con người đối với hệ thống xã hội. Phân tích làm rõ cải
cách hành chính nhà nước là hoạt động hướng đích của con người và tính tất
yếu của hoạt động cải cách hành chính nhà nước trong thời đại ngày nay.

7


+ Phân tích và khẳng định con người là nhân tố quyết định của mọi quá
trình đổi mới và cải cách. Làm rõ vai trò của con người với tư cách là chủ thể
q trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam.
+ Đề xuất các quan điểm nhằm phát huy vai trò nhân tố con người phù
hợp với u cầu của cơng cuộc cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vai trò nhân tố con người được thể hiện trên hai phương diện: chủ thể
và khách thể của quá trình cải cách hành chính nhà nước. Do khn khổ có
hạn, luận văn sẽ chỉ tập trung nghiên cứu về con người với tư cách là chủ thể
trong hoạt động cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam, mà khơng đề cập
tới phương diện khách thể của nó.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa vào lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về con người, về
nhà nước và cải cách hành chính nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, đối chiếu và so sánh.

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ các vấn đề lý luận về con người trong hệ thống hành
chính, tập trung làm rõ vai trị nhân tố con người trong hoạt động cải cách
hành chính; chỉ ra những hạn chế, những nhân tố ảnh hưởng đến vai trị của
con người trong tiến trình này; đề xuất những quan điểm nhằm phát huy tốt
hơn vai trò của con người trong q trình cải cách hành chính.
Luận văn tham gia củng cố nhận thức về chiến lược phát triển con người
Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

8


- Về lý luận, luận văn góp phần phát triển lý luận về con người cho công
cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam
- Về thực tiễn, luận văn góp phần vào việc nhận thức và thúc đẩy q
trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu
có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu làm 2 chương, 7 tiết.

9


CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Cải cách hành chính nhà nước là một hoạt động xã hội. Đối tượng của

nghiên cứu này là nhân tố con người trong cải cách hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay. Song trước khi nói đến vấn đề cụ thể nêu trên, cần phải
làm sáng tỏ vấn đề nhân tố con người và hoạt động khẳng định vai trò trung
tâm của nhân tố này trong xã hội.
1.1. Vai trò của nhân tố con người đối với hệ thống xã hội
1.1.1. Con người - nhân tố quyết định hợp thành hệ thống xã hội
Lịch sử phát triển của khoa học đã thừa nhận: triết học là khoa học đầu
tiên nghiên cứu về các hệ thống. Trong nền triết học cổ đại Hy Lạp, Arixtốt đã
nghiên cứu khái niệm hệ thống mà về sau Kant và Hêghen phát triển. Đến giữa
thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác đã trình bày đầy đủ những nguyên tắc nhận thức
khoa học đối với các hệ thống phát triển hồn chỉnh. Theo đó, bất kỳ một
khách thể nào trong thế giới hiện thực cũng là một hệ thống, nghĩa là nó bao
gồm những bộ phận, những yếu tố cấu thành.
Xã hội cũng chính là một hệ thống. Xã hội cũng có những đặc trưng cơ
bản của hệ thống như: (l) gắn liền với một hình thức tổ chức nhất định. (2) bao
gồm nhiều tiểu hệ, nhiều yếu tố. Mỗi tiểu hệ, mỗi yếu tố ấy vừa là một thành tố
của hệ thống lớn hơn, vừa là một hệ thống của những yếu tố thấp hơn. (3) Mỗi
kết cấu thứ bậc trong hệ thống (tiểu hệ) quy định các phương thức hoạt động
riêng của nó, cịn sự hoạt động của tồn xã hội là kết quả của sự tác động qua
lại giữa các mặt, các kết cấu thứ bậc hợp thành. Xã hội với tính cách là một hệ
thống chỉnh thể có những thuộc tính mới, chất lượng mới, những cái vốn
khơng có ở các yếu tố và các bộ phận hợp thành. Ngoài ra, hệ thống xã hội cịn
có một đặc trưng khác là tính tự điều chỉnh và điều khiển trên cơ sở thu thập,
tàng trữ, chế biến và xử lý thông tin nhằm đạt đến những mục đích nhất định.
10


Với tính chất như vậy, xã hội là một hệ thống cực kỳ phức tạp, được tạo thành
bởi những tiểu hệ thống có trình độ phát triển và tổ chức khác nhau. Các hệ
thống cơ sở tạo thành tiểu hệ thống và toàn xã hội là: vật chất, các quá trình,

tinh thần và con người.
Các vật với tính cách là một thành tố của hệ thống xã hội, là những biểu
hiện cụ thể của vật chất được đưa vào đời sống xã hội. Đó là tồn bộ những
đối tượng của giới tự nhiên dưới sự tác động của con người đã trở thành giới
“tự nhiên thứ hai”. Con người sử dụng “cái tự nhiên” này trong các hoạt động
sản xuất, hoạt động xã hội – chính trị và tinh thần. Tuy nhiên, các đối tượng
của tự nhiên thứ hai không vì thế mà mất đi bản chất khách quan của nó, vì tất
cả các vật đó đều được tạo ra từ các chất của giới tự nhiên và theo những quy
luật của sự phát triển vốn có của nó. Các vật đó dù được xem là những hiện
tượng xã hội, tham gia vào quỹ đạo của đời sống xã hội nhưng không phải với
tư cách tự thân mà luôn là những sản phẩm của lao động cụ thể, là những giá
trị sử dụng cụ thể, ở trong sự liên hệ với hoạt động của con người và là phương
tiện để thoả mãn các nhu cầu của con người.
Như vậy, chỉ có gắn liền với hoạt động của con người, làm thoả mãn
những nhu cầu của con người, các vật mới trở thành yếu tố hợp thành của hệ
thống xã hội. Sự thống nhất giữa hai mặt tự nhiên và mặt xã hội trong một vật
thể khẳng định nó đã qua thực tiễn hoạt động của con người. Ngoài ra, trong
những điều kiện của sản xuất hàng hoá, đồ vật đã trở thành một khách thể của
sự sở hữu; lúc này đồ vật với tư cách là sản phẩm dùng để trao đổi thể hiện
nhiều mặt tích cực, năng động với vai trò là chức năng của hệ thống xã hội, nó
khơng chỉ đơn thuần là đồ vật với chức năng theo nghĩa đen nữa mà là một
quan hệ xã hội nhằm quy định địa vị của một giai cấp hay một tập đoàn người
này đối với một giai cấp hay một tập đoàn người khác trong việc tổ chức sản
xuất cũng như phần tư liệu sinh hoạt nhận được.
Cũng cần phải thấy rằng, con người cũng là một thực thể tự nhiên, là
một vật có tính vật chất, con người là một sinh vật. Nhưng con người là một bộ
11


phận, một yếu tố hợp thành của hệ thống xã hội hồn chỉnh khơng phải ở cái

bản chất sinh vật của nó, mà với tư cách là một động vật xã hội. Con người
sinh học thì khơng cần sự thừa nhận, con người xã hội phải được sự thừa nhận
của người khác [49, 27].
Khi nêu lên tính vật chất của các yếu tố hợp thành nhất định của chỉnh
thể xã hội, cần phải thấy rằng các vật thể đều có một vị trí, đều mang một chức
năng xã hội nhất định trong hệ thống phát triển hoàn chỉnh ấy. Những vật thể,
nếu nằm ngoài mối liên hệ với con người, tức là không được đưa vào trong
phạm vi của hoạt động xã hội, thì khơng phải là một bộ phận của cái chỉnh thể
xã hội. Trong xã hội, các đồ vật với tư cách là yếu tố hợp thành xã hội khơng
thể có một đời sống riêng tự chúng, tách khỏi con người nhận thức chúng, làm
chủ chúng, sản xuất ra chúng và dùng chúng để thoả mãn nhu cầu của mình.
Chức năng xã hội của các đối tượng vật chất nhất thiết phải được biểu hiện qua
con người, qua các quan hệ giữa người với người.
Các quá trình xã hội – kinh tế, xã hội chính trị cũng tạo thành một nhóm
yếu tố của hệ thống xã hội phát triển hồn chỉnh.
Các q trình xã hội chính là sự thay thế nối tiếp nhau giữa các trạng
thái của xã hội nói chung hoặc của các hệ thống con trong những khn khổ
của nó. Q trình này diễn ra dưới tác động của những điều kiện bên trong và
bên ngoài, theo quy luật chung, có một trật tự và theo một chiều hướng nhất
định. Các q trình có thể là tiến bộ, trung hồ hay thối bộ song mọi q trình
xã hội tất yếu phải gắn với hoạt động của con người, của các tập đoàn xã hội
và của các giai cấp. Tất cả các quá trình xã hội, xét đến cùng đều biểu hiện ra
qua hoạt động của con người dù chúng tuân theo những quy luật khách quan
[Xem: 2, 14 – 15].
Những yếu tố mang bản chất tinh thần – những tư tưởng xã hội cũng gia
nhập và trở thành bộ phận cấu thành của hệ thống xã hội.
Những tư tưởng xã hội, là những cái tồn tại khơng phải tự nó. Tư tưởng
chính là cái hình thức phản ánh thế giới bên ngồi, trong đó bao hàm sự ý thức
12



về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên
ngoài; tư tưởng nhất thiết phải tồn tại trong những con người, trong ý thức của
con người. Tư tưởng khái quát hoá kinh nghiệm, tổng hợp sự phát triển tri thức
trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện tượng. Tư tưởng
được con người sáng tạo ra, tiếp thu và truyền bá. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin thì mọi tư tưởng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nhưng tư
tưởng không chỉ đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách quan, nó cịn xác
định con đường để cải tạo thế giới khách quan. Chính con người được chỉ đạo
bởi các tư tưởng trong các hoạt động của mình, trong các quan hệ của mình đối
với các sự vật, với các quá trình xã hội và với nhau. Vì vậy, trong nội dung của
bất kỳ tư tưởng nào cũng đều ẩn chứa đằng sau nó việc đề ra mục đích và quy
định nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Sự thể hiện tư tưởng vì thế bao giờ
cũng bao hàm những lợi ích, những nhu cầu nhất định của con người tương
ứng với những nhu cầu của hệ thống xã hội mà con người thuộc vào. Tuy
nhiên, tư tưởng tự bản thân nó khơng thể có tác dụng gì tới hiện thực. C.Mác
đã nhấn mạnh: “tư tưởng xưa nay, khơng thể đưa người ta vượt ra ngồi trật tự
thế giới cũ được, trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa
người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật
vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư
tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [35, 181].
Trong xã hội hồn tồn khơng phải lúc nào cũng có thể vạch rõ ranh giới
giữa các yếu tố sự vật, quá trình, tinh thần và con người bởi mọi yếu tố của hệ
thống xã hội bao giờ cũng đóng vai một quan hệ. Bất kỳ một sự vật, một đối
tượng, một tư tưởng nào cũng đồng thời là một quá trình. Nhưng bất kỳ yếu tố
nào của hệ thống xã hội cũng đều gắn bó với con người, đều nói lên tính tích
cực xã hội của con người. Do đó, con người được xem như là một thực thể xã
hội, thành tố chủ yếu của bất kỳ hệ thống thực thể xã hội khác.
Con người đóng vai trò quyết định trong cấu trúc, trong tổ chức nội bộ
của hệ thống xã hội, mà xã hội là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và

13


những quan hệ của các cá nhân với nhau. Cũng vì con người là yếu tố chủ yếu
của bất kỳ hệ thống xã hội nào, nên quan hệ giữa người với người, mà trước
hết là các quan hệ sản xuất sẽ là yếu tố cơ bản trong cơ cấu của hệ thống xã
hội đó. Trong thực tế, con người tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa và tinh thần. Mỗi lĩnh vực cụ thể
của đời sống xã hội có những cơ cấu đặc thù. Mỗi cơ cấu này có những đặc
điểm riêng nhưng vẫn bị quy định trước hết bởi những hình thức sở hữu hiện
đang thống trị trong xã hội. Cơ cấu chỉnh thể xã hội do vậy không chỉ là những
quan hệ trực tiếp giữa người với người. Quan hệ giữa các vật có bản chất xã
hội cũng là những yếu tố của cơ cấu xã hội. Những yếu tố cơ cấu xã hội được
biểu hiện cả trong quan hệ của con người với các vật, cụ thể là với các tư liệu
sản xuất, tức là trong các hình thức sở hữu. Cơ cấu xã hội cũng có thể là những
quan hệ của con người với các tư tưởng; đó là q trình xây dựng, truyền bá,
lĩnh hội các tư tưởng bởi những tập đoàn người, bởi những giai cấp nào đó...
Cũng có cả các quan hệ giữa tư tưởng với tư tưởng; khi chúng đều nằm trong
một mối liên hệ nhất định, trong một quan hệ nhất định. Những quan hệ thuộc
các lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh
thần và nhiều quan hệ thuộc các lĩnh vực xã hội khác nữa đòi hỏi con người
phải giao tiếp, quan hệ với yếu tố vật chất, qua các quá trình, bằng yếu tố tinh
thần v.v., tức là gián tiếp để trao đổi với người khác, đó cũng đều là những yếu
tố của cơ cấu xã hội.
Như vậy, cơ cấu của xã hội có tính đa dạng, được biểu hiện trong nhiều
mối liên hệ và quan hệ khác nhau và dù các yếu tố có liên hệ như thế nào, các
cơ cấu có biểu hiện dưới hình thức nào trong hệ thống xã hội thì tất yếu nó
cũng phải thơng qua hành vi của con người. Nói khác đi, bất cứ cơ cấu nào,
quan hệ nào trong xã hội cũng đều hình thành từ những hành vi của con người,
trong mối quan hệ với con người cho dù con người có ý thức được điều đó hay

khơng. Do vậy, khơng thể tách các cơ cấu xã hội khỏi con người và xem nó
như là một cái gì đó hết sức trừu tượng và tự thân. Mọi vật, mọi quá trình, mọi
tư tưởng xã hội đều nằm trong sự liên hệ với con người, làm nên những mối
14


quan hệ giữa con người với con người, tạo nên quan hệ xã hội.
Như vậy là trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, con người cũng là nhân tố
chủ yếu, quyết định.
Với cách nhìn nhận duy vật về lịch sử, cùng cách tiếp cận hệ thống về
con người, tức là coi con người là nhân tố quyết định hợp thành hệ thống xã
hội hoàn toàn xa lạ với quan niệm tuyệt đối hoá con người - cái quan niệm coi
con người là “tâm điểm của sự sáng tạo, con người là sinh vật đồng nhất với
tạo hoá, nghĩa là cũng có thể sáng tạo và trở thành trung tâm của vũ trụ”[54]
và “phương thức giải quyết các vấn đề triết học xuất phát không phải từ thế
giới đến con người, mà ngược lại từ con người đến thế giới”. Con người là
sáng tạo, nhưng là sự sáng tạo trên cơ sở của sự tồn tại của thế giới khách quan.
Con người là “trung tâm” của hệ thống xã hội đơn giản vì con người gắn kết
hữu cơ với hệ thống ấy. Thông qua hệ thống xã hội con người mới có được bản
chất xã hội của mình. “… Con người bẩm sinh đã là một động vật xã
hội…Nếu như con người bẩm sinh đã là một sinh vật có tính xã hội thì do đó
con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình trong xã hội và
cần phải phán đốn lực lượng của bản tính, của anh ta không phải căn cứ vào
lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội” [35,
199 - 200].
Quan niệm duy vật lịch sử về vai trò quyết định con người trong xã hội
cũng hoàn toàn xa lạ với những quan điểm khác nhau của thuyết nguyên tử
luận về xã hội. Xuất phát từ thuyết nguyên tử trong tự nhiên, bằng sự nâng đỡ
của thực nghiệm, thuyết nguyên tử luận về xã hội đã được nhiều nhà triết học,
chính trị học xem như là khuôn thuớc thông dụng của việc xem xét, đánh giá

về xã hội. Triết gia chính trị thế kỷ 17, John Locke dùng nguyên tử làm kiểu
mẫu để xem xét mỗi cá nhân như một đơn vị cơ bản của xã hội. Tất cả học
thuyết chính trị phóng khống thời đó đều chủ trương xã hội - nghĩa là một
nhóm, một tổ chức - ln có thể đuợc giản lược thành một tập hợp của mỗi cá
thể đơn lẻ. Adam Smith dùng kiểu mẫu này trong học thuyết kinh tế của ông để
15


giản luợc mọi sinh hoạt kinh tế đại quy mô thành những hành vi kinh tế cá thể.
Theo những lý thuyết gia chính trị, kinh tế tự do thì cá nhân giống như nguyên
tử trong một hợp chất, không hề đổi thay bởi bất kỳ kết hợp xã hội hay liên hệ
nào. Khi thừa nhận những cố gắng của A. Smith và các đại biểu khác lúc bấy
giờ trong việc giải quyết vấn đề quan hệ “con người – xã hội”, C. Mác đã chỉ
ra những hạn chế của cách giải quyết đó, ơng cho rằng đó chỉ là những cố gắng
“ ảo tưởng, và đó chẳng qua chỉ là ảo tưởng đẹp đẽ của những chuyện
Robinsơn lớn nhỏ” [37, 854] “Các nhà tiên tri ấy” theo cách gọi của C.Mác
không muốn hiểu rằng: con người đương thời của họ không phải là do tự nhiên
tạo nên, mà là sản phẩm của lịch sử. Con người đó được họ quan niệm không
phải như là kết quả mà như là điểm xuất phát của lịch sử. Những nhà tư tưởng
này đã quên mất lịch sử, quên mất nguyên nhân thực tế đã làm xuất hiện con
người đó và như vậy hữu ý hay vơ tình họ đã xem con người như là điểm khởi
nguyên và kết thúc quan điểm lịch sử của họ.
Trong lĩnh vực tâm lý, Sigmund Freud cũng dùng kiểu mẫu nguyên tử
khi viết về các đối tuợng liên hệ. Theo ông, mỗi cá nhân, chủ yếu và không hề
thay đổi bên trong qua sự liên hệ. Cá nhân không hề "đi vào trong" lẫn nhau.
Chúng liên hệ như những vật thể riêng biệt, chúng va chạm và nẩy văng theo
con đuờng riêng của chúng. Dù Sigmund Freud không phủ định mối liên hệ
giữa cá nhân và xã hội, ảnh hưởng của xã hội với cá nhân, nhưng cái ảnh
hưởng ấy lại được quy về những sự cấm đoán cùng những yêu cầu xã hội mà
con người phải chịu đựng như một cái gì xa lạ và thù địch với mình. Và để xoa

dịu những xung đột thường xuyên giữa cá nhân và xã hội, tâm lý của con
người có một cơ chế bảo vệ đặc biệt nhằm hoặc là bảo đảm sự biểu hiện những
bản năng dưới một hình thức xã hội có thể chấp nhận được, hoặc là dồn nén
những ý muốn không được phép thực hiện vào trong lĩnh vực vô thức.
Những người theo thuyết Tômát mới cũng khẳng định tính ưu tiên của
con người so với xã hội. Họ không phủ nhận một thực tế là con người khơng
thể tồn tại bên ngồi xã hội. Con người là một sinh vật, phần vật chất tức thể
16


xác bị chi phối, lệ thuộc vào những quy luật tự nhiên (quy luật của thế giới vật
chất) và những quy luật xã hội – tức là lệ thuộc vào lịch sử, vào đời sống trong
việc hình thành và phát triển về mặt sinh học. Nhưng chừng nào đối với họ
từng linh hồn con người còn là khách thể được thượng đế sáng tạo, thì cơ sở
của xã hội vẫn là con người; nhất là vì Thượng đế đã ban cho con người đó cái
giá trị cá nhân khơng thể tách rời và bất khả xâm phạm và nâng con người lên
trên xã hội. Về điều này Jacques Maritain một trong những nhà lý luận nổi
tiếng nhất của chủ nghĩa Tơmát mới đã nói rõ: Con người được tạo ra bằng vật
chất và tinh thần, phần thể xác có thể trong q trình tiến hóa của lịch sử bắt
nguồn từ hình thức động vật mà ra, nhưng linh hồn bất tử thì do thượng đế ban
cho. Và ơng nhấn mạnh: “chính linh hồn là cơ sở của nhân cách”. Do đó mọi
kết cấu, mọi hình thái tổ chức của con người, bản chất con người được nảy
sinh từ quan hệ giữa con người và thiên chúa là căn bản [20, 276].
Tất cả những quan điểm của thuyết nguyên tử luận xã hội đều bác bỏ
một sự thật mà khoa học đã khẳng định là: con người là sản phẩm của một xã
hội cụ thể, là sản phẩm của lịch sử. C.Mác đã viết: “Càng đi ngược lại lịch sử,
chúng ta càng thấy cá nhân – và do đó cá nhân sản xuất cũng vậy – thể hiện ra
là bị lệ thuộc, là một thành viên của tổng thể lớn hơn: lúc đầu cá nhân đó gắn
liền một cách hồn tồn tự nhiên với gia đình và với gia đình đã phát triển
thành thị tộc; sau đó thì gắn liền với cơng xã dưới những hình thức khác nhau,

sản sinh ra do sự đụng độ và hợp nhất giữa các thị tộc. Chỉ mãi tới thế kỷ
XVIII, trong “xã hội công dân”, các hình thức khác nhau của mối liên hệ xã
hội mới thể hiện ra đối với con người riêng rẽ như là một công cụ để thực hiện
những mục đích riêng rẽ của nó, như một tất yếu bên ngoài. Nhưng thời đại
sản sinh ra quan điểm này – cái quan điểm cá nhân riêng lẻ - lại chính là thời
đại của những liên hệ xã hội phát triển nhất (đứng trên quan điểm ấy thì chung
nhất). Con người theo nghĩa đen của nó, là một động vật xã hội khơng những
là một động vật có tính hợp quần, mà cịn là một động vật chỉ có thể tách riêng
ra trong xã hội mà thôi” [37, 855].

17


Như vậy, con người chính là nhân tố hợp thành hệ thống xã hội ở tất cả
các phương diện. Với tính chất như vậy, con người khẳng định được vị trí chủ
thể của mình trong mọi q trình xã hội. Tất cả những cố gắng ở nhiều học
phái nhằm phủ nhận hay hạn chế và hạ thấp vai trò của nhân tố thực thể này
đối với hệ thống xã hội chỉ là những hành động chủ quan, duy ý chí hoặc là
một sự trừu tượng hóa con người khỏi đời sống hiện thực.
1.1.2. Con người – chủ thể sáng tạo đời sống xã hội
• Hoạt động của con người trong xã hội
Nói đến vai trị của con người là nói đến hoạt động của con người.
Không phải con người trừu tượng mà chính là con người cụ thể với những hoạt
động của nó sáng tạo ra đời sống xã hội và làm nên lịch sử. Hoạt động của con
người rất phong phú, đa dạng. Nội dung, hình thức hoạt động của con người
phát triển trong mối liên hệ khăng khít với những điều kiện lịch sử cụ thể, theo
tính chất, trình độ, giai đoạn phát triển của xã hội. Các hoạt động sinh sống của
con người mang tính kế thừa và tính gián đoạn trong sự mở rộng phạm vi và
ngày càng tăng thêm về chất. Mỗi thế hệ người mới một mặt: “ tiếp tục cái
hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và

mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hồn tồn thay
đổi” [36, 65].
Thơng qua tính chất tích cực, có mục đích cải tạo của hoạt động, con
người một mặt tự khẳng định mình với tính cách là một hệ thống hoàn chỉnh,
mặt khác thể hiện vai trò là nhân tố quyết định tạo lập hệ thống xã hội, thể hiện
vai trò chủ thể xã hội của mình.
Như vậy, hoạt động của con người mang tính chủ quan; con người là
chủ thể của hoạt động. Đồng thời hoạt động của con người lại có tính khách
quan bởi nó bị chi phối bởi hồn cảnh mà nó sống trong đó và bởi khách thể
mà nó hướng tới. Khách thể mà con người tác động là cái đối lập với chủ thể
trong hoạt động thực tiễn cụ thể, trong các q trình xã hội, chính trị và tinh
thần, là cái được con người biến đổi trong hoạt động. Giữ vai trò khách thể
18


trước hết là các vật thể vật chất, các khách thể của giới tự nhiên cũng như của
giới tự nhiên “thứ hai”, nhân tạo. Quan trọng hơn, cịn có các khách thể mang
tính chất xã hội - chính trị; là tổ chức xã hội của xã hội và các thể chế chính trị
của nó. Và tất yếu, khách thể cũng có thể là những hiện tượng mang tính chất
tinh thần, tư tưởng, những ý thức riêng của con người, của chủ thể trong chừng
mực con người đóng vai trị là đối tượng của sự phân tích, nghiên cứu.
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, hoạt động cải tạo
cho nên có thể nói rằng con người khơng đơn thuần chỉ thích nghi với khách
thể, với mơi trường mà cịn làm thay đổi nó cho phù hợp với những lợi ích và
nhu cầu của mình. Con người tách mình ra khỏi mơi trường, khách thể khi
xem nó như là đối tượng của hoạt động. Cái khách thể được tạm coi là độc lập
với chủ thể vì nó là thực tế, tồn tại chứ không phải là sản phẩm được tạo ra bởi
trí tưởng tượng của chủ thể. Đồng thời tính độc lập ấy là tương đối, bởi chủ thể
tác động qua lại với khách thể, và biến đổi khách thể. Chủ thể là mặt tích cực
của sự tác động qua lại “ khách thể - chủ thể”. Song cả tính tích cực ấy cũng là

tương đối, bởi chủ thể được sản sinh ra từ một tổng hòa của những khách thể
trong đó chủ thể hoạt động. Trong khi tác động, biến đổi khách thể, bản thân
con người cũng bị thay đổi do sự tác động ngược lại của khách thể.
Với tính cách là một hệ thống hồn chỉnh, con người và hoạt động của
con người trong hệ thống xã hội chịu sự tác động của cả những điều kiện
khách quan và những nhân tố chủ quan. Điều đó là do:
Thứ nhất, hoạt động chủ quan của con người khách thể hóa những tư
tưởng, những ý nghĩ, biến chúng thành đối tượng của thế giới thứ hai, thành
những công cụ, những phương tiện sản xuất, thành những đồ dùng.
Thứ hai, bản thân con người cũng là khách thể theo nghĩa nó được đối
tượng hóa, là hình thái có tổ chức cao nhất của vật chất, đồng thời cũng theo
nghĩa là khách quan đối với bất kỳ người nào khác. Bản chất của con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội cũng là khách quan.
Thứ ba, cùng một khách thể, một hiện tượng, một q trình.v.v..hay nói
19


cách khác là một tiểu hệ nào đó trong hệ thống xã hội ở điều kiện này, với mối
quan hệ này là thuộc vào những điều kiện khách quan, còn trong những điều
kiện khác, trong mối liên hệ khác lại thuộc vào nhân tố chủ quan. Tất cả những
điều kiện, những mối quan hệ, liên hệ đều là sản phẩm trực tiếp hay gián tiếp
của hoạt động của con người.
Căn cứ trên vị trí và vai trị của con người trong hoạt động tương tác đa
chiều với các thành tố vật chất, các quá trình xã hội, tinh thần và với chính con
người trong hệ thống xã hội cho phép khái quát thành ba loại hoạt động chủ
yếu của con người là: hoạt động vật chất, hoạt động xã hội – chính trị và hoạt
động tinh thần. Các loại hoạt động của con người khơng có ý nghĩa như nhau:
hoạt động vật chất là hoạt động “quyết định bất kỳ hoạt động nào khác: hoạt
động trí óc, hoạt động chính trị, hoạt động tôn giáo, v.v.”. Khách thể của hoạt
động vật chất - các hoạt động lao động, sản xuất là những vật thể vật chất,

những vật thể của giới tự nhiên và các vật do con người sáng tạo ra (cái bản
chất thứ hai). Mục đích và kết quả của hoạt động này là các giá trị sử dụng, các
vật phẩm, các đồ vật có khả năng thỏa mãn các nhu cầu nhất định của xã hội
và cá nhân.
Khi đi sâu, làm phong phú thêm hoạt động vật chất bằng quan niệm về
hoạt động cảm tính vật chất có thể nâng nó lên và đồng nhất với thực tiễn xã
hội. Hoạt động thực tiễn không chỉ bao gồm trong nó hoạt động sản xuất vật
chất, mà cịn cả hoạt động xã hội – chính trị nhằm cải tạo hệ thống xã hội. Ở
phương diện là một loại hoạt động chủ yếu của con người, hoạt động chính trị
- xã hội biểu hiện tính tích cực của đời sống con người. Do mang tính chất đặc
thù chỉ có ở xã hội người, lĩnh vực chính trị xã hội nhiều khi còn gần gũi hơn
cả với hoạt động vật chất. Việc con người bao giờ cũng thuộc về một tập đoàn
xã hội nhất định, với việc bảo vệ quyền lợi nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình
thơng qua việc bảo vệ lợi ích của tập đồn là hoạt động hồn tồn có đối
tượng.
Tồn tại song song nhưng lại là cái bị quyết định bởi hoạt động sản xuất
20


và hoạt động xã hội – chính trị của con người, hoạt động tinh thần về thực chất
là hoạt động hướng vào việc sản xuất và tái sản xuất ra các tư tưởng, các giá trị
tinh thần. Hoạt động này là một hiện tượng rất phức tạp và đa dạng. Đó cũng
là hoạt động nhận thức mà khách thể có thể là các vật thể tự nhiên hoặc nhân
tạo, theo mức độ chúng là đối tượng của nhận thức. Đó cũng có thể là những
vật thể mang tính chất tư tưởng, những hình thức lơgíc, những hệ thống ký
hiệu biểu tượng được lý trí của con người cải biến hay sáng tạo để thành
những hình thức mới. Hoạt động tinh thần còn bao gồm cả hoạt động định
hướng giá trị với tính cách là những biến thể nhằm khái quát mối liên hệ của
con người với các đối tượng, với các hiện tượng, cùng các quá trình của thực
tại tự nhiên và xã hội; sự biến đổi của chúng trong tư tưởng tùy theo quyền lợi,

thị hiếu và nhu cầu của con người (giai cấp, xã hội). Theo cách nói của C.Mác
thì: “ý thức phổ biến của tơi chỉ là hình thức lý luận của cái mà hình thức sinh
động của nó là tính tập thể hiện thực, là bản chất xã hội… Cho nên cả hoạt
động của ý thức phổ biến của tơi với tính cách như vậy cũng là tồn tại lý luận
của tơi với tính cách là thực thể xã hội” [39, 171].
Như vậy, hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội – chính trị và tinh thần là
những hoạt động chủ yếu của con người. Việc tách rời ba loại hoạt động này
xuất phát từ sự có mặt của ba mối quan hệ cơ bản của con người (quan hệ con
người với lao động, quan hệ nhận thức với hiện thực khách quan, quan hệ đối
với xã hội) với thực tại tự nhiên và xã hội. Tất nhiên cách phân loại trên về các
loại hoạt động của con người phần nào chỉ mang tính ước lệ vì thực ra khơng
thể tách riêng những hoạt động này dưới hình thức thuần túy tuyệt đối. Chẳng
hạn, khơng thể có hoạt động sản xuất nếu khơng có hoạt động tinh thần, vì
trước khi sản xuất ra một vật nào đó thì con người đã tự đặt cho mình một mục
đích, phác họa ra một hình ảnh, cái mơ hình của vật đó. Vì vậy, tất yếu trong
mỗi hình thức hoạt động của con người đều có mặt tất cả các hình thức khác,
chúng thâm nhập vào nhau, liên hệ hữu cơ và tác động đến nhau.
Hoạt động của con người trong hệ thống xã hội là cách thức tất yếu và
21


duy nhất nhằm đảm bảo tính hệ thống, tính hồn chỉnh của xã hội, đảm bảo sự
hoạt động, tiến bộ và phát triển của xã hội. Từ vị trí và vai trò hoạt động của
con người cho phép kết luận: con người là nhân tố quyết định việc tổ chức,
quản lý xã hội với tư cách là một hệ thống hồn chỉnh.


Con người trong hệ thống quản lý, tổ chức xã hội – chính tri.

Hệ thống quản lý, tổ chức xã hội nói chung và hệ thống quản lý xã hội chính trị là một tiểu hệ của hệ thống xã hội. Hệ thống tổ chức, quản lý xã hội

mang tính chất chính trị, được pháp luật quy định cịn được gọi với một tên
khác là hệ thống hành chính. Trong những hệ thống này, con người tất yếu vẫn
giữ vai trò vừa là khách thể vừa là chủ thể hoạt động của hệ thống. Với tính
độc lập tương đối, hệ thống quản lý, tổ chức xã hội có những đặc thù của nó.
Chức năng cơ bản của hệ thống này là hợp nhất sự hoạt động và phát triển của
các hệ thống khác, đảm bảo sự tác động qua lại và sự trao đổi lẫn nhau các sản
phẩm hoạt động của chúng trong một trật tự hợp lý. Khác với các loại hệ thống
tự động, bản thân đã sẵn có những chương trình tác động qua lại giữa các
thành tố hữu cơ của nó, các hệ thống tổ chức, quản lý được tiêu biểu bởi kiểu
tác động qua lại thông qua thông tin xã hội tạo sự liên kết với các thành tố.
Các hệ thống tổ chức, quản lý có một mạng lưới riêng những kênh liên
hệ cho phép nhiều khâu khác nhau trao đổi thông tin với nhau để đảm bảo sự
hoạt động và phát triển ăn khớp với rất nhiều hệ thống khác. Về bản chất của
hệ thống quản lý, tổ chức, G. V. Atamantsuc đã nhận xét: biểu lộ chính ở chỗ,
ở đây một người, một tập đoàn người (người lãnh đạo, cơ quan quản lý) tác
động đến người khác, tập đoàn người khác nhằm đảm bảo đạt được mục đích
đã đề ra cho khách thể. Xét về bản chất xã hội của nó, thì cả chủ thể lẫn khách
thể trong các hệ thống tổ chức, cũng như trong hệ thống chính trị - xã hội của
quản lý là cùng một chất lượng. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ, các chủ thể
giữ chức năng quản lý, còn các khách thể là kẻ thừa hành [2, 221].
Hệ thống xã hội - chính trị là hệ thống quản lý, tổ chức có trình độ cao
nhất. Trong các hệ thống tổ chức xã hội – chính trị với việc quản lý xã hội, chủ
22


×