MỞ ĐẦU
Mỗi người làm công tác khoa học đều cần nghiên cứu lịch sử phát triển
của lĩnh vực mà mình nghiên cứu, tìm hiểu quá khứ cũng như triển vọng trong
tương lai của lĩnh vực đó. Lịch sử khoa học là quá trình nảy sinh và phát triển
của khoa học trong khi đáp ứng yêu cầu của cuộc sống nói chung, yêu cầu của
nhận thức nói riêng. Đồng thời đó cũng chính là q trình mà khoa học tự nhận
thức về mình để tiếp tục tiến lên. Đây là yêu cầu tất yếu trong sự phát triển của
mọi khoa học, trong đó có Tâm lý học. Đối với những người nghiên cứu, giảng
dạy và làm công tác tâm lý học ở nước ta, trong điều kiện mà tâm lý còn là một
khoa học mới mẻ và đang trong quá trình phát triển thì việc nghiên cứu các con
đường phát triển của khoa học này lại càng có ý nghĩa hơn. Nó giúp chúng ta có
cái nhìn khách quan, tồn cảnh, thấy được những sáng tạo, phát minh và những
thành tựu to lớn mà thế hệ đi trước tạo ra; cũng như thấy được những hạn chế do
điều kiện lịch sử, xã hội còn tồn tại để vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế
của đất nước, tìm ra những phương án tối ưu để xây dựng và phát triển tâm lý
học nước nhà trong những giai đoạn tiếp theo là việc làm vơ cùng cần thiết. Với
mục đích như vậy, trong khuôn khổ tiểu luận này, tác giả không có điều kiện đi
sâu vào tồn bộ lịch sử tâm lý học, mà chỉ đề cập đến một vấn đề mấu chốt trong
lịch sử tâm lý học thế giới - vấn đề có tính chất bước ngoặt đưa tâm lý trở thành
một khoa học độc lập, từ đó có những suy ngẫm và đưa ra những nhận định đối
với sự phát triển của tâm lý học hiện nay: “Tâm lý học nội quan của Wilhelm
Wundt - giá trị lịch sử và hiện thực - những vấn đề đặt ra đối với tâm lý học
quân sự hiện nay”.
NỘI DUNG
1. WILHELM WUNDT (1832-1920) VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
ĐƯA TÂM LÝ HỌC TRỞ THÀNH KHOA HỌC ĐỘC LẬP NĂM 1879.
Tâm lý học ngày nay thuộc nhóm các khoa học mũi nhọn nghiên cứu về
con người, đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Có được những thành quả đó
trước hết là do kết quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ các nhà tâm lý học
đầy tài năng và tâm huyết. Đồng thời, tâm lý học hiện đại còn là sản phẩm của
cả một lịch sử phát triển nhiều thế kỷ với những biến cố thăng trầm, những cuộc
đấu tranh quyết liệt giữa các trường phái tâm lý học, các quan điểm đối lập nhau
về bản chất tâm lý mà một trong những bước mở đầu được đánh dấu bằng tác
phẩm “Bàn về tâm hồn”. Những khái quát khoa học đầu tiên về “tâm hồn” này
xuất hiện khoảng thế kỷ thứ VII trước công nguyên mà một trong những đỉnh
cao là tác phẩm “Bàn về tâm hồn” của Aristote. Có thể nói những nghiên cứu về
tâm hồn, tâm lý từ thời cổ đại cho đến nửa đầu thế kỷ XIX là lịch sử phát triển
của các tư tưởng tâm lý, nói cách khác đó là những tư tưởng tâm lý học phát
triển trong lòng triết học. Sau hơn hai thiên niên kỷ phấn đấu, tâm lý học từ một
khoa học tự biện, chỉ dùng tư duy ngôn ngữ đơn thuần để lý giải những hiện
tượng tinh thần của con người đã trở thành một khoa học độc lập, sự kiện này
được đánh dấu bằng việc phòng thực nghiệm tâm lý đầu tiên được thành lập gắn
với tên tuổi của Wilhelm Wundt.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học trên tất cả các
lĩnh vực đã phá vỡ về căn bản những quan niệm trước đó về kết cấu và thuộc
tính của vật chất và do thế đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn nhận thế giới tinh
thần của con người. Sự phát triển của các tư tưởng Tâm lý học từ thế kỷ thứ
XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX đã gắn liền với các thành tựu của khoa học tự
2
nhiên trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thành tựu về sinh vật học, sinh lý
học, vật lý học và những kết quả nghiên cứu tiêu biểu về tâm sinh lý học các giác
quan; tâm vật lý học; nghiên cứu thời gian phản ứng; thuyết tiến hóa của nhà bác
học vĩ đại người Anh Đac-uyn; tâm lý học phát sinh phát triển của nhà khoa học
người Anh Gantong; các cơng trình tâm thần học của bác sĩ Pháp Charcot.
Những nghiên cứu đó đã lãm rõ và khẳng định tính khách quan và tồn tại có thực
của các hiện tượng tâm lý người - đối tượng của khoa học tâm lý. Các phương
pháp nghiên cứu tâm lý học thời kỳ này vì vậy mà đã có những bước tiến rõ rệt,
nổi lên là các phương pháp thực nghiệm, thử nghiệm có sự hỗ trợ của các
phương tiện, cơng cụ nghiên cứu riêng và có sử dụng các phương pháp thống kê
xử lí của tốn học.
Lần đầu tiên đã xuất hiện các tác phẩm mang tên tâm lý học. Một điều
đáng lưu ý ở thời kỳ này là có nhiều các cơng trình nghiên cứu được tiến hành
cùng một lúc ở nhiều nước nhưng lại đem đến các kết quả như nhau đã khẳng
định tính chân thực khách quan khoa học của các hiện tượng tâm lý, khẳng định
sự cần thiết phải xây dựng một chuyên ngành khoa học mới độc lập với các khoa
học hiện có, đặc biệt là triết học.
Trong bối cảnh đó Vào năm 1879, khi đang làm giáo sư triết học tại
Leipzig (Đức), Wilhelm Wundt (1832-1920), nhà tâm lý học người Đức đã lập
ra một phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới. Ngay từ những
ngày khởi đầu, phịng thực nghiệm của ơng đã đi vào hoạt động có hiệu quả,
phát huy ảnh hưởng to lớn của nó đến hoạt động nghiên cứu tâm lý học của
nhiều nước cả về nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Sự kiện
này đã có một ý nghĩa vô cùng to lớn, được ghi nhận như là mốc khởi đầu
xuất hiện tâm lý học với tính cách là một khoa học độc lập.
3
Với việc lập ra phòng thực nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới, trên thực
tế Wilhelm Wundt cũng đã công bố một cương lĩnh mới về xây dựng khoa học
tâm lý: Xây dựng tâm lý học thực nghiệm và tâm lý học xã hội. Về tâm lý học
thực nghiệm, ông chủ trương tiếp tục nghiên cứu các vấn đề tâm sinh lý học các
giác quan và tâm vật lý học. Với tâm lý học xã hội, ông chủ trương nghiên cứu
tâm lý học dân tộc, nghiên cứu tinh thần dân tộc qua các truyện cổ tích, thần
thoại. Theo Wilhelm Wundt, những tư tưởng tâm lý học dân tộc tồn tại trong các
sản phẩm văn hố như truyện cổ tích, truyện dân gian, thần thoại, trong phong
tục tập quán của các dân tộc… và để hiểu được những tư tưởng tâm lý học dân
tộc này phải dùng phương pháp thuật lại và suy diễn từ các sản phẩm văn hoá.
Trong các nghiên cứu của mình, Wilhelm Wundt đã cố gắng đề cập tới mảng tâm
lý học xã hội nhưng những quan điểm xuất phát của ơng cịn nhiều hạn chế, mới
đạt được ở mức độ mơ tả, suy diễn có tính chất chủ quan về hiện tượng tâm lý
dân tộc.
Trên cơ sở của phòng thực nghiệm tâm lý học, cũng theo sáng kiến của
Wilhelm Wundt, năm 1880 viện tâm lý học được thành lập. Viện này đã nhanh
chóng trở thành trung tâm đào tạo các nhà tâm lý học cho các nước trên thế giới
như ở Đức, Nga, Pháp, Mỹ...Nhiều người xuất phát từ viện này đã trở thành nổi
tiếng như E. B.Titchener (1867-1927) ở Mỹ, G.I. Trenpanov (1862-1936) ở Nga…
Sau sự kiện này, các phòng thực nghiệm tâm lý học lần lượt ra đời ở
nhiều nước châu Âu và châu Mỹ. Phòng thực nghiệm tâm lý học ở Mỹ được
thành lập vào năm 1889. Đến năm 1920, số lượng các phòng thực nghiệm tâm lý
học ở các nước đã lên đến con số 100.
Các cơng trình nghiên cứu trong phịng thí nghiệm tâm lý học và viện
tâm lý học được Wilhelm Wundt cho công bố trong tập “Các công trình nghiên
cứu triết học” (1881). Có thể coi đây là tập san tâm lý học đầu tiên trên thế giới.
4
Ý nghĩa của tập san này là ở chỗ: đây là nơi để những người làm công tác nghiên
cứu tâm lý học, các nhà khoa học thường xuyên trao đổi ý kiến, tranh luận và
học hỏi lẫn nhau, tiếp sức cho nhau, khích lệ nhau vì sự nghiệp chung của tâm lý
học. Bên cạnh tập san này và trước đó ít lâu Wilhelm Wundt đã soạn và cho xuất
bản nhiều cuốn sách gần như là cẩm nang của những nhà nghiên cứu trong lĩnh
vực này (không kể các tác phẩm triết học):
Năm 1858, khi 26 tuổi, ông cho xuất bản tác phẩm đầu tay “Học thuyết
về vận động của các cơ”
Năm 1862, lúc ơng trịn 30 tuổi, cuốn thứ hai được xuất bản mang tên
“tư liệu về lý thuyết tri giác cảm tính”; cùng trong năm xuất bản tập giáo trình
“Tâm lý học dưới góc độ của khoa học tự nhiên”.
Năm 1863, xuất bản cuốn “Những bài giảng về tâm hồn người và động
vật”
Năm 1873-1874, khi ông mới hơn 40 tuổi, một cuốn sách dày gần nghìn
trang với đầu đề “Cơ sở tâm sinh lý học” cũng đã được xuất bản.
Năm 1900, khi 68 tuổi, ông cho xuất bản tập I cuốn “Tâm lý học dân
tộc” (tất cả gồm 10 tập), v.v…
Mười năm sau sự kiện này, năm 1889, các nhà tâm lý học thế giới đã có
cuộc gặp gỡ nhau tại Paris (Pháp) và cũng từ những năm đó, cứ vài ba năm một
lần, các nhà tâm lý học quốc tế lại tổ chức gặp gỡ nhau luân phiên ở các nước.
Có thể xem đây là đại hội quốc tế của các nhà tâm lý học.
Cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ nhất được tổ chức tại Paris (Pháp) năm
1889; cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ 2, tại Luân đôn (Anh) năm 1892 v.v… Cho
đến nay, các nhà tâm lý học thế giới đã trải qua hơn 30 lần gặp gỡ. Đại hội lần
thứ 27 các nhà tâm lý học thế giới đã họp tại Stockholm (Thụy điển) vào tháng 7
năm 2000.
5
Có thể nói, trong hàng loạt các sự kiện diễn ra vào những năm cuối thế kỷ
XIX thì sự kiện Wilhelm Wundt tổ chức ra phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên
vào năm 1879 là sự kiện nổi bật nhất. Sự kiện này ghi nhận sự trưởng thành đầy đủ
của một ngành khoa học mới là khoa học tâm lý. Chính vì lẽ đó mà các nhà tâm lý
học lấy đây như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của tâm lý học với tư cách là một
khoa học độc lập. Như vậy, Wilhelm Wundt có cơng lao vơ cùng to lớn trong sứ
mệnh lịch sử này. Chính ông đã đóng góp phần quyết định làm thỏa mãn các
điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một khoa học. Những điều kiện đó là:
khẳng định được đối tượng nghiên cứu của khoa học đó; đội ngũ cán bộ nghiên
cứu; phương pháp nghiên cứu tương ứng; phương tiện nghiên cứu; thông tin
khoa học; ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cơng trình nghiên cứu.
2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC NỘI QUAN CỦA
WILHELM WUNDT.
2.1 Tư tưởng cơ bản của tâm lý học Wilhelm Wundt
Tâm lý học của Wilhelm Wundt được thể hiện trên một số tư tưởng chính sau đây:
Thứ nhất: Tồn bộ tâm lý học của Wundt xuất phát từ quan niệm coi
con người là một thể thống nhất tâm- vật lý trong đó có những hiện tượng có thể
thấy được như các cử động, mắt nhìn, tay sờ… Từ các cảm giác ấy nhờ ý chí của
con người mà có những liên kết mới như biểu tượng chẳng hạn. Sau cảm giác,
biểu tượng – có tình cảm là tổ hợp của những gì thỏa mãn và những gì khơng
thỏa mãn. Tình cảm ở đâu ra? Tình cảm là kết quả của việc ý thức có phản ứng
với các cảm giác và liên kết cảm giác. Trung tâm tâm lý người là một điểm cố
định của ý thức được bao quanh bởi các vòng tròn: vòng tiêu cự, vòng chú ý,
trường ý thức, ngưỡng ý thức.
6
Tất cả các hiện tượng tâm lý đều ở trong vòng các hiện tượng tinh thần
của con người và đều xuất phát từ ý thức. Wilhelm Wundt coi tâm lý là cái thứ
nhất, mọi cái trong thực tại đều bắt nguồn từ ý thức. Do đó, tâm lý học do
Wilhelm Wundt chủ trương thực chất là tâm lý học duy tâm. Tâm lý học duy tâm
của Wilhelm Wundt còn được gọi là tâm lý học nội quan, tâm lý học ý chí luận
(sau nàyWilhelm Wundt vẫn nổi tiếng là một đại biểu của thuyết ý chí luận).
Thứ hai: Wilhelm Wundt đưa ra khái niệm Tổng giác. Đây là khái niệm
quan trọng trong hệ thống lý luận của Wilhelm Wundt . Theo quan niệm của
Wilhelm Wundt thì tổng giác là hạt nhân của ý thức, ý chí của con người, là cái
gì đó do ý thức thêm vào các cảm giác, tri giác. Cái thêm ấy hoàn toàn do chủ
quan của ý thức, ý chí ta quyết định. Tổng giác là một cái gì đó khơng hiểu được
vốn có trong thế giới nội tâm của con người . Tổng giác phản ứng với những cái
do cảm giác, tri giác mang lại, giúp cho con người “cảm thấy” những cái xảy ra
trong mình. Nhờ có “tổng giác” mà trong con người có đủ mọi thứ do mình tạo
ra và tất cả những cái đó khơng liên quan gì đến hoạt động với thế giới bên
ngồi, khơng cần gì hoạt động với thế giới bên ngồi. Trong cái gọi là tổng giác
có hết các thứ mà ta gọi là tâm hồn, nào là ý thức, nào là ý chí, nào là tự ý thức
v.v... Tất cả những cái đó họp thành “con người tí hon” nằm trong cái “xác
khổng lồ” và điều khiển “con người thể xác to lớn” bên ngồi. Nó ở trong ta, nó
do ta tự tạo ra, khơng phụ thuộc vào thế giới khách quan và không theo một lý lẽ
khách quan nào.
Thứ ba: Tâm lý học của Wilhelm Wundt tuân theo “nguyên tắc siêu
hình” (nhận xét của nhà tâm lý học nổi tiếng Liên Xô L.X. Vwgotxki). Wilhelm
Wundt quan niệm, “con người tí hon” được tồn tại và nhận thức theo ngun tắc
đóng kín trong thế giới nội tâm. Mỗi người tự mình hiểu lấy chính mình. Ai có
tâm lý thế nào thì chỉ có người đó biết được mà thơi. Khơng ai có thể hiểu mình
7
ngồi bản thân mình. Người khác chỉ có thể nhiều lắm là thông cảm với anh thôi.
Mà muốn thông cảm thì ít nhất người ấy cũng phải trải qua và nghiệm thấy một
lần. Đây là một cách nghĩ hoàn toàn theo kinh nghiệm chủ nghĩa và cũng rất chủ
quan. Cơ bản vẫn là tự mình trải nghiệm thấy nội tâm mình và hiểu được bản
thân. Do đó tâm lý học của Wilhelm Wundt là tâm lý học duy tâm, chủ quan, ý
chí luận. Đó cũng chính là tâm lý học nội quan lấy phương pháp nội quan làm
phương pháp duy nhất để nghiên cứu tâm lý con người. Nội quan tức là tự quan
sát, tự thể nghiệm trong chính mình. Phương pháp này do Descartes (Pháp) và
Locke (Anh) khởi xướng từ thế kỷ XVII. Trong tâm lý học hiện đại ngày nay vẫn
còn sử dụng phương pháp tự quan sát, tự phân tích những điều mà mình trải
nghiệm. Đó là một trong những phương pháp hỗ trợ cho các phương pháp khác,
nhằm chủ yếu vào hoạt động, quan hệ... của người được nghiên cứu. Cịn khi ta
nói tâm lý học nội quan là có ý chỉ một nền tâm lý học dùng phương pháp nội
quan là phương pháp duy nhất để nghiên cứu tâm lý. Tâm lý học này lấy tổng
các trạng thái mà ta trải nghiệm được trong vòng khép kín của chính ý thức (tức
là chỉ có ý thức) làm đối tượng nghiên cứu.
2.2. Sự bế tắc của tâm lý học nội quan của Wilhelm Wundt.
Với những hoạt động và cống hiến không biết mệt mỏi, chúng ta có thể
khẳng định Wilhelm Wundt đã có đóng góp vơ cùng lớn lao đối nền tâm lý học
thế giới. Song toàn bộ tâm lý học của Wilhelm Wundt lại là tâm lý học duy tâm.
Duy tâm từ đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu cho đến phương pháp
nghiên cứu. Wilhelm Wundt xác định đối tượng của tâm lý học là ý thức, song ý
thức lại là cái tự có, cái “bên trong” mỗi con người chứ không phải được hình
thành khách quan trong cuộc sống; phương pháp nghiên cứu là phương pháp nội
quan, tự quan sát, tự trải nghiệm chứ khơng ai có thể biết được tâm lý người
8
khác. Có một điều nhận xét khá lý thú rút ra từ khẳng định của Wilhelm Wundt:
những người làm công tác tâm lý học là những người nghiên cứu tâm lý của
người khác, hay ít nhất cũng là những người muốn tìm ra những con đường,
những phương pháp để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý, lại chính là những
người cơng nhận rằng, tâm lý của ai chỉ có người ấy biết được, tức là người khác
không thể biết, chỉ có thể nghe người ta kể lại mà thơi, rồi lý giải theo cách này
hay theo cách khác hoàn toàn chủ quan. Một sự bế tắc và đầu hàng công khai.
Những cũng thật dễ hiểu vì đó là hậu quả tất yếu của quan điểm duy tâm, chủ
quan. Chính vì vậy, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tâm lý học thế giới đi
vào cuộc khủng hoảng. Đó là cuộc khủng hoảng về phương pháp luận. Tâm lý
học của Wilhelm Wundt thực chất là tâm lý học duy tâm. Bằng phương pháp nội
quan trong việc nghiên cứu tâm lý, nền tâm lý học này đã đi vào bế tắc. Việc
xuất hiện nhiều dòng phái tâm lý học khác nhau ở nhiều nước trong việc tìm
kiếm một lối thốt cho tâm lý học cũng là một nhu cầu khách quan. ở Mỹ, xuất
hiện tâm lý học chức năng của W.James (1842-1910) và Angell (1869-1949). E.
Titchener (1867-1927), học trò của Wundt, người đại diện toàn quyền tâm lý
học nội quan ở Mỹ trước tình trạng khủng hoảng này cũng đã chủ trương xây
dựng tâm lý học cấu trúc, trong đó ông coi tâm hồn là tổ hợp nhiều qúa trình
xảy ra trong “cái tơi ” với tính cách là kinh nghiệm chủ quan. Quan niệm của
Titchener đã làm cho tâm lý học tách rời cuộc sống và do vậy tâm lý học cấu
trúc của ông cũng không tránh khỏi con đường bế tắc. Tâm lý học mô tả của W.
Dilthey (1833-1911) và Spơranghe về thực chất cũng là tâm lý học nội quan,
tâm lý học giảng giải theo kiểu của Wundt, mặc dầu chính các ơng đã ra tun
bố ly khai với nền tâm lý học nội quan của Wundt.
Tâm lý học của Wilhelm Wundt thực chất là cái vòng luẩn quẩn, phản
ánh sự bế tắc của tâm lý học duy tâm, nội quan.
9
3. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ HIỆN THỰC CỦA TÂM LÝ HỌC NỘI
QUAN CỦA WILHELM WUNDT.
Mặc dù có những hạn chế dẫn tới bế tắc ở cuố thế kỷ XIX, song tâm lý
học nội quan của Wilhelm Wundt có vị trí và ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với lịch
sử phát triển của tâm lý học thế giới. Bởi trong bối cảnh khoa học tự nhiên phát
triển và được ứng dụng vào thực tế cuộc sống với những nghiên cứu bằng thực
nghiệm đã chứng minh được sự tồn tại khách quan có thực của hiện tượng tâm lý
thì điều tất nhiên là phải có một khoa học riêng để nghiên cứu về những hiện
tượng đó. Đó là một địi hỏi khách quan và Wilhelm Wundt chính là người đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử khi lập ra phòng thực nghiệm tâm lý học đầu
tiên trên thế giới. Tâm lý học Wilhelm Wundt ra đời cũng chính là bước ngoặt
đánh dấu sự ra đời của tâm lý học thế giới với tư cách là một khoa học độc lập.
Do những hạn chế về thế giới quan và phương pháp luận trong việc
nghiên cứu tâm lý người nên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tâm lý học rơi vào
tình trạng khủng hoảng phương pháp luận trên con đường tìm kiếm xây dựng
tâm lý học trở thành một khoa học thực sự khách quan phục vụ cho cuộc sống
của con người. Vì vậy, các trường phái tâm lý học nổi tiếng tiếp tục ra đời như:
Tâm lý học Gestalt; Tâm lý học hành vi; Phân tâm học và nhiều dịng phái Tâm
lý học khác… cũng khơng đáp ứng được những địi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Từ hồn cảnh lịch sử đó, nhu cầu xây dựng lại tâm lý học từ cơ sở nền tảng của
nó là một địi hỏi tất yếu, chính từ tình hình đó đã tạo điều kiện cho sự ra đời của
Tâm lý học Mác xít - một nền tâm lý học thực sự khoa học và cách mạng, thực
sự vì sự phát triển con người. Trên góc độ đó, có thể khẳng định tâm lý học
Wilhelm Wundt là cơ sở, tiền đề và động lực cho sự hình thành và phát triển tâm
lý học hiện đại ngày nay.
10
Một số khái niệm, phạm trù trong tâm lý học Wilhelm Wundt đến nay
vẫn được sử dụng tuy khơng cịn giữ nguyên nội hàm gốc. Phương pháp nội
quan (còn gọi là quan sát chủ quan hay tự quan sát) hiện nay vẫn được sử dụng
với tư cách là một trong những phương pháp hỗ trợ trong nghiên cứu tâm lý
người. Đặc biệt, những hạn chế, nhược điểm đưa đến sự bế tắc của tâm lý học
Wilhelm Wundt là những bài học kinh nghiệm rất quý giá đối với các nhà tâm lý
học cũng như đối với sự phát triển của nền tâm lý học hiện đại ngày nay.
4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI TÂM LÝ HỌC QUÂN SỰ
HIỆN NAY.
4.1. Những vấn đề đặt ra đối với tâm lý học quân sự hiện nay.
Nghiên cứu quá trình “thai nghén”, hình thành, phát triển và đi vào bế
tắc của tâm lý học nội quan của Wilhelm Wundt giúp chúng ta, những người
nghiên cứu, giảng dạy tâm lý học quân sự có được cái nhìn tồn cảnh về một giai
đoạn mấu chốt trong lịch sử phát triển của tâm lý học. Qua đó, mỗi nhà nghiên
cứu có thể tự rút ra cho mình những bài học quý giá trong quá trình hoạt động
nghề nghiệp. Mà bài học lớn nhất, cấp thiết nhất đó chính là vấn đề xác định đối
tượng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu cần phải
thực sự khách quan, khoa học. Tâm lý học quân sự là một phân ngành của tâm lý
học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người trong những hoàn cảnh, điều kiện
đặc thù: cụ thể là tâm lý quân nhân và tâm lý tập thể quân nhân trong hoạt động
quân sự. Như vậy cả khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu của tâm lý học qn sự ngồi cái chung cũng đều có những đặc
điểm riêng. Muốn thu được kết quả thực sự khách quan, khoa học trong quá trình
nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần phải phản ánh đầy đủ tính đặc thù đó trong lựa
chọn khách thể, đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
11
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng đặt ra là những tri thức của tâm lý
học chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được ứng dụng có hiệu quả trong đời sống thực
tiễn chứ không phải nghiên cứu rồi để nó trong sách vở, trong tủ tài liệu. Vì vậy
vấn đề chuyển giao, ứng dụng phải thơng qua quán triệt, tuyên truyền, giáo dục.
Song tâm lý học duy tâm, nội quan của Wilhelm Wundt lại là cơ sở của nền giáo
dục tự biện, của lối dạy học vẹt, học nhồi nhét, ép buộc học sinh chấp nhận ý
muốn của người dạy. Bởi vì theo Wilhelm Wundt, học sinh khơng thể hiểu được,
chỉ có con đường học vẹt và chấp nhận tri thức mà thơi. Như vậy, đó là nền giáo
dục chủ quan, ý chí luận. Do đó, tâm lý học quân sự muốn phát triển cũng phải
coi đây là một bài học kinh nghiệm rất lớn, đó là không thể áp đặt tri thức, không
thể áp đặt nội dung mà phải làm cho nội dung thật sinh động, cuốn hút, phù hợp
với thực tiễn hoạt động quân sự, phải trở thành tri thức “khả tri”.
Những vấn đề cơ bản đặt ra trên đây tuy khơng mới nhưng nó ln mang
tính thời sự cấp bách, nó có ảnh hưởng đến tiến trình, phương hướng và đặc biệt
quyết định chất lượng và kết quả đạt được của nhà nghiên cứu.
4.2. Sự xác định những tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học quân sự Việt Nam.
Nghiên cứu toàn bộ tiến trình lịch sử tâm lý học hay nghiên cứu một giai đoạn
trong tiến trình lịch sử đó chúng ta thấy rằng, khoa học tâm lý muốn trở thành một khoa
học độc lập cần phải xác định được những nhân tố cơ bản đó là: đối tượng nghiên cứu,
nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu; phương pháp, phương tiện nghiên cứu; đội ngũ nhà
khoa học và thông tin khoa học; khả năng ứng dụng và phục vụ thực tế cuộc sống v.v…
Đồng thời phải xác định được những tiền đề, cơ sở cho sự ra đời của khoa học đó.
Sự ra đời của Tâm lý học quân sự Việt Nam trước hết do chính bản thân
sự phát triển của khoa học tâm lý. Tâm lý học là khoa học về tâm lý và hoạt động
tâm lý của con người và các nhóm người. Tuy nhiên, tâm lý con người và các
12
nhóm người xét chung cũng như xét riêng các thành phần của nó có ảnh hưởng
khác nhau đối với hoạt động cũng như hành vi, hành động của các cá nhân tuỳ
theo những hoàn cảnh cụ thể. Suy nghĩ, thái độ, các hiện tượng tâm lý của người
nông dân trên đồng ruộng, người công nhân trong nhà máy khác với người lính
trên chiến trường. Vì vậy, cùng với những quy luật chung của tâm lý con người
và nhóm người cịn có những quy luật có tính đặc thù. Tâm lý học là một hệ
thống thường xuyên phân nhánh của nhiều lĩnh vực độc lập. Hoạt động quân sự
khác với nhiều loại hoạt động khác của con người cả về mục đích cũng như điều
kiện, phương tiện để đạt mục đích. Trên thực tế, quá trình lãnh đạo cách mạng và
xây dựng quân đội, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
quan tâm tới việc phát huy ưu thế của yếu tố chính trị, tinh thần, tâm lý. Những
tư tưởng tâm lý học quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh có ý nghĩa định hướng quan trọng cho sự ra đời, phát triển của tâm lý học
quân sự Việt Nam. Trong khi đó, những tác động của bộ mơn tâm lý học được
giảng dạy ở các nhà trường ngoài quân đội, của tâm lý học qn sự Xơ Viết cũng
có ảnh hưởng tới sự ra đời của tâm lý học quân sự Việt Nam.
Mặt khác, do những yêu cầu trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán
bộ quân đội, để có thể khai thác có hiệu quả hơn yếu tố con người, đặc biệt trong
điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cung cấp các luận cứ
khoa học cho các giải pháp xây dựng nhân cách quân nhân và tập thể quân nhân,
lãnh đạo - quản lý con người đòi hỏi người cán bộ quân đội phải hiểu sâu sắc tâm lý
quân nhân và tập thể quân nhân. Muốn thế, họ phải được trang bị những tri thức
khoa học giúp họ hiểu được thế giới tâm hồn hết sức bí ẩn và phức tạp của con
người, nắm được các quy luật tâm lý của quân nhân và tập thể quân nhân.
13
Các tiền đề trên đã dẫn tới sự ra đời của tâm lý học quân sự Việt Nam
với tư cách là một mơn học độc lập trong chương trình đào tạo cán bộ ở các nhà
trường quân đội.
4.3 Quá trình phát triển và các thành tựu của Tâm lý học quân sự Việt Nam.
Nghiên cứu và quán triệt tốt những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chủ trương của Đảng, đồng thời đứng vững
trên lập trường tâm lý học hoạt động khi nghiên cứu tâm lý quân nhân và tập thể
quân nhân, đội ngũ các nhà tâm lý học quân sự Việt Nam với tinh thần trách
nhiệm và sự tâm huyết đã xây dựng lên một chuyên ngành tâm lý mới: tâm lý
học quân sự. Đây là một chuyên ngành khoa học còn rất non trẻ trong hệ thống
khoa học tâm lý. Tuy nhiên, những thành tựu mà tâm lý học quân sự Việt Nam
đạt được đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng của đất nước.
Từ những năm 1960, nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo của
các nhà trường quân đội, trong chương trình đào tạo giáo viên khoa học xã hội
được tổ chức tại Học viện chính trị qn sự đã có những nội dung huấn luyện về
tâm lý sư phạm.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cần thiết phải đưa tâm lý học
quân sự vào sự nghiệp xây dựng và phát triển quân đội, Năm 1969, một bộ phận
chuyên nghiên cứu về tâm lý học quân sự đã được thành lập theo chỉ thị của
Chủ nhiệm Tổng cục chính trị.
Năm 1974, nhóm nghiên cứu trên đã cho ra đời cuốn “Tâm lý học” do
đồng chí Hồng Linh chủ biên và được nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất
bản. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của một ngành khoa học mới:
14
tâm lý học quân sự. Cuốn sách đã trở thành tài liệu nghiên cứu và là nội dung
huấn luyện về tâm lý học quân sự của Học viện chính trị quân sự.
Ngày 23 tháng 12 năm 1976, theo quyết định số 310/QĐTM của Bộ
tổng tham mưu, khoa Tâm lý - Giáo dục học quân sự được chính thức thành lập
tại Học viện chính trị quân sự.
Để tạo điều kiện phát triển cả hai chuyên ngành, khai thác tốt hơn tiềm
năng của các khoa học trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, lãnh đạo các
cấp, tháng 9/1994 chuyên ngành Giáo dục học quân sự và Tâm lý học quân sự
được tách thành hai khoa độc lập.
Trải qua quá trình trưởng thành và phát triển, tâm lý học quân sự đã có
những bước tiến đáng kể. Cùng với việc hồn thiện dần từng bước chương trình
đào tạo tâm lý học quân sự tại các nhà trường quân đội để phục vụ trực tiếp cho
quá trình giảng dạy, tâm lý học quân sự đã tích cực tham gia vào đào tạo cán bộ
sĩ quan quân đội ở tất cả các cấp học, các chuyên ngành đào tạo khác nhau của
quân đội. Từ năm 1979, môn tâm lý học quân sự đã được đưa vào chương trình
đào tạo của các Học viện và trường sĩ quan trong tồn qn. Bộ mơn tâm lý học
quân sự thuộc khoa khoa học xã hội (hoặc khoa cơng tác Đảng, cơng tác chính
trị) ngày càng có vị trí nhất định và được quan tâm phát triển. Cho đến nay, tâm
lý học quân sự đã khẳng định vị trí khơng thể thiếu được của mình trong hệ
thống các môn học ở nhà trường quân đội, tạo cơ sở khoa học cho công tác lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý bộ đội của cán bộ các cấp trong quân đội. Tiếp thu có chọn
lọc các thành tựu của tâm lý học quân sự Xô viết, của tâm lý học trong nước,
khai thác các tư tưởng tâm lý học của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và
giữ nước, tâm lý học quân sự Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và
ngày càng tập trung giải quyết tốt hơn những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống,
hoạt động quân sự đặt ra.
15
Phục vụ cho quá trình nghiên cứu và giảng dạy, nhiều tài liệu giáo khoa
tâm lý học quân sự lần lượt được xuất bản với nội dung ngày càng hoàn thiện và
phong phú. Sau cuốn “Tâm lý học”, cuốn “Những kiến thức cơ bản về tâm lý
học và tâm lý học quân sự” xuất bản năm 1978 gồm 4 chương nhằm phục vụ
trực tiếp cho giảng dạy. Năm 1981, cuốn “Tâm lý học quân sự” gồm 19 chương
ra đời, trở thành tài liệu học tập chính thức của các lớp đào tạo cán bộ của Học
viện chính trị quân sự , đồng thời là tài liệu tham khảo chủ yếu về tâm lý học
quân sự cho các nhà trường trong toàn quân. Cuốn “Tâm lý học- Những cơ sở lý
luận và phương pháp luận” do Học viện chính trị in năm 1984 là sách dịch từ các
bài báo chọn lọc của các tác giả có tên tuổi trong nền tâm lý học Xơ viết trước
đây đã giúp ích to lớn cho việc đào tạo các lớp chuyên ngành về tâm lý học
quân sự. Năm 1989, cuốn “ Tâm lý học quân sự” do Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân xuất bản, gồm 22 chương và cuốn “Tâm lý học quân sự” xuất bản năm
1998 gồm 36 chương đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đào tạo cũng như phát triển
của bộ môn khoa học này.
Các nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học quân sự hiện nay hướng vào:
Các vấn đề lý luận và phương pháp luận của tâm lý học quân sự, khai
thác các tư tưởng tâm lý học quân sự của Đảng cộng sản Việt nam và chủ tịch
Hồ Chí Minh vận dụng vào hoạt động chỉ huy, lãnh đạo quản lý bộ đội và các
nghiên cứu cụ thể.
Các vấn đề lý luận và thực tiễn của sự hình thành, phát triển nhân cách
quân nhân, định hướng giá trị nhân cách quân nhân.
Các vấn đề tâm lý học tập thể quân nhân và xây dựng tập thể quân nhân.
Các vấn đề tâm lý học trong lãnh đạo - quản lý bộ đội như ra quyết định,
giao tiếp, phong cách lãnh đạo - quản lý và giải quyết các xung đột tâm lý …
16
Các vấn đề tâm lý học của việc xây dựng thế giới quan, niềm tin khoa
học cho quân nhân, tổ chức cán bộ, tuyên truyền cổ động trong quân đội.
Các vấn đề tâm lý học của chống chiến tranh tâm lý trong chiến lược
“Diễn biến hồ bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Các vấn đề tâm lý học sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị tâm lý cho bộ đội
trong chiến đấu hiện đại.
Các vấn đề tâm lý học củng cố kỷ luật quân sự cho quân nhân và tập thể
quân nhân.
Các vấn đề tâm lý học sư phạm quân sự…
Kết quả nghiên cứu của tập thể có thể kể đến như: “Những vấn đề nóng
hổi của cơng tác thanh niên qn đội” (1986), “Thanh niên với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc” (1989 - 1990), “Nhân cách chiến sĩ - bộ đội cụ Hồ. Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (1990), “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục quân sự”
(1995), “Đổi mới hoạt động của các tổ chức quần chúng trong quân đội…”
(1996 - 1998), "Tâm lý học quân sự trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố
quốc phòng" (1998), “Hồ Chí Minh và một số vấn đề tâm lý học quân sự”
(1999), “Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH và NV của học viên Học
viện chính trị quân sự” (2000), “Những điều kiện TLXH nhằm đẩy nhanh quá
trình thích ứng nghề nghiệp của sĩ quan chính trị cấp phân đội” (2001), “Nâng
cao tính tích cực nhận thức của học viên trong Xêmina” (2002)…Ngồi ra cịn
phải kể tới kết quả nghiên cứu của các cá nhân được thể hiện trong các luận án
Tiến sĩ tâm lý học như: Vấn đề tâm lý học tập thể quân nhân, tính kỷ luật của
các sĩ quan trẻ, giao tiếp của phó trung đồn trưởng về chính trị, cơ sở tâm lý
của hạ quyết tâm chiến đấu của sư đoàn trưởng, kỷ luật của tập thể quân nhân,
phong cách lãnh đạo - quản lý, xung đột tâm lý … Đó là những vấn đề tâm lý
trong hoạt động của các quân binh chủng như: Không quân, Hải quân, Xe tăng,
17
Đặc cơng, Biên phịng, Qn y… Đó cịn là những vấn đề tâm lý sư phạm như:
Xu hướng nghề nghiệp quân sự của học viên sĩ quan, thích ứng của học viên sĩ
quan, định hướng dư luận tập thể học viên, điều kiện tâm lý sư phạm của giáo dục
chính trị tư tưởng… Tất cả các cơng trình nghiên cứu ấy đã góp phần phát triển
tâm lý học quân sự Việt nam nói riêng, phát triển khoa học tâm lý nói chung.
Cùng với sự phong phú, đa dạng của các lĩnh vực nghiên cứu cịn cần
phải nói tới sự phát triển của đội ngũ các nhà nghiên cứu. Từ năm 1976 tới nay,
tại Học viện chính trị quân sự đã mở các lớp đào tạo giáo viên chuyên ngành tâm
lý học quân sự - Giáo dục quân sự cho các nhà trường trong tồn qn. Đã có
hàng trăm cán bộ, sĩ quan quân đội được đào tạo về tâm lý học quân sự. Đội ngũ
các nhà khoa học tâm lý học quân sự đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay để đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi
của thực tiễn hoạt động quân sự, của sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng, tâm lý học quân sự cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề lý luận
chung trong mối quan hệ với các khoa học khác khi nghiên cứu về con người, về
những biến đổi của nhân cách quân nhân, xây dựng tập thể quân nhân trong điều
kiện kinh tế thị trường, vấn đề tâm lý học kỹ thuật quân sự, sẵn sàng chiến đấu
và chuẩn bị tâm lý của qn nhân trong điều kiện có các loại hình chiến tranh
mới… tâm lý học quân sự phải bám sát thực tiễn hoạt động quân sự tạo ra những
bước phát triển mới cả về lý luận và thực nghiệm để xứng đáng là khoa học
trung tâm trong các khoa học nghiên cứu về con người.
18
KẾT LUẬN
Wilhelm Wundt - nhà khoa học lỗi lạc, với tinh thần trách nhiệm và sự
tâm huyết hết mình, ơng đã cống hiến cả cuộc đời cho tâm lý học. Những cơng
lao và đóng góp của Wilhelm Wundt là vơ cùng to lớn - được coi là “Ông tổ” của
nền tâm lý học thế giới. Sự nghiệp của Wilhelm Wundt đánh dấu thời kỳ hình
thành tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập. Ông là người làm cho Tâm
lý học có chỗ đứng trong hệ thống các khoa học. Những cơng trình nghiên cứu
của Wilhelm Wundt và cộng sự đã đính chính một điểm trong bảng phân loại
khoa học của Ơ. Cơng-tơ (1798-1857), nhà triết học Pháp (vì trong bảng phân
loại của ơng khơng có tâm lý học). Mặc dù cịn có những hạn chế về phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu dẫn đến sự bế tắc, song tâm lý học duy
tâm nội quan của Wilhelm Wundt đã có một vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của nền tâm lý học thế giới bởi những giá trị lịch sử và hiện
thực lớn lao. Đối với chúng ta, những chuyên gia về tâm lý học quân sự, nghiên
cứu về cuộc đời, sự nghiệp và nội dung tư tưởng của tâm lý học Wilhelm Wundt
là hết sức cần thiết và bổ ích, giúp mỗi nhà nghiên cứu tự “ơn cố”, “tri tân”,
tránh lặp lại những hạn chế lịch sử, kế thừa những giá trị tích cực nhằm xây dựng
tâm lý học nói chung và tâm lý học quân sự nói riêng thực sự khách quan, khoa
học, hiện đại, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Đình Châu (chủ biên), Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân
sự, Nxb QĐND, Hà Nội 2003.
2. Phạm Minh Hạc, Nhập môn tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1980.
3. Phạm Minh Hạc, Tuyển tập tâm lý học, Nxb CTQG, Hà Nội 2005.
4. Nguyễn Ngọc Phú, Lịch sử tâm lý học, Nxb ĐHQG, Hà nội 2004.
5. Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên), Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, Hà
Nội 1998.
6. Phan Trọng Ngọ (chủ biên), Các lý thuyết phát triển tâm lý người,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội 2003.
7. Tâm lý học những cơ sở lý luận và phương pháp luận, Học viện chính
trị qn sự 1984.
8. B.R. Hergenhahn, Nhập mơn Lịch sử tâm lý học, Nxb Thống kê, Hà
Nội 2003.
9. L.X. Vưgôtxki, Tuyển tập Tâm lý học, Nxb ĐHQG, Hà Nội 1997.
20