Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO dục học BỆNH THÀNH TÍCH TRONG GIÁO dục HIỆN NAY, NGUYÊN NHÂN và NHỮNG GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.76 KB, 21 trang )

BỆNH THÀNH TÍCH TRONG GIÁO DỤC HIỆN NAY
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

MỞ ĐẦU
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Đảng ta luôn luôn coi
trọng và đề cao vai trò của giáo dục và đào tạo: "Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng
phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu
tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"1. Đó là sự khẳng định vai trị to lớn của
giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước và cũng là khẳng định sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước ta đến phát triển giáo dục - đào tạo.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục ở
nước ta còn bộc lộ rất nhiều hạn chế và nhược điểm: như đào tạo ồ ạt, tràn lan không
đảm bảo chất lượng; nạn học giả bằng thật, học vì bằng cấp; tiêu cực trong thi cử,
chạy trường chạy lớp; trang thiết bị kỹ thuật, nội dung, phương pháp dạy và học lạc
hậu, chưa kích thích hứng thú và tính tích cực của người học v.v... và đặc biệt là "căn
bệnh thành tích" trong giáo dục. Những nhược điểm điểm này đã ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo.
Trước thực trạng đó, ngày 30/7/2006, Bộ GD-ĐT đã phát động cuộc vận
động “Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” 2.
1


Bởi theo Theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (hiện nay
là Phó Thủ tướng Chính phủ), tiêu cực thi cử và bệnh thành tích đã gây nên
những lãng phí quá lớn: lãng phí thời gian học hành đối với học sinh; lãng phí
tiền bạc phụ huynh; lãng phí cơng sức của thầy cơ và lãng phí nguồn lực đối với


xã hội. Tiêu cực trong thi cử và chạy theo thành tích cũng là nguyên nhân dẫn tới
việc suy thoái đạo đức của học sinh, giáo viên.
Từ đó đến nay (2021), cuộc vận động đã trải qua 15 năm, những tiêu cực
và bệnh thành tích trong giáo dục có giảm song hiện nay nó vẫn tồn tại, nếu
khơng muốn nói là phổ biến, có tác động tiêu cực đến chất lượng giáo dục - đào
tạo nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung.
Xuất phát từ thực tiễn này, tác giả chọn nghiên cứu vấn đề: "Bệnh thành
tích trong giáo dục hiện nay - nguyên nhân và những giải pháp" với mục đích
chỉ ra những biểu hiện, lý giải nguyên nhân và đề xuất những giải pháp khắc
phục bệnh thành tích, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo hiện nay.

2


NỘI DUNG
1. Bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay.
1.1. Sự khác nhau giữa thành tích và bệnh thành tích.
Thành tích là kết quả của những nỗ lực của cá nhân hay tập thể nhất định mà
chúng ta có thể đánh giá, lượng hóa được. Kết quả đó khơng chỉ là một lợi ích vật chất
hay tinh thần cá nhân, tuy rằng phần lớn yếu tố tạo nên động lực khiến con người phải
nỗ lực nhiều hơn, tốt hơn để đạt thành tích chính là lợi ích cho mình. Nhưng con người
vẫn có thể làm hết sức mình vì lợi ích chung, lợi ích của xã hội, của đất nước.
Theo khái niệm đó, nỗ lực đạt thành tích của một cá nhân hay một tập thể là một
phẩm chất đạo đức tốt, đáng biểu dương và nhân rộng. Nếu một xã hội mà trong đó
mọi thành viên đều nỗ lực để đạt những thành tích cao hơn trên các lĩnh vực hoạt động:
thể thao, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, sản xuất, thương mại, cơng nghệ v.v... vì lợi ích
cho mình và cho cả cộng đồng. Xã hội đó chắc chắn tiến bộ, nền kinh tế chắc chắn
phát triển, người dân chắc chắn giàu có, quốc gia đó chắc chắn cường thịnh.
Nhưng đến khi nào thì những nỗ lực đạt thành tích, một phẩm chất tốt và cần
thiết của mỗi thành viên trong xã hội, lại trở thành một bệnh, mà ngày nay chúng ta gọi

tên nó là bệnh thành tích? Suy cho cùng, nếu diễn dịch bằng thuật ngữ kinh tế thông
thường, sự khác nhau căn bản giữa thành tích và bệnh thành tích chỉ là sự khác nhau
giữa "hàng thật" và "hàng giả, hàng nhái". Và yếu tố then chốt làm nên sự khác biệt đó
chính là sự có mặt hay khơng của lịng trung thực của chính những chủ thể thành tích.
1.2. Thực trạng bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay.
Bệnh thành tích hiện nay đang tồn tại trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực giáo dục. Nó thể hiện trên mọi khía cạnh và trong mọi khâu của nền giáo
3


dục từ: tuyển chọn đầu vào từ bậc học mầm non đến các cấp; đến quá trình dạy
và học; trong kiểm tra, thi và đánh giá kết quả trong mỗi nhà trường; trong bình
xét, khen thưởng cán bộ, giáo viên; trong "thi đua" giữa các lớp, các khối trong
nhà trường và giữa các nhà trường, giữa các phòng, sở ở các địa phương với
nhau; bệnh thành tích cịn thể hiện trong tuyển chọn cán bộ, giáo viên khi quá
chú trọng đến bằng cấp mà chưa đi vào chất lượng thực của cán bộ giáo viên;
trong bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí lãnh đạo cơ quan, tổ chức v.v...
Thực trạng trên đã tạo nên một sự trăn trở với những ai quan tâm đến giáo
dục, bởi khi bệnh thành tích xuất hiện trong ngành giáo dục, thì nó khơng những
chỉ ảnh hưởng đến một ngành mà còn ảnh hưởng đến các ngành khác trong xã hội,
nó là hiệu ứng tác động song song cùng với tác động của giáo dục đối với xã hội.
Chúng ta thật sự phải suy nghĩ khi ngành giáo dục - một ngành đào tạo và
góp phần xây dựng nên nhân cách con người, lại nhiễm phải một "căn bệnh" như
vậy. Khi người đào tạo bị "nhiễm" bệnh thành tích thì tất yếu họ sẽ tạo ra những con
người, thậm chí là những thế hệ bị "nhiễm" bệnh thành tích. Vì vậy, khắc phục vấn
đề này không phải chỉ là trách nhiệm của học sinh, giáo viên, nhà trường hay ngành
giáo dục mà là nó địi hỏi sự quan tâm và trách nhiệm của tồn xã hội.
2. Nguyên nhân và biểu hiện của bệnh thành tích trong giáo dục.
Bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau và được biểu hiện tập trung ở những khía

cạnh cơ bản dưới đây.
2.1. Mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng.
Biểu hiện rõ nhất của căn bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay đó là:
"báo cáo không trung thực với Đảng và Nhà nước về chất lượng thật của giáo
4


dục"3. Hiện tượng này có nguyên nhân sâu xa: "Mâu thuẫn sâu xa nhất trong
ngành giáo dục là mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng" 4. Trong thời kỳ bao
cấp, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước cịn nhiều khó khăn song chúng ta
đã mạnh dạn phát triển giáo dục với quy mô lớn, rộng khắp với mong muốn
mọi người đều được đi học. Chính vì sự phát triển nhanh về số lượng khiến
chúng ta chưa kịp có đội ngũ giáo viên đủ tầm, đủ mạnh để hoàn thành sứ
mệnh vẻ vang cho sự nghiệp trồng người. Trong khi cơ sở vật chất trang thiết
bị dạy học quá nghèo nàn lạc hậu, đời sống của giáo viên gặp rất nhiều khó
khăn thì chúng ta lại địi hỏi chất lượng nguồn nhân lực do chúng ta đào tạo
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Mâu thuẫn đó càng gay gắt
nếu chúng ta khơng cho học sinh lên lớp, để lưu ban cũng như không cho học
sinh đi thi vì khơng đủ điều kiện dự thi, không bằng đủ mọi cách cho các em
tốt nghiệp ra trường thì khơng có chỗ cho các em ngồi học, không đủ thầy
dạy… dẫn đến tiêu cực trong đánh giá, xếp loại, thi cử. Điều đó lý giải tại sao
những biểu hiện hình thức chủ nghĩa, chạy theo thành tích, làm sai lệch giá trị
thực chất của các danh hiệu thi đua ngày càng tăng.
2.2. Chỉ tiêu Bộ đưa ra “làm nền” cho bệnh thành tích.
Nhiều đại diện các Sở GD-ĐT đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu của bệnh
thành tích là do sức ép quá lớn từ các cấp, từ xã hội và từ chính Bộ GD-ĐT. Ơng
Lê Xuân Đồng - giám đốc Sở GD-ĐT Thanh Hóa cho rằng, bệnh thành tích trong
giáo dục “phủ sóng” ở tất cả các cấp. Bộ mắc bệnh thành tích có sự “đóng góp” từ
các Sở. Bệnh thành tích ở các Sở lại có phần do Bộ, chưa kể áp lực từ cấp ủy,
chính quyền địa phương. Nhiều chỉ tiêu Bộ đưa ra quá cao, đang “làm nền” cho


5


bệnh thành tích: “Đại hội nào, Nghị quyết nào cũng đưa ra chỉ tiêu phấn đấu. Nếu
tỉ lệ tốt nghiệp tiểu học dưới 50% thì sẽ bị chất vấn lên chất vấn xuống”5.
2.3. Ba căn nguyên quản lý
Ba căn nguyên tạo nên chất lượng giáo dục “ảo” thuộc về các giải pháp
quản lý của giáo dục và của cả xã hội.
Một là chỉ tiêu thi đua. Về mục đích, thi đua dạy tốt - học tốt là một chủ
trương đúng đắn. Nhưng trong q trình chỉ đạo, nó đã biến thành chỉ tiêu, con
số xơ cứng, gây sức ép lớn cho giáo viên. Sở chỉ đạo trường, trường chỉ đạo thầy,
phải có tỷ lệ phần trăm học sinh khá, giỏi... Các tỷ lệ này lại quan hệ rất chặt chẽ
với cái “danh”, các danh hiệu bình bầu.
Hai là lợi ích cá nhân. Hẳn khơng có bất cứ một ơng Giám đốc Sở GDĐT có lương tâm nào lại muốn thi cử nơi địa phương mình gian dối? Nhưng kỳ
thi cũng là nơi diễn ra hoặc xung đột, hoặc là sự “thoả hiệp” nhiều phía vì lợi ích
cá nhân mỗi bên: học sinh, cha mẹ học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý các cấp...
Và thường thì sự “thoả hiệp” thắng thế, vì ai cũng được hưởng lợi: học sinh thì
đỗ, gia đình học sinh vui mừng. Trường học, Sở có tiếng.
Ba là màu cờ sắc áo địa phương. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT cao
hay thấp khơng cịn là của riêng ngành giáo dục. Nó đã trở thành màu cờ sắc áo,
“niềm tự hào” của chính địa phương. Chính căn nguyên này gây sức ép tâm lý
cho các Sở GD-ĐT.
2.4. Bốn căn ngun chun mơn
Có thể thấy rõ, bốn căn nguyên tạo nên chất lượng giáo dục thấp thuộc về
các giải pháp chuyên môn.
6


Một là: nội dung, chương trình, sách giáo khoa ít tính ứng dụng, thực

hành, nhưng lại nặng và quá tải.
Hai là: phương pháp giảng dạy của giáo viên phổ biến là đọc - chép. Điều
này đã không giúp cho học sinh phát triển năng lực tư duy, hiểu, nhớ để vận
dụng và sáng tạo, khiến cho học sinh hổng kiến thức từ bậc tiểu học.
Ba là: phương pháp tổ chức, cách làm giáo dục rất thực dụng, theo kiểu
“mì ăn liền”. Học sinh đi học, bên cạnh sách giáo khoa cịn có sách giải bài tập,
sách in đáp án.
Bốn là: kinh phí đầu tư cho giáo dục chưa cân đối và tương xứng với yêu
cầu mục tiêu đào tạo. Hiện nay 70 - 80 % ngân sách cho giáo dục dành để chi trả
lương giáo viên, còn lại một tỷ lệ không lớn chi cho các hoạt động giáo dục.
Hiện nay, bên cạnh những trường thực sự có chất lượng tốt, vẫn cịn tồn tại
khơng ít những trường mà ở đó thầy khơng cần cố gắng hết mình, trị khơng phải
học hết mình, nhưng tỷ lệ học sinh khá giỏi, tỷ lệ lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp vẫn đều
đều năm sau cao hơn năm trước. Thế rồi với kết quả thi tốt nghiệp phổ thông
cao, những "cô tú, câu tú" nô nức thi vào Đại học để rồi nghịch lý tất yếu xảy ra:
tỷ lệ học sinh không làm được bài, bị điểm "liệt" rất cao...
Như vậy, bệnh thành tích ở các trường phổ thơng có phần từ thày cơ giáo,
có phần từ học sinh và cả cha mẹ học sinh, song nguyên nhân trực tiếp làm cho
hệ thống giáo dục bị nhiễm bệnh thành tích chính là việc các nhà quản lý lãnh
đạo ở các địa phương và ngành giáo dục đã đặt lên vai các trường những u cầu
về thành tích mà khơng căn cứ vào thực chất dạy và học.

7


Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, bên cạnh những học sinh,
sinh viên dù khó tới đâu vẫn chăm chỉ học hành và học giỏi, học thực chất, thì
đa số phải tính tốn để làm sao học xong ra trường và có việc làm. Chính thực
tế đó đã tạo nên một phản ứng dây chuyền và hành trình triết lý của số đông
người đi học là để qua được, đỗ được, tốt nghiệp được và cuối cùng là có được

tấm bằng, bằng càng cao càng tốt, càng nhiều bằng càng hay. Như thế, dĩ nhiên
trong hoàn cảnh hiện nay, hệ thống giáo dục sẽ đáp ứng "triết lý" này, dù lãnh
đạo ngành và các thầy cơ giáo có tâm huyết không muốn, quảng đại quần chúng
nhân dân từ trong nhận thức cũng chẳng ai muốn, nhưng trong thực tế đã xảy ra
tình trạng dạy nhanh, day ẩu, cho điểm, cho lên lớp, xếp hạng cao hơn thực lực,
cho đỗ tốt nghiệp không theo thực chất mà theo nhu cầu của người học và chỉ
tiêu của cấp trên giao. Do đó mà nạn chạy theo thành tích lại càng có điều kiện
phát triển.
Trở lại bệnh thành tích trong nhà trường phổ thông. Nếu chỉ các thầy cô,
các trường ham muốn thành tích bằng kết quả thi cử cao, cịn các em học sinh,
các bậc phụ huynh chống lại bệnh thành tích, chống lại gian lận thi cử, xin
điểm... thì thử hỏi bệnh thành tích có tồn tại với mức độ cao, còn dai dẳng hàng
chục năm qua ở nhiều nơi khơng? Chắc chắn là khơng!
Chính vì có hàng triệu gia đình muốn con em mình có điểm cao (hơn
thực chất), sẵn sàng đóng tiền “bồi dưỡng” các thầy cơ để các em thi được
điểm cao bằng mọi cách thì mới có bệnh thành tích ở quy mơ lớn và “bền
vững”, chống mãi không được như vậy. Trong trường hợp này, hàng chục
triệu phụ huynh và học sinh chính là “đồng tác giả” của bệnh thành tích.
Muốn chống bệnh thành tích trong ngành giáo dục phải chăng trước hết các
bậc phụ huynh và học sinh phải kiên quyết từ chối việc thi cử, đánh giá học
sinh bằng điểm thi cao hơn khả năng thuộc về các em. Vì sao học sinh phải
8


học thuộc lòng nhiều để thi? Bên cạnh bệnh thành tích “điểm cao”, theo tơi,
có lẽ có lý do cơ bản là chúng ta nhận thức và thực hành đánh giá kết quả
học tập rèn luyện của học sinh phổ thơng chủ yếu dựa vào tiêu chí là điểm
thi các mơn.
3. Hậu quả của bệnh thành tích trong giáo dục.
Bệnh thành tích, nói khác đi là sự "gian dối" trong giáo dục sẽ ảnh hưởng

trực tiếp đến những người làm giáo dục, trực tiếp làm suy thoái đạo đức của học
sinh, góp phần làm suy thối đạo đức của giáo viên và suy thối đạo đức xã hội.
Bệnh thành tích cũng là một nguy cơ đáng ngại vì nó triệt tiêu sự sáng tạo của
đội ngũ giáo viên, khuyến khích những việc làm và con người gian dối, người
gian dối được đánh giá cao, tơn vinh, cịn người làm đúng lại thiệt thịi…
Nền giáo dục ngày nay, mục đích thi cử rõ ràng là để lựa chọn những
người đủ tâm, đủ tài cho đất nước. Nhưng chúng ta không khỏi băn khoăn, trăn
trở qua những kỳ thi nhiều khi bị biến tướng, không phản ánh thực chất của việc
học hành và trình độ các thí sinh hiện tại, khơng phản ánh đúng thực chất của
tình hình giáo dục hiện nay.
Hiện tượng quay cóp, gian lận trong thi cử, chợ luận văn luận án, chợ phao
phỏm v.v... nói lên việc biến tướng mục đích và bản chất của việc thi cử hiện nay.
Điều đó khơng chỉ diễn ra với lứa tuổi học sinh mà còn ngay cả với cán bộ đảng viên
có chức có quyền. Gần đây nhất việc gian lận thi hộ trong kỳ Cao học của hai vị cán
bộ là ơng Lê Trá Khối - Phó chánh Thanh tra Nhà nước tỉnh Quảng Bình và Lương
Hải Lưu - Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển huyện Tun Hóa,
Quảng Bình. Vụ một Phó Giáo sư (ơng Trịnh Xuân Dũng, Hiệu trưởng Cao đẳng Du
lịch Hà Nội) bị tước bỏ chức danh vì ăn cắp cơng trình của người khác. Hay vụ ông

9


Thứ trưởng một Bộ, ơng giám đốc một Sở có bằng "tiến sĩ ngoại" giả v.v... là những
ví dụ điển hình nhất cho mn vàn ví dụ khác đã được xã hội nói đến.
Kỳ thi tốt nghiệp phổ thơng các cấp con số đạt tốt nghiệp thường là từ
90% trở lên, thậm chí có những nơi đến hơn 99%. Trong số đó, số lượng đỗ loại
khá giỏi khá cao. Nhưng cũng chính những cơ tú, cậu tú đỗ khá giỏi ấy bước
sang kỳ thi Đại học, để rồi đã có một khối lượng khổng lồ những điểm 0 (không)
trong các bài thi môn tự nhiên, một khối lượng không nhỏ những bài văn cười ra
nước mắt, những bài lịch sử ngơ nghê, khơng kiến thức cũng chính là hậu quả

của bệnh thành tích.
Căn bệnh thành tích thực chất là sự "dối trá". Và, khi hiện tượng này tồn
tại một cách thực tế trong đời sống, nó làm cho mọi hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội bị biến tướng, mất đi tính cơng khai, minh bạch cần có. Chúng ta cần gì ở
những tấm bằng khơng thực chất, khi mà sự chứng nhận đó khơng tương ứng với
thực lực có được của con người ấy?
Những bậc phụ huynh nghĩ gì khi tổ chức ném bài thi cho con em họ, làm
mất đi môi trường nghiêm túc trong thi cử? Họ đã góp sức giúp con cái họ có
được tấm bằng khơng phải của chính chúng. Cái nguy hiểm hơn của việc này là,
những bậc làm cha mẹ đó đã nêu một tấm gương xấu về sự coi thường kiến thức
kỷ cương phép nước cho con cái mình noi theo.
Nạn bằng giả lộng hành, nhưng cịn có thể hạn chế bằng cách phát hiện.
Nhưng nạn bằng thật học giả là một căn bệnh trầm kha khó tìm thuốc chữa, hậu
quả của nó khơng chỉ là một năm, một thế hệ, mà còn ảnh hưởng lâu dài đến
tương lai đất nước, tương lai dân tộc.

10


Thử phân tích một vài hiện tượng, khơng khó để nhìn thấy những hậu quả của
nó. Có phụ huynh đã tâm sự thế này: Con tôi, một trẻ lớp 1 của một trường ở Thủ đô.
Tôi thường dạy cháu phải sống trung thực. Nhưng trớ trêu thay, khi nhận kết quả học
tập cuối năm, tôi hỏi: Con gái bố học giỏi thật thế à toàn điểm 9 và 10? Cháu vơ tư
nói: "Khơng bố ạ điểm thi của con chỉ được 7 và 8 thơi, nhưng cơ giáo bảo đó là
điểm ở lớp, còn điểm ghi báo cáo nhà trường và sổ liên lạc phải ghi 9 và 10”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều
do giáo dục mà nên". Điều nguy hại của bệnh thành tích trong giáo dục là thế hệ
trẻ dần dần coi chuyện dối trá là bình thường, trong khi tuổi niên thiếu là tuổi
bước đầu được giáo dục để hình thành về nhân cách.
Có phải, trong hành trang vào đời của những đứa trẻ hôm nay, dối trá đã là
một thứ cần thiết đi theo chúng? Những đứa trẻ đó sẽ là chủ nhân đất nước trong

tương lai. Vậy những ông chủ này sẽ điều hành, làm chủ giang sơn ra sao, khi
mà trong đầu họ cái cần nhất là kiến thức, nhân cách thì thiếu hụt nhưng chúng
lại thừa những điều khơng đáng có: Sự dối trá.
Thật khó có thể kể ra hết những hậu quả của một nền giáo dục chạy theo
thành tích. Khi con người khơng có đủ những kiến thức, khả năng để điều khiển
cuộc sống, làm chủ xã hội như cần có, thì họ sẽ nảy sinh những mưu mơ, thủ
đoạn, dối trá, lừa đảo lẫn nhau để tồn tại sẽ là chuyện khơng khó xảy ra.
Thử xem lại hàng vạn bản báo cáo thành tích ở mọi ngành, mọi cấp đã có
được bao nhiêu lời báo cáo trung thực được trình bày trên những diễn đàn lớn,
trước những cuộc đón nhận danh hiệu này nọ, để rồi sau đó khơng lâu, ông Giám
đốc bị bỏ tù, đơn vị làm ăn thua lỗ, người lao động khơng có lương… Trên những

11


diễn đàn ấy, đã có được mấy tiếng nói từ lương tâm mình với sự trung thực cần
thiết, đa số là tranh cơng, đổ lỗi... Đó là hậu quả của căn bệnh thành tích.
Sự dối trá đã khiến nhiều người không muốn từ bỏ những cơ chế đặc quyền, đặc
lợi, họ chỉ muốn sống bằng những cái không thuộc năng lực của mình, dù ai cũng biết
rằng đó là điều cần loại bỏ nếu muốn có một xã hội tốt đẹp. Khi con người không đủ
khả năng đi lên bằng chính đơi chân vững chắc, bằng những kiến thức của mình, thì
việc tạo nên và dung dưỡng một mơi trường như thế để dung thân là điều dễ xảy ra.
Cái mất lớn nhất của bệnh thành tích khơng phải là mất thời gian, công
sức và tiền của mà là đạo đức, là nhân phẩm. Nếu sống trong điều kiện mà ln
phải nói dối nhau, nói dối hằng ngày sẽ thành thói quen. Thói quen đó lặp lại
nhiều lần thành tính cách.
Từ những phân tích trên cho thấy chúng ta cần phải nghiêm túc đánh giá
và nhìn nhận tình hình, cần phải khắc phục bệnh thành tích để sự nghiệp "trồng
người” được phát triển đúng yêu cầu của đất nước đặt ra. Đây là nhiệm vụ cấp
thiết không chỉ của ngành giáo dục mà là cả hệ thống chính trị - xã hội, các cấp

phải cùng nghiêm túc thực hiện.
4. Nhận diện những biểu hiện của bệnh thành tích trong Giáo dục
Quân đội.
Giáo dục Quân đội là một bộ phận cấu thành nền Giáo dục Quốc gia.
Giáo dục trong Quân đội rất đa dạng và phong phú từ cấp thiếu sinh quân
cho đến trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; cả hình thức bổ túc,
khơng tập trung đến chính quy, tập trung; đào tạo đa ngành nghề từ kinh tế,
chính trị, kỹ thuật, quân y, hậu cần, nghệ thuật, báo chí, cơng nghệ thơng

12


tin, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn với hàng trăm trường ở
các cấp v.v... Cùng với sự phát triển của nền Giáo dục Nước nhà, Giáo dục
Quân đội cũng không ngừng trưởng thành và phát triển. Mỗi năm, Giáo dục
Quân đội cung cấp hàng chục nghìn lao động có trình độ cao cho các ngành
nghề trong Quân đội nói riêng cũng như cho nền kinh tế - xã hội đất nước
nói chung. Những thành tựu của Giáo dục Quân đội đã góp phần quan trọng
vào xây dựng Quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục Quân đội cũng còn
nhiều nhược điểm và hạn chế, trong đó có bệnh thành tích. Nó thể hiện trong các
khâu, các quá trình giáo dục trong các nhà trường quân đội và ở các đơn vị. Nhiều
đơn vị, khi báo cáo thành tích học tập chính trị tư tưởng và thành tích huấn luyện
qn sự đều có sự "nâng lên" so với thực tế. Trong nhà trường, kết quả học tập,
rèn luyện đều "rất cao", đa số các môn thi đều đạt trên 70 % khá và giỏi. Số lượng
học viên bị trượt và học lại rất ít, thậm chí là khơng có. Học viên ra trường thì
cũng từ 70 % trở lên đạt bằng khá và giỏi, rất hiếm học viên lưu ban. Kết quả rèn
luyện trên các mặt cũng rất cao v.v... Trong những kết quả ấy, có người là thực sự

nhưng cũng rất nhiều người đạt được như vậy là do chiếu cố, do nâng đỡ, do thành
tích đơn vị. Nguyên nhân của bệnh thành tích trong Giáo dục Qn đội cũng có
nhiều song theo tơi, nguyên nhân quan trọng nhất chi phối chủ yếu là do chỉ tiêu
thi đua đề ra quá cao đã dẫn đến áp lực phải đạt được thành tích, nếu khơng cả đơn
vị sẽ bị xét khơng hồn thành nhiệm vụ v.v... Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng giáo dục trong Quân đội, đến thói quen và động cơ học tập của học
viên cũng như ảnh hưởng đến phẩm chất, tính cách của cả người dạy và người
học. Do đó, việc nhận diện những biểu hiện của bệnh thành tích và nguyên nhân

13


của nó sẽ là cơ sở để các nhà trường, các đơn vị có chủ trương, giải pháp phù hợp
để khắc phục triệt để hiện tượng này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo trong Quân đội, khẳng định vị thế và uy tín của Giáo dục Quân đội trong nền
giáo dục Quốc gia.
5. Giải pháp khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay.
Thiết nghĩ, để khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục, chúng ta cần đề
xuất, thực hiện đồng bộ và tổng hợp nhiều giải pháp.
5.1. Thay đổi cách đánh giá các danh hiệu thi đua của cá nhân và tập
thể nhà trường một cách sát thực hơn.
Trong đánh giá người dạy: Thay vì lấy tiêu chí học sinh lên lớp, đậu tốt
nghiệp làm cơ sở chính để xét thi đua thì ngành giáo dục dùng các biện pháp như
tăng cường dự giờ, thao giảng, kiểm tra sổ sách, lấy ý kiến phản hồi từ học sinh
về khả năng và phương pháp dạy - hiểu của giáo viên đối với học sinh, khả năng
tổ chức quản lý dạy học của nhà trường.
Trong đánh giá người học: Lối thi cử truyền thống có khơng ít nhược
điểm vì nó khơng giúp nhiều cho việc đánh giá sản phẩm theo mục tiêu mà Luật
Giáo dục yêu cầu. Thay đổi lối thi cử hiện nay đã thành vấn đề thời sự. Nhưng
thay đổi để dẫn đến kết quả mong muốn là việc đánh giá trình độ học sinh phải

trở nên khách quan, trung thực, tồn diện hơn khơng phải là đơn giản.
Thứ nhất, cần thành lập ngân hàng đề phong phú, đáng tin cậy, phủ hết
chương trình các môn thi. Từ ngân hàng này, đến kỳ thi, người ra đề thi chỉ
phải rút ra một cách ngẫu nhiên và cấu trúc lại thành một đề hoàn chỉnh.
Song song đó, thay thế kiểu ra đề tự luận 100% hiện nay bằng ra đề trắc
nghiệm khách quan cho các môn tự nhiên, ngoại ngữ và một số nội dung
trong các mơn xã hội. Cách giúp này giảm bớt tính chủ quan của người được

14


chọn ra đề, giảm hiện tượng dạy tủ học tủ, dạy thêm học thêm, lại nâng cao
chất lượng đề thi.
Thứ hai, với ngân hàng đề có sẵn, chuyển một số môn thi viết và đưa thêm
một số môn khác thành thi vấn đáp. Số mơn thi vấn đáp có thể chiếm tỷ trọng
mỗi năm một cao. Cách làm này tránh được hiện tượng quay cóp và tiêu cực
trong phịng thi, giúp giám khảo đánh giá kỹ hơn, sát hơn trình độ hiểu biết và kỹ
năng diễn đạt bằng lời của người học.
Thứ ba, cần căn cứ vào nhiều yếu tố để đánh giá chất lượng giáo dục,
tránh dựa chủ yếu vào thành tích lên lớp, tốt nghiệp.
Thứ tư, khó khăn nhất là thay đổi triết lý đánh giá trình độ con người chỉ
qua văn bằng, mà đánh giá qua những gì người đó làm được. Từ đó, tạo nên một
triết lý mới: Người thi không đỗ không phải là người thất bại trong đời, bởi dù
sao thi cử cũng chỉ mới là một “cuộc chơi” sát hạch về lý thuyết của vài mơn học
mà thơi. Với họ vẫn có thể "vào đời" bằng nhiều con đường khác.
5.2. Giáo dục, quán triệt nâng cao ý thức đấu tranh phê bình và tự phê
bình của cán bộ, giáo viên đối với các biểu hiện thiếu trung thực về thành tích
dạy học cũng như các vấn đề tiêu cực khác trong nhà trường.
5.3. Giáo dục học sinh tinh thần tự giác đấu tranh, tố giác những hiện
tượng tiêu cực của học sinh, giáo viên và phụ huynh trong học tập, thi và kiểm

tra.
5.4. Xác lập quy chế xử phạt nghiêm khắc đối với các cá, nhân tổ chức
phản ánh sai thành tích dạy và học nhằm mục đích được khen thưởng.
5.5. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên (đặc biệt là chất
lượng giảng viên đại học) - nhân tố quyết định chất lượng giáo dục.
Những hạn chế và yếu kem của gáo dục Đại học trong những năm qua là
sản phẩm của các chính sách phát triển Đại học của các nhà quản lý. Bệnh thành
15


tích dẫn đến các cuộc chạy đua theo bề nổi, theo số lượng mà ít quan tâm thực
chất, đặc biệt ít quan tâm tới yếu tố con người. Không quan tâm đội ngũ giảng
viên và cơ sở vật chất. Bước vào thời kỳ đổi mới chúng ta đã thay đổi mơ hình
và hệ thống Đại học, đa ngành hố đào tạo, đầu tư nhiều kinh phí cho các trường
trọng điểm, nhưng chất lượng vẫn tụt hậu. Vì sao như vậy? Ngun nhân của
tình trạng trên có nhiều, nhưng theo tơi, có một vấn đề rất then chốt nhưng đã bị
bng lỏng, thả nổi và cho đến nay vẫn chưa hề được đặt ra để giải quyết. Đó là
vấn đề đội ngũ giảng viên đại học. Ai cũng biết nhân tố con người quyết định tất
cả, nhưng nhân tố con người trong trường Đại học thì bị thả nổi từ những năm 80
cho đến nay! Thời Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp việc chọn người gửi đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa
rất được coi trọng, kết quả là chúng ta có được một đội ngũ cốt cán làm nòng cốt
cho việc đào tạo đại học và sau đại học cho đến nay. Nhưng từ khi bước vào thời
kỳ đổi mới, đặc biệt từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, quan hệ giao lưu quốc tế thay đổi lớn, việc giao lưu và hợp tác trong giáo dục
bị gián đoạn, chất lượng đội ngũ đã tỏ ra hạn chế bởi khơng có điều kiện tiếp xúc
với môi trường khoa học tiên tiến và hiện đại. Trung Quốc cũng có tình trạng
như ta, nhưng họ nhanh chóng chuyển hướng: đưa hàng loạt cán bộ khoa học đào
tạo trong nước và ở các nước xã hội chủ nghĩa (cũ), vốn đã có trình độ, đi đào
tạo lại dưới hình thức thực tập sinh tại các nước Âu - Mỹ. Làm như thế họ đạt

được ba mục đích. Một là trang bị lại ngoại ngữ, hai là trang bị lại kiến thức và
ba là xây dựng các quan hệ hợp tác khoa học mới. Nhờ thế, thế hệ cốt cán vừa
duy trì vị thế, vừa có điều kiện đổi mới chương trình và giáo trình đào tạo, rút
ngắn khoảng cách tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới.
Chúng ta cũng có một thế hệ như thế, nhưng đã bị "bỏ rơi". Họ ít có điều
kiện tiếp cận vời trình độ khoa học cơng nghệ phương Tây, học trị do họ đào tạo
ra vì thế mà cũng khơng theo kịp trình độ của thời đại, đặc biệt là các ngành

16


khoa học xã hội và nhân văn. Thế hệ cốt cán nói trên nay đã về hưu hoặc ngấp
nghé về hưu, và xảy ra tình trạng hẫng hụt nghiêm trọng đội ngũ giảng viên có
chất lượng. Đội ngũ giảng viên cốt cán hiện nay chủ yếu được đào tạo trong
nước, học trò của thế hệ thứ nhất. Nhược điểm trầm trọng của họ là khơng tinh
thơng ngoại ngữ, ít vốn liếng văn hố Âu - Mỹ và ít có quan hệ khoa học với các
trường Đại học Âu - Mỹ. Nếu "bỏ rơi" nốt thế hệ này thì sự hẫng hụt giảng viên
sẽ kéo dài thêm trong vài thập kỷ nữa. Độ tuổi của thế hệ này trung bình từ 35 50 tuổi. Cần có kế hoạch gấp rút cho thế hệ này được đi tu nghiệp ở các nước Âu
Mỹ trong vòng từ 1 - 3 năm, trang bị lại ngoại ngữ và kiến thức khoa học, trên cơ
sở đó họ sẽ co đủ điều kiện phát huy vai trò cốt cán trong đào tạo cho đất nước
trong khoảng 10 - 15 năm tới. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo Đại học trước
mắt thì phải có chính sách đúng đắn đối với thế hệ cốt cán hiện nay. Tiếp theo
cần có chính sách đào tạo các thế hệ kế tiếp.
5.6. Chống tiêu cực và bệnh thành tích phải xây dựng thành cơ chế.
Tuyên chiến với chống tiêu cực trong giáo dục là một cuộc vận động lớn.
Nhưng ý nghĩa sâu xa của nó khơng chỉ nhằm làm xoay chuyển nhận thức về
bệnh gian dối. Muốn có hiệu quả, cuộc vận động phải xây dựng được cơ chế vận
hành, kết hợp nhiều giải pháp giáo dục đồng bộ dưới một tư duy mới.
Ngành giáo dục và đào tạo xem xét lại chủ trương và phương thức tổ chức thi
đua. Chỉ tiêu thi đua phải được xây dựng sát với các điều kiện giáo dục, tránh duy ý

chí, nhưng lại phải động viên được sự nỗ lực học tập của thầy trị. Bởi bản chất của
thi đua địi hỏi có sự cố gắng vượt lên hồn cảnh chứ khơng dừng lại ở hoàn cảnh.
Chống bệnh gian dối một cách căn bản nhất, hữu hiệu nhất và có ích nhất
cho đất nước chính là phải nâng cao chất lượng GD-ĐT đáp ứng yêu cầu phát

17


triển xã hội. Đó là việc xem xét điều chỉnh nội dung, chương trình, sách giáo khoa
với một cái nhìn tổng thể, xuyên suốt mục tiêu học gắn với hành; xã hội hoá giáo
dục mạnh mẽ, khai thác và tận dụng tối đa các nguồn lực xã hội để các cơ sở giáo
dục có những điều kiện tương ứng tạo nên chất lượng; đặc biệt, là phải xây dựng
được một đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý thực sự có đức, có tâm, có tài, có niềm
say mê với đổi mới phương pháp giáo dục, tạo dựng những thế hệ trẻ có năng lực
tư duy và sáng tạo. Họ phải được ưu đãi hơn nữa, nhưng đồng thời, cũng phải có
những chế tài quy phạm pháp luật chặt chẽ, nghiêm khắc hơn nữa.
Quan trọng nữa, chống tiêu cực trong giáo dục cịn phải trên một nền tảng xã
hội có sự đổi mới nhận thức về tiêu chí, thước đo năng lực thực chất, tạo ra một môi
trường cạnh tranh, trong đó yếu tố cơ bản nhất là sự bình đẳng về cơ hội tuyển dụng,
thay thế cho sự quá coi trọng về bằng cấp. Có như thế, sự gian dối khơng chỉ khó cịn
đất sống trong nhà trường mà cũng khó cịn đất sống ở ngay trong xã hội.
5.7. Minh bạch hóa và khách quan trong khâu tuyển dụng lao động.
Phải trị "ngun phát" của căn bệnh, đó chính là vấn đề sử dụng con người
(nhân lực, lao động) của các cơ quan, tổ chức. Tuyển dụng, sử dụng người khơng
thể chỉ cần có bằng cấp, mà phải căn cứ vào trình độ thực chất của ứng viên như
nhiều nơi đã và đang làm. Thực tế hiện nay số "cậu cử, cô cử” không thực chất
chẳng bao giờ dám ứng tuyển vào những nơi đòi thực chất, cho dù chỗ ở đây có
lương cao và điều kiện làm việc khá lý tưởng. Phải thay đổi tư duy về bằng cấp,
bằng cấp chỉ là một tiêu chí, nhiều trường hợp bằng giỏi và xuất sắc lại khơng có
kiến thức, khơng làm được việc, và ngược lại. Khi xã hội dùng người thực chất,

dùng "hàng thật - hàng chất lương cao" thì "hàng giả, hàng dởm" sẽ khơng cịn
đất dung thân. Cũng thế, ngành giáo dục và đào tạo sẽ không thể chạy theo thành
tích mà cho ra lị những cử nhân "dởm", kỹ sư "giả" được. Khi đó cũng sẽ không
18


cịn tình trang chen nhau thi đại học để rồi trượt nhiều, đỗ ít "thừa thầy thiếu thợ"
như hiện nay.

KẾT LUẬN
Đất nước ta đã và đang trong giai đoạn phát triển và hội nhập, với xu thế
mở rộng quan hệ và giao lưu hợp tác quốc tế ngày càng cao. Để đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp CNH-HĐH và phát triển đất nước hiện nay, sứ mệnh của Giáo dục Đào tạo là phải tạo ra những con người có các giá trị xã hội cần thiết, có tri thức
và kỹ năng tương đối hiện đại, có khả năng sáng tạo, có phương pháp tự học và
tự đổi mới suốt đời. Muốn vậy, phải không ngừng đổi mới tư duy và nâng cao
chất lượng giáo dục, khắc phục triệt để những tiêu cực và bệnh thành tích trong
giáo dục. Đây là u cầu và địi hỏi cấp thiết đặt ra khơng chỉ với ngành Giáo
dục mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, trong đó
có Giáo dục Quân đội.
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2011.
2. Website Bộ Giáo dục và đào tạo (tháng 07 năm 2006)
.
(3). (4). (5). Đổi mới công tác thi đua khen thưởng thực hiện thắng lợi
cuộc vận động nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 22 tháng

08 năm 2007 tại Hà Nội.
6. Giáo dục học quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội. 2001.

20


7. Nghị quyết 86 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về công tác giáo dục đào tạo trong nhà trường quân sự.
8. Đổi mới tư duy giáo dục, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện Chiến lược và
chương trình giáo dục, Hà Nội. 2005.
9. Mạng Internet...

21



×