Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt nam và các giải pháp thực hiện doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.84 KB, 47 trang )













TIỂU LUẬN:

Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời
kỳ 2001-2005 ở Việt nam và các
giải pháp thực hiện









Lời giới thiệu.
Sau hơn 10 năm đổi mới đời sống kinh tế xã hội của nước ta đã có được
những bước chuyển biến rất rõ nét, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước
đã sử dụng ngày càng tốt hơn hệ thống chính sách kinh tế và công tác KHH trong
quá trình điều hành nền kinh tế. Không như ở các nước, ở Việt Nam công tác KHH


vẫn được coi trọng và ngày càng đặt ra các yêu cầu mới để đáp ứng được những đòi
hỏi của nền kinh tế trong điều kiện mới. Trong hệ thống KHH vĩ mô của nhà nước
thì KHHTTKT là bộ phận kế hoạch mục tiêu quan trọng nhất. Để tìm hiểu rõ hơn về
công tác KHH nói chung và KHTTKT của Việt nam nói riêng em đã chọn đề
tài:KHTTKT thời kỳ 2001-2005 của Việt nam và các giải pháp thực hiện.Trong đề
án này em chia nội dung thành ba phần chính:
Phần 1 : Sự cần thiết của KHHTTKT trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
Phần 2 : Thực trạng của việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế ở Việt
nam thời kỳ 1996-2000.
Phần 3 : Kế hoạch TTKT của Việt nam thời kỳ 2001-2005 và các giải pháp
thực hiện.















Phần I
Sự cần thiết của kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế trong quá trình phát
triển kinh tế – xã hội


I . Kế hoạch tăng trưởng kinh tế và vị trí vai trò, nhiệm vụ của nó trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội.

1. Một số khái niệm cơ bản.
- Khái niệm: Tăng trưởng kinh tế ( TTKT )
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô khối lượng sản xuất và dịch vụ
thực hiện trong nền kinh tế quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu như: Mức tăng
trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế và được đo lường bằng một số tiêu thức
như: Tổng quy mô khối lượng của sản xuất và dịch vụ, GDP,GNP, thu nhập bình
quân đầu người. . .Thông qua các chỉ tiêu này nó cho ta thấy được rõ hơn sự tăng
trưởng của nền kinh tế và giúp cho ta so sánh với các nước khác.
- Khái niệm : Kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế (KHHTTKT).
Kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá
phát triển kinh tế xã hội, nó xác định các mục tiêu gia tăng về quy mô khối lượng
của sản xuất và dịch vụ thực hiện trong nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ kế hoạch
và những giải pháp chính sách cơ bản nhằm thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng
kinh tế trong sự khống chế và ràng buộc với các mục tiêu vĩ mô khác và các cân đối
chủ yếu trong mô hình cân đối tổng quát.

2.Vị trí vai trò của KHHTTKT.
Thông qua thực tế việc thực hiện KHHTTKT ở Việt nam cũng như các kinh
nghiệm đã đúc rút được từ các nước khác trong khu vực và trên thế giới,ta thấy
KHHTTKT có những vai trò sau:



- Trước tiên phải khẳng định rằng KHHTTKT là một bộ phận kế hoạch quan
trọng nhất trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển. Đây là bộ phận kế hoạch mục

tiêu, nó bao gồm các mục tiêu có liên quan trực tiếp đến các vấn đề phát triển kinh
tế(các điều kiện vật chất).Nó là cơ sở để xác định các mục tiêu xã hội khác của sự
phát triển như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích luỹ đầu tư , các mục tiêu về xã hội…
- Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu trong một số kế hoạch khác như : Kế
hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành , kế hoạch chuyển dịch cơ cấu vùng, xây dựng kế
hoạch về nguần lực, xác định một số cân đối vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế như;
Quan hệ tích luỹ tiêu dùng, cân bằng ngân sách, cán cân thanh toán quốc tế, lạm
phát thất nghiệp …
- Mối quan hệ giữa KHTTKT với các mục tiêu vĩ mô khác như tăng trưởng
kinh tế với ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết việc làm và vấn đề
cân bằng cán cân thanh toán quốc tế… Trên thực tế, các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau. Do vậy, khi xây dựng kế hoạch tăng trưởng chúng ta phải đặt kế
hoạch mục tiêu tăng trưởng trong mối quan hệ với các mục tiêu khác. Khi đã có
mục tiêu tăng trưởng thì phải có các chính sách vĩ mô để khống chế các mục tiêu
khác.
- Mối quan hệ giữa kế hoạch tăng trưởng với việc giải quyết các vấn đề xã hội,
đó là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết việc làm, xoá đói
giảm nghèo và công bằng xã hội . Các mục tiêu này cũng có mâu thuẫn với nhau
đặc biệt là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng xã hội. Do vậy
phải dựa vào các mục tiêu xã hội để xác định các mục tiêu tăng trưởng. Khi đặt kế
hoạch tăng trưởng nhanh phải đưa ra các chính sách về phân phối và phân phối lại
hợp lý.
Như vậy KHHTTKT có một vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống kế
hoạch hoá, nó có tác động rất lớn đến việc xác định các mục tiêu kinh tế cũng như
các mục tiêu xã hội.

3. Nhiệm vụ của KHHTTKT




Kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế là hệ thống kế hoạch mục tiêu, chính vì vậy
nó có nhiệm vụ:
- Xác định các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước bao gồm các mục
tiêu gia tăng về sản xuất, dịch vụ và các chỉ tiêu xã hội có liên quan trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế.
Các mục tiêu gia tăng về sản xuất và dịch vụ bao gồm: tốc độ tăng trưởng của
các ngành,tốc độ tăng trưởng của các vùng , các thành phần kinh tế và mức tăng
trưởng của từng ngành ,từng vùng, từng thành phần kinh tế trong thời kỳ kế hoạch.
Mặt khác, kế hoạch tăng trưởng kinh tế cũng xác định sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của nền kinh tế trong thời kỳ kế hoạch.
- Bên cạnh việc xác định các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước trong
thời kỳ kế hoạch thì kế hoạch tăng trưởng kinh tế còn có nhiệm vụ xây dựng các
chính sách, các giải pháp và thể chế của thời kỳ kế hoạch bao gồm các chính sách
nhằm khai thác nguần lực cho mục tiêu tăng trưởng, đồng thời khống chế các chỉ
tiêu tăng trưởng với các chỉ tiêu khác trong thời kỳ kế hoạch.
II. Nội dung của KHHTTKT
1. Kế hoạch tăng trưởng phù hợp
Kế hoạch tăng trưởng phù hợp là kế hoạch trong đó các chỉ tiêu được xây
dựng dựa trên cơ sở các giới hạn tối đa về nguồn lực cho phép.
Theo Harrod Domar thì kế hoạch tăng trưởng phù hợp là kế hoạch trong đó
các chỉ tiêu tăng trưởng được xác định dựa trên cơ sở giới hạn tối đa về khả năng
tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư của nền kinh tế.
2. Kế hoạch tăng trưởng tối ưu
Kế hoạch tăng trưởng tối ưu là kế hoạch trong đó các chỉ tiêu tăng trưởng xây
dựng lên bảo đảm được huy động tối đa khả năng nguồn lực cho phép đồng thời đáp
ứng được nhu cầu tiêu dùng cao nhất của xã hội.
Theo Harrod Domar : Kế hoạch tăng trưởng tối ưu là kế hoạch trong đó các
chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở giới hạn tối đa về khả năng tiết kiệm, tích luỹ và




đầu tư của nền kinh tế trong khuân khổ khống chế về các ràng buộc của tổng cầu
theo mô hình tăng trưởng tổng quát.
3. Mối quan hệ của tăng trưởng kinh tế với sự phát triển các ngành các lĩnh
vực.
Ta đã biết rằng, kế hoạch tăng trưởng kinh tế một bộ phận kế rất quan trọng
trong hệ thống kế hoạch hoá. Nó là kế hoạch trung tâm và là căn cứ để xác định các
kế hoạch khác của quá trình phát triển. Xuất phát từ mục tiêu tăng trưởng kinh tế để
chúng ta xác định mục tiêu tăng trưởng của từng ngành, từng lĩnh vực. Căn cứ vào
mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế để từ đó xác định các chỉ tiêu tăng trưởng của
từng ngành, từng vùng và của các thành phần kinh tế. Đồng thời từ mục tiêu tăng
trưởng để xác định các nguồn lực của nền kinh tế phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
đã đặt ra. Bên cạnh việc xác định các mục tiêu kinh tế thì kế hoạch tăng trưởng
cũng là căn cứ cơ bản để xác định các mục tiêu phát triển xã hội. Như vậy tăng
trưởng kinh tế có quan hệ mật thiết với các mục tiêu phát triển kinh tế cũng như các
mục tiêu xã hội khác.
III. Các nhân tố có liên quan đến việc tăng trưởng
Muốn xem xét các nhân tố có liên quan đến vấn đề tăng trưởng thì trước tiên
chúng ta phải biết được tăng trưởng xuất phát từ đâu.
1.Nguần gốc của sự tăng trưởng kinh tế.
Có thể khẳng định rằng sự tăng trưởng chỉ có thể được tạo ra từ quá trình sản
xuất. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp các nguần lực theo các cách thức nhất
định nhằm tạo ra các sản phẩm có ích cho xã hội. Như vậy rõ ràng giữa việc sử
dụng các nguần đầu vào có quan hệ nhân quả tới sản lượng đầu ra. Nói cách khác sự
tăng trưởng hay sự gia tăng sản lượng phải được xác định cách thức sử dụng các
luồng đầu vào.
Vấn đề đặt ra là có bao nhiêu luồng đầu vào có tác động tới kết quả của sản
xuất và mỗi luồng đầu vào đó đóng vai trò như thế nào trong sự tăng trưởng. Đã có
rất nhiều lý thuyết và các mô hình tăng trưởng từ trước đến nay trình bày và lý giải
vấn đề này. Tuỳ theo trình độ phát triển ở mỗi thời kỳ, sự khám phá đó đi từ thấp




đền cao, từ giản đơn đến phức tạp nhằm tiếp cận đến những bí mật của sự tăng
trưởng. Mặc dù nhiều vấn đề trong đó ngày nay vẫn đang được làm rõ, song bằng
sự đo lường và kết quả thực tế, người ta đã phân các luồng đàu vào có ảnh hưởng
tới sự tăng trưởng làm hai loại: các nhân tố kinh tế và các nhân tố phi kinh tế.
2. Các nhân tố kinh tế
Đây là các luồng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm biến đổi sản
lượng đầu ra. Trong nền kinh tế thị trường, các nhân tố đó đều chịu sự điều tiết của
quan hệ cung cầu. Một số luồng đầu vào thì ảnh hưởng tới mức cung, một số thì ảnh
hưởng tới mức cầu. Trên thực tế thì các yếu tố sản xuất đóng vai trò của các nhân tố
quyết tổng cung còn các yếu tố quyết định tổng cầu thực chất là các dữ kiện ảnh
hưởng đến kết quả sản lượng thông qua sự cân bằng cung cầu. Thực chất của việc
tiếp cận đến nguần gốc của tăng trưởng là xác định những nhân tố nào là giới hạn
của sự gia tăng sản lượng. Điều đó đưa tới một vấn đề trung tâm của sự tranh luận
trong các lý thuyết tăng trưởng mà cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất, đó là sự
giới hạn của tăng trưởng là do cầu hay cung quyết định.
Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển cung chưa đáp ứng được cầu,
việc gia tăng sản lượng phải bắt nguần từ sự gia tăng trong đầu vào trong điều kiện
trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Có thể nêu ra một số các yếu tố sản xuất
sau đây:
- Vốn sản xuất là bộ phận tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình
sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà kho và phương tiện kỹ
thuật. Trong điều kiện năng xuất lao động và số lao động không đổi, thì tăng tổng số
vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng
- Lao động là yếu tố sản xuất. Nguần lao động được tính trên tổng số người ở
độ tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Lao động với tư cách là yếu
tố sản xuất đặc biệt, do vậy lượng lao động không chỉ là số lượng mà còn bao gồm

cả chất lượng nguồn lao động. Do vậy những chi phí nhằm nâng cao trình độ người
lao động cũng được coi là đầu tư dài hạn cho đầu vào.



- Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù với
nền kinh tế công nghiệp hiện đại, đất đai dường như không quan trọng song thực tế
không phải như vậy. Kể cả với sản xuất công nghiệp hiện đại thì cũng không thể
không có đất đai. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu quả sử
dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn nhằm tăng thêm số lượng sản
phẩm. Còn một số tài nguyên khác cũng có vai trò là đầu vào của quá trình sản xuất
và làm tăng sản lượng đầu ra như: tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, rừng ,biển….
- Những thành tựu kỹ thuật và công nghệ mới là đầu vào đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong vấn đề tăng trưởng. Những kỹ thuật và công nghệ mới ra đời là do
tích luỹ kinh nghiệm trong lịch sử và đặc biệt là được tạo ra từ những chi thức mới
– sự phát minh, đem vào áp dụng trong các quy trình sản xuất hiện tại. Sự chuyển
nhượng và ứng dụng những phát minh và tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới trong sản xuất rõ ràng là một lợi thế lịch sử của các nước đang phát triển.
Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố
kinh tế khác tác động đến sự tăng trưởng như: lợi thế về quy mô sản xuất, chất
lượng lao động, khả năng quản lý…Những nhân tố này rõ ràng góp phần làm tăng
sản lượng và tác động đến sự tăng trưởng.
- Quy mô sản xuất thể hiện ở khối lượng sử dụng các đầu vào. Trong khi tỷ lệ
giữa các yếu tố sản xuất không đổi, các điều kiện khác như nhau nếu ta tăng quy mô
sản xuất thì sẽ làm tăng sản lượng đầu ra và từ đó làm cho nền kinh tế có sự tăng
trưởng.
- Người ta cũng nhận thấy rằng cùng với sự đầu tư trang bị kỹ thuật và công
nghệ như nhau, nhưng ở các nước tiên tiến và có trình độ văn hoá trong dân cư cao
hơn sẽ đem lại nâng suất lao động cao hơn và sự tăng trưởng cao hơn. Điều đó đã
cho thấy chất lượng lao động đã tạo sự tăng trưởng đáng kể.

- Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng xuất khác nhau. Sự đổi
mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng xuất cao chiếm tỷ
trọng cao trong nền kinh tế tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng lên. Sự đổi mới trong
cơ cấu thể hiện ở sự bố trí lại nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ và



tiêu dùng và các biện pháp tạo cung tạo cầu…Điều đó làm cho các nhân tố tích cực
được nhân lên, giảm bớt một cách tương đối những chi phí, cũng đưa lại hiệu quả
như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức và quản lý kinh tế được coi là một nhân tố làm
tăng thêm sản lượng và từ đó sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng.
Trên thực tế thông qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho chúng ta
thấy rằng, trong các nhân tố kinh tế ở trên thì vốn và công nghệ đóng vai trò chủ
chốt trong tăng trưởng. Nhưng vốn và công nghệ xét trên phạm vi vĩ mô phải do
quy mô thị trường tác động. Điều đó không còn là sự ảnh hưởng riêng của các nhân
tố kinh tế mà nó thuộc về bối cảnh kinh tế xã hội, đó là các nhân tố phi kinh tế.
3. Các nhân tố phi kinh tế
Khi đề cập đến vấn đề tăng trưởng, bên cạnh các yếu tố kinh tế thì các yếu tố
phi kinh tế cũng có ảnh hưởng đáng kể. Đặc điểm chung của các yếu tố phi kinh tế
là không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó. Do vậy không thể tiến hành
tính toán và đối chiếu cụ thể được. Mặt khác, các nhân tố này có phạm vi ảnh hưởng
rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách cụ thể rõ rệt được và
không có ranh giới rõ ràng. Dựa trên những tiêu chuẩn thông thường về sự tăng
trưởng và dựa vào kinh nghiệm, người ta thấy những nhân tố phi kinh tế tiêu biểu
sau:
- Cơ cấu dân tộc:ở đây muốn đề cập đến các dân tộc người khác nhau sống
cùng nhau tạo nên một cộng đồng quốc gia. Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể
đem đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Do
vậy phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng phải
bảo đảm được bản sắc riêng của mỗi dân tộc và sự ổn định chung của cả cộng đồng.

Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng kinh tế.
- Cơ cấu tôn giáo: vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người
đều theo một tôn giáo nhất định. Mỗi tôn giáo có những quan niệm, triết lý tư tưởng
riêng tạo ra những ý thức tâm lý – xã hội riêng của mỗi dân tộc, từ đó nó có ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển chung của xã hội.



- Đặc điểm văn hoá - xã hội: đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng
nhiều tới sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân
tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng của lao động, của kỹ
thuật công nghệ và trình độ quản lý kinh tế xã hội. Chính vì thế, đặc điểm văn hoá
xã hội cũng là một nhân tố ảnh hưởng sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- Các thể chế kinh tế – chính tri – xã hội: ngày nay người ta ngày càng thừa
nhận vai trò của thể chế chính trị xã hội như là là một nhân tố quan trọng trong quá
trình tăng trưởng kinh tế. Một thể chế chính trị – xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo
điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện
thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trên đây là toàn bộ các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá
trình tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy mức độ tác động của các nhân tố này tới sự
phát triển và tăng trưởng là khác nhau nhưng tất cả đều rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

Phần II
Thực trạng của việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế ở Việt nam
thời kỳ 1996-2000
I . Mục tiêu tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1996-2000
Đối với hầu hết các nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu
hàng đầu của đường lối, chiến lược và chính sách phát triển kinh tế. Đối với nước
ta, tăng trưởng kinh tế được Đảng và Nhà nước coi là trọng tâm của mọi nỗ lực

nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, tránh bị tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Xuất phát từ quan điểm trên, chúng ta đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế thời kỳ
này: thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả, ổn định vững
chắc kinh tế vĩ mô, chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.
II . Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch tăng trưởng thời kỳ 1996-2000
1. Những kết quả đã đạt được



Kế hoạch 5 năm 1996-2000 được xây dụng trong bối cảnh nền kinh tế nước ta
phát triển tương đối thuận lợi, hầu hết các chỉ tiêu của kế hoạch 1991-1995 đều đạt
và vượt mức kế hoạch đề ra, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và
chuyển sâng thời kỳ phát triển mới. Trong 5 năm qua, toàn Đảng toàn dân ta đã nỗ
lực phấn đấu vượt qua khó khăn thách thức, khắc phục những yếu kém trong nền
kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực từ các yếu tố khách quan và duy trì được
những kết quả tích cực.
1.1. Nền kinh tế giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực.
Đại hội Đảng VIII đã xác định giai đoạn 1996-2000 là bước rất quan trọng của
thời kỳ phát triển mới. Đại hội đã xác định thực hiện các mục tiêu tăng trưởng cao,
bền vững và hiệu quả, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 9-10%, giá
trị sản xuất công nghiệp tăng 14-15%/năm, nông nghiệp tăng 4,5-5%/năm, dịch vụ
tăng 12-13%/năm.

Kết quả thực thực hiện các chỉ tiêu qua từng năm của thời kỳ 1996-2000 được
thể hiện qua bảng số liệu sau :

Một số chỉ tiêu tăng trưởng








Đơn
vị
tính
Kế
hoạc
h 5
năm
1996
-
2000



199
5


199
6



1997



1998


1999


2000

Bình
quân
1996
-
2000

Tốcđộ
tăngtrưởng
%




Tốc độ tăng
GDP

%
9-10 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,7 7,0
Khu vực I

%
4,8 4,4 4,3 3,5 5,2 4,0 4,3

Khu vực II

%
13,6 14,5 12,6 8,3 7,7 10,1 10,6
Khu vực III

%
9,8 8,8 7,1 5,1 2,2 5,6 5,75
Giá trị SX nông,
lâm, ngư nghiệp
%

4,5-5

5,9 6,6 6,4 3,5 7,2 5,6 5,74
Giá trị sản xuất
công nghiệp
%
14-
15
14,5 14,2 13,8 12,5 11,6 15,7 13,5
Giá trị sản xuất
dịch vụ
%
12-
13
11,2 10,2 8,6 6,0 3,0 6,0 6,73
GDP theo giá
1994
Nghì

n tỷ
195,
6
213,
7
231,
3
244,
6
256,
3
273,
6

GDP bình quân
đầu người
Lần
Gấp
đôi
1990

1,4 1,5 1,6 1,7 1,7 1,8

Năm 1996, phát huy những thuận của kế hoạch 5 năm trước, nền kinh tế tiếp
tục có những chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 9,3%. Nhưng từ
giữa năm 1997 cho đến năm1999, nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt với những
thử thách rất quyết liệt từ những yếu tố không thuận trong nội tại nền kinh tế và từ
bên ngoài, sản xuất kinh doanh có dấu hiệu trì trệ, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp,
tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài bị chậm lại… Trước tình hình đó, chúng
ta đã lấy mục tiêu ổn định và phát triển bền vững làm cơ sở để xây dựng và điều

hành kế hoạch năm, hạn chế sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều giải



pháp được đưa ra, nhăm tháo gỡ khó khăn, ổn định và duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Trong khi phần lớn các nước trong khu vực có tốc độ tăng trưởng âm thì
kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng tương đối khá.
Năm 2000, với sự cố gắng rất lớn trong chỉ đạo điều hành cũng như việc thực
hiện có hiệu quả các giải pháp đã được đề ra ở các ngành, các cấp; tình hình kinh tế
xã hội đã có bước phát triển ổn định hơn, tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%, chặn được đà
giảm sút về nhịp độ tăng trưởng, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm
là 7%; đây là tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực. Nổi
bật nên một số mặt như sau:
a. Một là :nông nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và toàn diện trên
nhiều lĩnh vực. Nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần vào mức tăng trưởng
chung và giữ ổn định kinh tế xã hội. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng 5,7%/năm
vượt mục tiêu kế hoạch đề ra, trong đó nông nghiệp tăng 5,6%; thuỷ sản 8,4%; lâm
nghiệp 0,4%
Một số chỉ tiêu trong nông nghiệp

Tên chỉ tiêu
Đơn
vị
tính
Mục
tiêu
5 năm
do ĐH
VIII đề
ra

1996

1997 1998 1999 2000
Sản lượng lương thực có
hạt
Triệ
u tấn

30-32 29,2 30,6 31,8 34,3 34,5
Sản lượng lương
thực/người
Kg 360-370

386,
5
39,4 420 446 444
Tỷ trọng cây CN/ngành
trồng trọt
% 45 21 21,8 22,5 23 23,7
Tỷ trọng cây CN/ngành
% 30-35 16,5 16,7 16,9 17,1 17,3



NN
Bảo Vử rừng Triệ
u ha
9,3 9,3 9,3 9,3 9,3 11
Diện tích rừng tăng thêm Triệ
u ha

2,5 0,35 0,35 0,55 0,7 1
Trong đó: Rừng trồng
mới
Triệ
u ha
1,0 0,22 0,4 0,62 0,86 1,06
Độ che phủ rừng

% 40 27,9 30,9 31,5 32,2 33
Sản lượng thuỷ sản Triệ
u tấn

1,6-1,7 1,65 1,7 1,75 1,9 2,15
Trong đó: Sản lượng
nuôi trồng
100
0 tấn

500-550

41,1 44 420 448,8

589
Diện tích nuôi trồng thuỷ
sản
100
0 ha
600 500 500 508 535 625
Xuất khẩu thuỷ sản Triệ
u

US
D
1-1,1
696,
5
782 858 979 1479
Diện tích tưới tăng thêm
trong 5 năm
100
0 ha
200 37,7 46,6 56 30 40
Diện tích tiêu tăng thêm
trong 5 năm
100
0 ha
250 70,5 65 100 40 30
Tạo nguồn tăng thêm 100
0 ha
500 36,5 80,6 74 60 100

Nét nổi bật là sản lượng thực quy ra thóc bình quân mỗi năm tăng 1,6 triệu
tấn, năm 2000 đạt 35,7 triệu tấn, đủ cho tiêu dùng trong nước, dự trữ và xuất khẩu
với trữ lượng lớn. Diện tích một số cây công nghiệp bình quân hàng năm tăng khá



cao như cao su 7,9%, chè 6,1%, cà phê 22,6%, Hạt tiêu 28,5%, mía 6,1%, cây ăn
quả 10,3%.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, sản lượng thịt lợn hơi năm 2000 khoảng trên 1,4
triệu tấn và bằng 1,4 lần so với năm 1995. Nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản

phát triển khá nhanh; giá trị sản xuất ngành thuỷ sản chiếm 15% giá trị sản xuất
toàn ngành nông nghiệp, sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 6,3%/năm, trong đó sản
lượng nuôi trồng tăng 13,3%/năm; kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng bình quân
18,9%/năm, chiếm 34% kim ngạch xuất khẩu của ngành nông nghiệp và khoảng
10% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Ngành lâm nghiệp trong 5 năm đã trồng được gần 11 triệu ha rừng, bảo vệ 9,3
triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi tái sinh được gần 550 nghìn ha rừng. Độ che phủ
tăng từ 27,3% năm1995 lên 33,2% năm 2000 .
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế
biến được hình thành. Các làng nghề ở nông thôn được khôi phục, kinh tế hộ gia
đình tiếp tục phát triển. Sản xuất theo kiểu trang trại đã xuất hiện và phát triển khá
nhanh. Các nông, lâm trường quốc doanh đã được tổ chức lại, giao khoán cho hộ
công nhân sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật được cải thiện, nhiều thành tựu khoa học công nghệ kỹ
thuật được áp dụng góp phần quan trọng cho phát triển nông nghiệp. Hơn 30 viện
nghiên cứu khoa học và nhiều cơ sở sản xuất cây con được hình thành. Các loại
máy móc dùng trong nông nghiệp tăng gấp 1,2 lần, kim ngạch xuất khẩu của toàn
ngành tăng cao.
b. Hai là, công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn,thách thức, đạt
được nhiều tiến bộ.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5%; trong đó công
nghiệp quốc doanh tăng 10%/ năm và chiếm khoảng 42% giá trị sản lượng toàn
ngành; công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5%/năm và chiếm 24,2% giá trị sản
lượng toàn ngành; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%/nămvà
chiếm 35,6% giá trị sản lượng toàn ngành.




Một số ngành công nghiệp tiếp tục được tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lựa

chọn các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trường để đầu tư chiều
sâu, đổi mới công nghệ, đạt chất lượng cao hơn. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý
nghĩa chiến lược, có tác động đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng
khá, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu trong nước, không những đã thay thế được hàng
nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim
ngạch xuất khẩu cho đất nước.
Một số chỉ tiêu của ngành

Tên chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Mục
tiêu 5
năm do
ĐH VIII
đề ra
199
6
1997 1998

1999

200
0
Thực
hiện
5 năm
1996-
2000
Điện phát ra


Tỷ kwk 30 17 19,2 21,3 23,8 26,6 107,86

Dầu thô khai
thác

Triệu
tấn
16 8,8 10 12,5 15,2 16,3 62,8
Khí

Triệu
m
3
4000 285 600 900 1300

160
0
4685
Than sạch

Triệu
tấn
10 9,8 11,3 11,6 9,6 10,9 53,2
Thép cán

Triệu
tấn
2 0,86


0,95 1,1 1,3 1,7 5,91
Phân lân các
loại

1000 tấn

1200 837 885 970
110
0
3792



Phân đạm

1000 tấn

400-900 130 65 50 75 320
Vải lụa các loại

Triệu m 800 285 300 315 322 376 1598
Giấy các loại

1000 tấn

300 220 263 260 338 377 1458
Xi măng

Triệu
tấn

18-20 6,5 8 9,7 10,4 13,4 48
Đường các loại

1000 tấn

1000 636 649 736 947
116
5
4133
Nguần điện
tăng thêm
MW 3000
112,
8
288 610
133
0

Các tỉnh có
điện

Tỉnh 61 60 60 61 61 61
Tỷ lệ huyện có
điện
% 100 80 85 92 94 100
Tỷ lệ xã có
điện

% 80 59 62 66,5 76,3 80


Qua bảng số liệu trên ta thấy các sản phẩm của ngành công nghiệp tăng lên
đáng kể, như dầu thô tăng trên 16%, khai thác khí tăng 43%, điện tăng 14%, cán
thép tăng 30% Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể, hình
thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều
cơ sở sản suất có công nghệ kỹ thuật cao. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác dầu
khí chiếm khoảng 11,2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành; công nghiệp sản xuất
thực phẩm và đồ uống chiếm khoảng 20%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, hơi nước chiếm khoảng 5,4%. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp 5 năm



đạt trên 34 tỷ USD, tăng từ 3 tỷ USD năm1995 lên10,1 tỷ USD năm 2000 và chiếm
66% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Ngành xây dựng tiếp nhận công nghệ mới, trang bị thêm nhiều thiết bị hiện
đại, đáp ứng được nhu cầu phát triển đáp ứng được nhu cầu phát triển trong lĩnh vực
vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, có thể đảm đương được những công trình
có quy mô lớn, hiện đại về công nghệ; năng lực đấu thầu các công trình xây dựng cả
trong và ngoài nước được tăng cường.
c. Ba là: các ngành dịch vụ đã duy trì hoạt động trong điều kiện hết sức khó
khăn, chất lượng có được nâng lên đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ
đời sống nhân dân. Giá trị các ngành dịch vụ tăng trên 6,7%/năm mà cụ thể là:
- Thương mại phát triển khá, đảm bảo ngày càng tốt hơn cá cân đối lớn về vật
tư hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, lương thực…Thị
trường được hình thành thống nhất thông thoáng với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế. Phương thức kinh doanh đa dạng, với nhiều hình thức kinh doanh linh
hoạt như đại lý, uỷ thác, trả góp, trả chậm…Thương nghiệp quốc doanh được sắp
xếp lai theo hướng tạo nguần hàng bán buôn, mở rộng mạng lưới trao đổi, mua bán
hàng hoá với thị trường nông thôn, miền núi và đô thị; tham gia kinh doanh bán lẻ
đối với một số mặt hàng thiết yếu nhu xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, hoá
chất, giấy viết. Tổng mức bán lẻ xã hội tăng bình quân khoảng 12,7%/ năm.

- Du lịch đã có bước phát triển, nhiều trung tâm du lịch được nâng cấp, cải tạo;
các loại hình du lịch phát triển da dạng; các tuyến du lịch mới đã được khai thác ;
sản phẩm du lịch ngày càng phong phú, hấp dẫn du khách. Cơ sở lưu trú khách du
lịch phát triển nhanh, chất lượng dịch vụ được nâng cao. Tổng doanh thu du lịch
tăng 9,7%/năm.
- Du lịch vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại
của nhân dân với nhiều loại phương tiện đa dạng và phương thức thuận lợi. Cơ sở
vật chất ngành vận tải đã tăng lên đáng kể. Khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng
12%/ năm, khối lượng luân chuyển hành khách tăng5,5%/năm.



- Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông trong
nước đã được hiện đại hoá về cơ bản. Nhiều phương thức thông tin hiện đại hiện
đại, tiêu chuẩn quốc tế như truyền thông tin qua vệ tinh, cáp quang biển, cáp quang
đất liền, vi ba, thông tin di động, nhắn tin, ite net, thư điện tử đã được hình thành
bước đầu đáp ứng được nhu cầu thông tin, thương mại của công chúng. Mật độ điện
thoại đạt trên 4,2 máy /100 dân, gấp 23 lần so với năm 1991. Các thành phố lớn như
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đạt xấp xỉ 20 máy/100 dân, trên 85% số xã trên
cả nước có điện thoại. Mạng lưới bưu chính với 2900 bưu cục được cơ giới hoá
100% đường thư liên tỉnh, 70% thư nội tỉnh, từng bước hiện đại hoá, tự động hoá
các khâu giao dịch, khai thác, vận chuyển; trên 82% số xã có báo cáo đến trong
ngày; 61,5% số xã có điểm bưu điện văn hoá. Tổng doanh thu tăng bình quân trên
15%/năm, nộp ngân sách tăng 16%/năm.
- Các dịch vụ tài chính, kiểm toán , ngân hàng, bảo hiểm được mở rộng. Đã
hình thành được thị trường dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm
Việt Nam có 17 doanh nghiệp bảo hiểm ( 4 doanh nghiệp nhà nước, 4 công ty cổ
phần, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 5 công ty liên doanh ), tiến hành hơn 40
loại sản phẩm bảo hiểm. Bảo hiểm đã góp phần thu hút một lượng vốn khá lớn, tăng

khả năng tích luỹ vốn và đầu tư cho nền kinh tế Dịch vụ tài chính ngân hàng có
những đổi mới quan trọng. Các dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và
công nghệ đã bắt đầu phát triển.
d. Cơ cấu kinh tề có sự chuyển dịch tích cực.
- Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sư chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và
đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh. Khu vực kinh tế nhà nước đã tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước
đầu hoạt động có hiệu quả hơn, đã phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong
các hoạt động kinh tế xã hội. Trong năm 2000, khu vực kinh tế nhà nước đóng góp
khoảng 39% GDP. Khu vục kinh tế tập thể cũng đã đổi mới và thu hút đông đảo lực
lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn, đóng góp khoảng 8,5%GDP thong năm



2000. Kinh tế cá thể phát triển mạnh đóng góp 32%GDP trong năm 2000, kinh tế
hỗn hợp đóng góp 3,9%GDP trong năm 2000. Khu vục kinh tế tư nhân được hình
thành và ngày càng được mở rộng hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đóng góp
3,3%GDP trong năm 2000. Ku vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có sự tăng trưởng
khá và đóng góp 13,3%GDP trong năm 2000.
- Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp trong GDP giảm từ 27,2% năm1995 xuống còn 24,35 năm 2000; trong đó
nông nghiệp giảm từ 22,4% xuống còn 19,9%GDP, lâm nghiệp giữ ở mức
1,3%GDP và thuỷ sản khoảng 3%GDP. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm
trong GDP đã từ 28,8% năm 1995 tăng lên 36,6% năm 2000; trong đó các ngành
công nghiệp khai thác từ 4,8%GDP tăng lên 9,5%GDP, công nghiệp chế tác từ
15%GDP lên 18,7%GDP, công nghiệp điện, ga, nước bình quân vào khoảng
2,9%GDP. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP đã giảm từ 44,1% năm 1995
xuống còn 39,1% năm 2000; trong đó thương nghiệp chiếm khoảng 14,5%GDP,
khách sạn nhà hàng chiếm 3,2%GDP, vận tải thông tin chiếm 4%GDP; kinh doanh

tài sản, dịch vụ tư vấn chiếm4,3%GDP, tài chính tín dụng chiếm 1,9%GDP, quản lý
nhà nước chiếm 2,7%GDP
- Cơ cấu vùng kinh tế đang được xây dựng và hình thành từng bước theo
hướng phát huy thế mạnh của từng vùng. Ba vùng kinh tế trọng điểm đóng góp
khoảng 50% giá trị GDP cả nước; 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65%
giá trị gia tăng khu vực dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của ba vùng kinh
tế trọng điểm luôn luôn đạt cao hơn( gấp khoảng 1,27 lần ) tốc độ tăng trưởng
chung của cả nước.
1.2. Các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp để
duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.
Một số cân đối chủ yếu
Tên chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Mục
tiêu 5
199
6
199
7
199
8
199
9
200
0
Thực
hiện 5




năm do
ĐHVIII
đề ra
năm
1996-
2000
1.Thu ngân sách
cân đối với GDP
% 21-22 22,9

20,8

20,2

19,6

20,2

20,7
Thu thuế và phí/GDP

% 20-21 19,3

19,4

18,5

18,6


19,3

19
Tổng chi NS/GDP

% 24-25 25,9

24,9

22,7

24 25,1

24,5
Chi đầu tư PT/GDP

% 6,5-7,0 6,1 6,5 5,7 7,4 7,6 6,7
Chi đầu tư PT/chi
NS

% 26 24,1

24,9

25 30,9

37,3

28,3
Chi thường

xuyên/GDP

% 14 15,8

15,7

13,8

13 12,3

14,1
Chi trả nợ/GDP

% 3,5 3,9 3 2,9 3,4 3 3,2
Bội chi NS/GDP

% 3,5-4,5 3 4,05

2,49

4,37

4,95

3,8
2.Tích luỹ tiêu dùng



Tích luỹ so với

TLTD

% 30 25,3

26,2

27 26,8

28,7

26,8
Tiêu dùng so với
TLTD

% 70 74,7

73,8

73 73,2

71,3

73,2



Tích luỹ gộp/GDP

% 33 28,1


28,3

28,7

29,1

29,5

28,8
Tiết kiệm trong
nước/GDP
% 24 16,4

20,1

21,4

24,6

23,5

21,2
3.Tổng đầu tư xã
hội

1000tỷ
Đ
79,4

96,9


97,3

104 129 507
Đầu tư xã hội/GDP

% 30 29,2

30,9

27 26,3

29,1

28,5
Tổng đầu tư theo giá
95

1000tỷ
Đ
455-
466
73 83,6

77,2

77,8

93,3


440
Quy đổi USD, giá
1995

TỷUS
D
41-42 6,58

7,53

6,96

7,01

8,4 36,5
Trong đó:Vốn
trongnước

TỷUS
D
20-21 3,9 4,3 4,9 5,1 6,2 21,6
Vốn trong nước/tổng
vốn

% 51 58,7

56,9

69,9


72,7

74,3

59,2
Vốn nước ngoài

TỷUS
D
20 2,7 3,2 2,1 1,9 2,2 14,9
Vốn nước
ngoài/tổngvốn

% 49 41,3

43,1

30,1

27,3

25,7

40,8

- Quan hệ tích luỹ tiêu dùng được cải thiện theo hướng tích luỹ cho phát triển.



Tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm 9,5%. Toàn bộ tích luỹ tài sản so

với GDP được nâng lên từ 27,2% năm 1995 lên29,5% năm 2000 (bình quân 5 năm
là 28,4%). Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 18,2% năm 1995 lên 27% năm
2000 và gấp 4 lần so với năm 1990.
Tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm khoảng gần 5%, tiêu dùng bình
quân đầu người tăng hàng năm khoảng 3,3% so với mục tiêu là 5,5-6%. Tiêu dùng
bình quân đầu người năm 2000 khoảng 4,2 triệu đồng.
Cơ cấu tích luỹ trong tổng tích luỹ- tiêu dùng năm 2000 chiếm khoảng 28,7%
(mục tiêu là 30%), bình quân 5 năm là 26,8%; cơ cấu tiêu dùng tương ứng là chiếm
71,3% (mục tiêu là 70%0, bình quân 5 năm là 73,2%
- Tài chính tiền tệ có những tiến bộ và đổi mới quan trọng, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Tổng nguần thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm là 9,4% cao hơn
mức tăng bình quân GDP, trong đó thu từ thuế và phí chiếm khoảng 96% tổng thu
ngân sách , mức động viên bình quân hàng năm chiếm khoảng 20,7%.
Tổng chi ngân sách nhà nước bình quân hàng năm bằng khoảng 24,2%GDP;
trong đó chi đầu tư phát triển tăng bình quân hàng năm khoảng 14,6%, tỷ trọng
được nâng dần từ 23% tổng chi năm 1996 lên khoảng 30% năm 2000, bình quân 5
năm chiếm 26,6% trong tổng chi ngân sách và chiếm 33% số thu từ thuế và phí; chi
thường xuyên tăng bình quân 6%, chiếm 59% trong tổng chi và khoảng 74% mức
thu từ thuế và phí; chi trả nợ, viện trợ hàng năm chiếm khoảng 14%.
Tỷ lệ bội chi ngân sách bình quân 5 năm là 3,87% GDP. Tổng phương tiện
thanh toán tăng bình quân hàng năm khoảng trên 27,3%, dư nợ tín dụng tăng
28,1%/năm.
- Đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguần vốn đầu tư phát triển ,
nhất là các nguần vốn đầu tư trong nước góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm khoảng 440 nghìn tỷ
đồng, tương đương gần 40 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 8,6%; trong




đó : vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,3%, vốn tín dụng đầu tư nhà
nước chiếm 14,9%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 16,9%, vốn đầu
tư của tư nhân và dân cư chiếm 21,9%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm
24,7%.
Trong tổng vốn đầu tư thì vốn trong nước chiếm khoảng 60%, vốn đầu tư cho
nông nghiệp tăng bình quân là 26,1%/năm; vốn đầu tư cho công nghiệp tăng bình
quân 14,5%, cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc tăng bình quân
12,2%
Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư nên quy mô đầu tư ở các vùng có
nhiều cải thiện. So với 5 năm trước, vốn đầu tư cho vùng miền núi phía Bắc gấp
trên 1,8 lần, vùng Đồng bằng sông Hồng gấp 1,3 lần; vùng Bắc Trung bộ gấp 1,5
lần; vùng duyên hải miền Trung gấp 1,7 lần; vùng Tây Nguyên gấp 1,9 lần, vùng
Đông Nam bộ gấp 1,7 lần và vùng Đồng bằng sông Cửu Long gấp gần 2 lần.
1.3. Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển
Mặc dù trong thời kỳ này các nước trong khu vực rơi vào cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng đã có ảnh hưởng lớn đến nước ta nhưng kinh tế đối ngoại vẫn có
mức tăng trưởng.
Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá. Tổng kim ngạch xuất khẩu
trong 5 năm 1996-2000 đạt 51,8 tỷ USD, tăng 21,5%/ năm, gấp 3 lần so với 5 năm
1991-1995. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thuỷ sản, tuy
vẫn giữ vị trí quan trọng nhưng đã giảm từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm
2000, tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 29%
lên 34,3%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% tăng lên 35,7%.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 186USD/người. Tổng kim ngạch nhập
khẩu 5 năm khoảng 61tỷ USD, tăng bình quân hàng năm 13,3%; trong đó tỷ trọng
nhập khẩu hàng tiêu dùng giảm dần và tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị ,
nguyên vật liệu sản xuất tăng dần.
Như vậy, trong thời kỳ 1996-2000 mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta đã
đạt được những kết quả tốt . Có được những kết quả như trên chính là do chúng ta




đã xây dựng được một kế hoạch phát triển phù hợp, phát huy được các thế mạnh
trong nước cũng như việc tận dụng được các lợi thế, tranh thủ được sự giúp đỡ từ
bên ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, các chính sách phát triển kinh tế đã ngày
càng phát huy tác dụng tích cực. Chúng ta đã mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều
quốc gia trên thế giới và dần cải thiện được cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác,
một lượng vốn đầu tư đáng kể đã được đầu tư từ những năm trước đến bây giờ đã
phát huy tác dụng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng của đất nước. Tuy vậy
kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ này vẫn còn một số hạn chế cần được điều
chỉnh cho phù hợp.
2. Những mặt còn tồn tại trong kế hoạch tăng trưởng thời kỳ 1996-2000
- Mục tiêu tăng trưởng của các ngành tuy có tăng song chất lượng và hiệu quả
của các ngành kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch
chậm. Nông nghiệp vẫn giữ một tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng
trưởng của các ngành tuy có tăng nhưng tốc độ tăng không cao và không ổn định .
Năng xuất , chất lượng và hiệu quả của các ngành công nghiệp không cao, nhịp độ
tăng trưởng của các ngành dịch vụ còn chậm lại chỉ đạt trên 50% kế hoạch đặt ra.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa phát huy được lợi thế so sánh của
từng ngành, từng vùng; chưa tạo được động lực thúc đẩy mạnh mẽ các thành phần
kinh tế phát triển.
- Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế vừa bị hạn hẹp vừa không vững chắc.
Nguần thu ngân sách chưa thật ổn định, tình trạng lãng phí còn nhiều, tỷ lệ tiết kiệm
và đầu tư cho phát triển kinh tế còn thấp, tiết kiệm nội địa chỉ đạt 21,5% GDP.
- Lĩnh vực xuất nhập khẩu chưa vượt được những thách thức gay gắt về cạnh
tranh và thị trường. Việc thu hút nguồn vốn đầu nước ngoài cho phát triển kinh tế
còn nhiều hạn chế và có xu hướng giảm sút trong thời gian gần đây, việc giải ngân
các nguồn vốn ODA còn chậm.
Nguyên nhân của những hạn chế trên một mặt là do chúng ta đã đặt một số chỉ

tiêu tăng trưởng quá cao mà lại không có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích
hợp lý lên đã không khai thác được hết thế mạnh của đất nước phục vụ cho quá

×