Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

1Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi. Ồ, nhà đẹp thế ? Ruộng của ai tốt thế ? Áo quần ai nhiều thế ? Ba cô Tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói : Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay hai bác không nghèo nữa. Có ruộng cày, có nh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.68 KB, 16 trang )

1. Quả bầu tiên
Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt
bụng. Chú luôn ln sẵn lịng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung
quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới
làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé.
Một hơm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con
Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú
ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én
ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đâu. Mùa thu đến
khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi trành rét ở phương Nam,
con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến khơng nỡ
rời chú bé.
Hiểu được lịng Én, chú bé âu yếm bảo:
– Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm. Đến mùa xuân ấm áp thì
Én lại trở về với anh.
Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên
nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên
đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng
tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó khơng thể nào qn chú bé.


Mùa xuân tươi đẹp đã tới. Con Én nhỏ tìm về ngơi nhà đơn sơ nhưng đầm
ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú
bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả
trước mặt chú bé một hạt bầu.
Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành
cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu
to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra… Ôi!
Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon!
Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim
Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con


rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về ni.
Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội
vàng ném con Én lên trời và bảo:
– Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta!
Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo
một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả
bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa


lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc
chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa
chủ tham lam độc ác.
Câu chuyện là lời khẳng định cho sự chiến thắng tuyệt đối của cái thiện
trước cái ác. Dù thời gian có đổi thay thì chân lý đó vẫn ln ln đúng.
Khơng nên tham lam ham tiền tài mà làm những điều xấu, sẽ nhận lấy
hậu quả. Chỉ cần sống với một trái tim lương thiện, tự khắc ta sẽ nhận
được phần thưởng xứng đáng.

2. Chàng cóc
Ngày xưa tại bản mường có một chàng nho sĩ nghèo nhưng rất chăm học.
Ban ngày chàng vào rừng hái củi đem bán để lấy tiền mua gạo và mua
dầu đèn. Ban đêm chàng cặm cụi đọc sách cho đến lúc gà hàng xóm gáy
lần thứ hai mới đi ngủ.
Nhà cửa chàng chỉ là một túp lều, tài sản chỉ có một con dao quắm và một
chồng sách. Làm bạn với chàng chỉ có một con cóc tía, những buổi chàng
học khuya con cóc nhảy ra quanh quẩn ở dưới chân chàng, đớp gọn những
con muỗi bay vo ve. Thấy cóc quấn qt bên mình, chàng nho sĩ rất mến
cóc, mỗi bữa ăn, chàng khơng bao giờ qn dành cho cóc một miếng cơm.
Những lúc lên rừng hái củi chàng thường bắt cào cào châu chấu, hay con
bọ ngựa đem về cho cóc ăn thêm. Cóc được chăm nom nên ngày càng lớn.

Chàng nho sĩ rất sáng dạ, trong sáu năm dùi mài đèn sách, chàng học
thuộc gần hết mười lăm pho sách quí của các bậc thánh hiền. Thấy chàng
học giỏi, người làng thầm mong cho chàng sau này sẽ đỗ trạng nguyên.
Năm ấy, nhà vua mở khoa thi chọn trạng, sĩ tử khắp các phương trời đều
tấp nập về kinh dự thi. Thấy chàng nho sĩ vào kinh, cóc tía xin được đi
theo.


Sáng hơm sau, chàng cùng cóc tía lên đường. Ơng chủ đi đến đâu, cóc tía
nhảy bước một đi theo kịp đến đó. Đi mãi, đi mãi, một ngày kia, hai thầy
trị cóc đến một cái lều bỏ khơng ở ven rừng vắng vẻ. Chàng nho sĩ thấy
trong lều có một người chết, bên cạnh có một gói sách và một bọc quần
áo. Chàng đoán chắc người này cũng là một sĩ tử lên kinh dự thi, sờ vào
người thấy mạch còn đập nhè nhẹ, chàng nho sĩ cố loay hoay tìm cách cứu
chữa. Thấy chàng có nhiệt tâm, cóc liền ghé tai nói nhỏ :
– Ơng ơi ! Con xem bộ nó là người khơng có thủy chung gì cả, hạng này
nếu khơng phải là gian phi thì cũng là kẻ bội bạc, cứu nó làm gì !
Chàng nho sĩ nhìn cóc rồi nghiêm nghị nói :
– Gặp kẻ hoạn nạn mà không cứu chữa, không phải là người qn tử, dù
có khó nhọc bằng mười, ta cũng khơng thể bỏ được. Nếu nó chưa đến
ngày tận số mà được sống lại thì ta lại có thêm một người bạn đường càng
hay chứ sao…
Thấy chàng nói vậy, cóc tía bèn bảo :


– Nếu ơng đã quyết thì ơng cứ cứu nó, cịn thuốc thì ơng khơng phải chạy
tìm đâu cả. Cóc có hịn ngọc cải tử hồn sinh đây.
Nói đến đây cóc liền nhả ra một viên ngọc trong sáng như kim cương, hình
dáng tựa trứng chim. Cóc nói :
– Ơng hãy để viên ngọc này vào mũi người chết thì người chết lập tức sẽ

sống lại.
Chàng nho sĩ nhận lấy viên ngọc rồi làm y như lời. Quả nhiên được một lúc
người ấy dần dần hồi tỉnh. Chàng nho sĩ mừng quá đến gần đỡ người lạ
ngồi dậy hỏi họ tên, quê quán rồi kết làm bạn. Chàng mở cơm nắm mời
bạn ăn rồi cùng nhau lên đường.
Hai người và cóc tía đi thêm ba ngày nữa thì tới kinh thành. Đến kinh
thành, cóc bảo chàng cho mình đi dạo một lượt đến chiều sẽ về. Chàng
nho sĩ và người bạn ngồi ở qn ăn uống nói chuyện trị vui vẻ. Người bạn
bỗng hỏi :
– Hôm nọ, tôi đi đường xa bị cảm nặng, các bạn đồng hành của tôi bỏ tơi
nằm lại ở lều. Nếu khơng có anh ra tay cứu chữa thì tơi đã hóa ra ma mất
rồi. Công ơn của anh sau này tôi xin đền đáp. Khơng biết anh có thuốc linh
đan hay phép thuật gì mà cứu sống được tôi vậy ?
Chàng nho sĩ mỉm cười móc túi lấy viên ngọc thật thà nói :
– Tơi có viên ngọc cải tử hồn sinh này đây, tơi chỉ cần đặt viên ngọc này
và mũi thì người chết dù tắt thở đã ba ngày cũng sống lại tức khắc.
Nghe ân nhân nói, hắn tỏ bộ lễ độ xin được cầm viên ngọc xem một lúc.
Khi cầm ngọc trong tay hắn làm bộ mân mê, ngắm nghía rồi lừa khi ân
nhân sơ ý bỏ vào túi, vơ vội lấy hành lý, chạy ù ra đường phố, trà trộn vào
đám đông. Mất ngọc, chàng nho sĩ đuổi theo kêu la ầm ĩ, nhưng hắn đã
nhanh chân lẩn vào các ngõ ngách của kinh thành cịn tìm làm sao được,
đành trở lại quán ăn thẫn thờ ngồi chờ cóc. Một lúc lâu, cóc trở về. Cóc
giẫm chân nói :
– Con đã bảo ơng đừng cứu chữa cho nó mà, nếu nó là người tốt thì các
bạn cùng đường chắc khơng bỏ nó nằm chết ở giữa nơi rừng vắng ấy.
Nhưng sớm muộn, viên ngọc đó sẽ trở về thơi, bây giờ ông hãy mau mau
vào tâu vua để sau này nhà vua xét xử hoàn lại cho ta viên ngọc.


Nghe cóc nói, chàng nho sĩ vào triều tâu với nhà vua và nói rõ đặc tính của

viên ngọc cho vua nghe. Vua hứa là sẽ xét tìm hộ chàng viên ngọc và bắt
phạt kẻ gian phi. Đêm hôm ấy, công chúa con vua tự nhiên ngã lăn xuống
giường chết ngất đi. Nhà vua và hoàng hậu vội gọi thầy thuốc tới cứu
chữa, sau khi thăm bệnh, thầy thuốc bảo là công chúa bị bệnh nặng không
thể cứu chữa được. Hồng hậu lăn lóc kêu than, nước mắt trào tn như
suối, nhà vua ngồi nhìn con gái sắp đến lúc qua đời, ruột gan rối tựa bòng
bong. Chợt nhà vua nhớ tới viên ngọc cải tử hoàn sinh của chàng nho sĩ bị
mất cắp lúc chiều, bèn ra bảng tìm danh y và thông báo khắp kinh thành :
“Ai cứu sống cơng chúa sẽ được tuyển làm phị mã”. Tin đó tới tai cóc tía.
Cóc tía nói với chủ :
– Hay lắm ! Đây là dịp tốt để ta lấy lại viên ngọc và tìm ra kẻ cắp, và đây
cũng là cơ hội hiếm có để ơng làm nên. Sáng mai tên ăn cắp ngọc đội lốt
“thầy danh y” sẽ vào cung chữa bệnh cho cơng chúa. Ơng hãy tìm cách
xin vào đi lẫn theo đám quan triều đình vào cung thăm công chúa. Khi nào
thấy ai đem viên ngọc ra thì ơng lập tức đến tâu vua xin cho bắt giam kẻ
đó lại.
Chàng nho sĩ nghe theo. Sáng hơm sau, chàng đi lẫn vào hàng các quan
văn võ cùng vào cung thăm cơng chúa. Cóc tía cũng nhảy bước một đi xen
vào trong hàng.
Giữa lúc ấy lính canh cổng dẫn vào cung một người tự xưng là danh y có
thể cứu sống được cơng chúa trong khoảnh khắc. Chàng nho sĩ nhìn kỹ,
nhận ra đúng là kẻ ăn cắp viên ngọc của mình hơm trước, chàng lặng
thinh theo sát nó.
Khơng chậm trễ, “danh y” rút ở trong túi ra một viên ngọc làm phép hoa
chân múa tay đọc thần chú rồi đặt viên ngọc vào mũi công chúa. Nhưng
vô hiệu, công chúa vẫn nằm yên, lạnh ngắt. Hắn lúng túng, xoay đi trở lại
viên ngọc nhiều lần. Cuối cùng vẫn không sao làm cho công chúa sống lại.
Vua và hồng hậu vơ cùng sốt ruột.
Giữa lúc đó, chàng nho sĩ rẽ đám đông tiến lại trước mặt nhà vua, chàng
vừa nói vừa chỉ vào mặt “danh y” :

– Tâu bệ hạ, trước hết xin bệ hạ hãy cho bắt giam tên này lại.


Nhà vua sực nhớ tới lời thưa kiện hôm qua, bèn ra lệnh bắt giữ “danh y”
lại.
Chàng nho sĩ cầm lấy viên ngọc rồi chỉ vào cóc – bây giờ đã nằm gọn trên
bàn tay của chàng – giảng giải cho mọi người nghe :
– Đây là viên ngọc cải tử hồn sinh và đây là cóc thần. Chỉ có cóc thần và
tơi mới dùng được viên ngọc này để cứu sống người chết. Hôm qua tên kia
đã cướp giật lấy viên ngọc của tôi. Nhưng hắn không biết rằng hắn không
đời nào sử dụng được viên ngọc nếu không có sự đồng ý của cóc thần.
Nhờ ơn nhà vua, nay đã lấy lại được viên ngọc, tôi sẽ xin cứu sống công
chúa.
Nhà vua hứa hẹn :
– Tốt lắm ! Nếu nhà ngươi cứu sống được con ta thì ta quyết giữ những lời
đã hứa.
Chàng nho sĩ nhẹ tay đặt viên ngọc vào mũi công chúa. Quả nhiên, công
chúa bỗng cựa mình và dần dần hồi tỉnh. Nhà vua và các quan reo mừng.
Hồng hậu nước mắt chảy rịng rịng cúi xuống ôm chầm lấy công chúa.
Công chúa tủm tỉm cười, nhìn khắp lượt mọi người xung quanh. Chàng nho
sĩ lấy lại viên ngọc bỏ vào mồm cóc tía. Cóc tía nuốt ngay vào bụng.
Thấy cơng chúa đã được cứu sống, nhà vua bèn nhận chàng nho sĩ làm
phò mã. Tiệc cưới được tổ chức ngay chiều hơm đó. Và cũng trong chiều
hơm đó nhà vua sai đao phủ dẫn thằng ăn cắp ngọc ra pháp trường.
Hai hôm sau, cuộc thi văn bắt đầu, chàng nho sĩ không quên bước vào
trường thi, công chúa chúc cho chồng đỗ cao. Chàng đã làm được bài văn
hay nhất trong đám sĩ tử và được các quan chung khảo chọn làm trạng
nguyên.
Trạng lại được tồn thể triều thần tơn lên giữ chức phó tể tướng.
Chàng nho sĩ bắt đầu đi vào cuộc đời vinh hiển. Phó tể tướng lại càng u

mến cóc tía và giữ con cóc tía ln bên cạnh mình.
Sau này cóc tía cịn giúp chàng dẹp được giặc, đem lại cho mn dân một
cuộc sống thái bình.


Câu chuyện cũng ca ngợi tính thiện lương, sẵn sàng giúp đỡ. Đồng thời
cũng đả kích mạnh mẽ thói cướp cơng của người khác vì tính tham lam. Ở
hiền thì sẽ gặp lành là chân lý muôn thuở.

3. Từ Thức lên tiên
Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư
sinh ở đất Hóa Châu tên Từ Thức, giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc
Ninh ngày nay.
Cạnh huyện đường có ngơi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc
mẫu đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai
gái các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa.
Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cơ gái tuyệt sắc
trạc lối mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tơ điểm phấn son song
làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.
Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, khơng ngờ
mẫu đơn dịn gãy dưới tay. Người giữ hoa trơng thấy liền bắt nàng trói vào
gốc cây. Đến xế chiều cũng khơng thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức
nhân đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương người đẹp, bèn cởi áo
cừu đang mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả ra ngập
ngừng cảm ơn Từ Thức rồi đi về một phía mất hút.

Từ đó Từ Thức càng được dân tình mến trọng là một vị quan hiền đức.
Nhưng Từ Thức vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở
công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Cấp



trên gởi tờ khiển trách, bảo rằng ông cụ thân sinh trước kia là một vị quan
đại thần, lẽ nào chàng không nối được nghiệp nhà mà giữ nổi chức tri
huyện? Từ Thức thở than: “Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm
thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát
khỏi vịng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ khơng bao giờ phụ ta”!
Rồi chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang
theo bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng
cảnh. Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu
thơ của chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn
sơng Lễ, bờ Kênh Nga.
Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trơng ra ngồi biển thấy một lớp mây
năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi
non kỳ dị. Từ Thức lo ngại bảo người chèo thuyền:
“Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ
nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay
núi Thần dời lại, khơng thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ”?
Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt
một sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: “Khơng có cánh làm sao
mà vượt qua được”? Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.
Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa
hang động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài
bước thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối khơng cịn biết
đâu lối ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối
quanh co, được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng
tối, mắt chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây mn màu
sắc bao phủ các đền đài giát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý
lạ, hương thơm khác thường.
Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng
cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang

khúc khích bảo nhau:
“Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến”!


Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: “Phu nhân chúng tôi cho mời
chàng vào”. Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt
gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức
hoành phi chữ vàng: “Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các”.
Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất
bảo. Bà tiên mời Từ Thức ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo:
“Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây,
chàng có biết nơi này là đâu không”?
Từ Thức đáp:
“Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc
thuyền con ở giữa trời biển. Tôi khơng được biết là chốn này có lầu hồng,
điện biếc. Lịng tơi đây cịn nhiễm đầy trần tục, khơng hiểu biết được đây
là chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ”.
Bà tiên nói:
“Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba
mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không
chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi
Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam
Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến”!
Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo
xanh đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra
người đã làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu
nữ mà nói với Từ Thức:
“Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong
Hội Thưởng Hoa, được chàng cứu thốt. Lịng em nó vẫn khơng qn. Ta
muốn cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó”.

Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ
phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi
tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ
phương nam cỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây… Các tiên tụ
họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.


Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai
pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng
trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.
Tiên nương mặc áo lụa nói:
“Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía
nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa
đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ khơng hối tiếc đời cũ và sẽ khơng
cịn nói là trên đời này khơng có Tiên”!
Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu
nhân chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư
tiên.
Nàng tiên trẻ tuổi mặc tơ cười nói:
“Cơ dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, khơng cịn gầy như trước
nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới khơng có chồng. Tơi khơng
cịn có thể tin như vậy nữa”!
Ngụy phu nhân nói:
“Tơi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc
gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc
Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc
Ngọc lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu
ta chế giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng
cười lắm ru!”.
Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém

vui:
“Cơ dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết
hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ khơng khỏi có kẻ mỉa
mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e
rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó”!
Kim Tiên liền nói:
“Tơi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ
xấu miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem
tin đến cho vua Hán. Chính chúng tơi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm


thượng của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống
kia? Tân lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy
để làm buồn lịng chàng làm gì”.
Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia
tay ra về. Cịn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:
“Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ mới
lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu viết
ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hồng Lãng. Hồn cảnh tuy mỗi
nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao
giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao khơng khí chung quanh đơi
ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình u khơng phát sinh ra ở
lịng em, hay là em cố cầm giữ lại?”
Giáng Hương buồn rầu đáp:
“Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hồng Điện, thường lui tới Hồng Môn,
sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lịng khơng vương vấn
dục tình. Cịn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết cịn ở nơi Thúy
Điện, vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lịng
em cịn dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!”
Từ Thức nói:

“Nếu thế thì em cũng khơng xa cách anh lắm”!
Cả hai đều phá lên cười.
Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên.
Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm
thoát thế mà đã qua một năm rồi.
Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối
trăng rọi qua song, có khi Từ Thức khơng làm sao nhắm được mắt. Một nỗi
buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy.
Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng
Hương:
“Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển mn trùng,
không biết rõ nhà anh ở nơi nào!”
Một lát chàng lại nói:


“Khi đi, anh cịn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lịng trần chưa rũ sạch, anh
muốn nhìn lại q hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về
thăm nhà ít lâu. Khơng biết em nghĩ sao?”
Giáng Hương buồn bã khơng thốt nên lời. Từ Thức nói tiếp:
“Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc
nhà, rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân”.
Giáng Hương khóc nói:
“Em khơng muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em
chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời q vắn vỏi,
anh sẽ khơng cịn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!”
Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo:
“Ta khơng ngờ con người ấy lại cịn vương vấn tục lụy đến thế!”
Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức đi. Giáng Hương trao
cho chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò:
“Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em”!

Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân
xuống mặt đất.
Nhưng tất cả đều đã hồn tồn đổi thay. Nhà cửa, người làng khơng cịn là
những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu
xanh như xưa.
Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức
khơng, mọi người đều nói:
“Hồi chúng tơi cịn bé, có nghe nói là ơng cố ba đời chúng tơi mang tên đó.
Ơng ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tơi đã
trải qua ba đời vua”.
Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song
chiếc xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong
thư ra đọc: “Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đơi ta đã dứt! Làm
sao tìm lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa”,
mới biết là Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt.
Sau đó, Từ Thức khốc áo lơng, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hồnh
Sơn, khơng thấy trở về nữa .


Câu chuyện kể về một thế giới trong tưởng tượng của những người dân,
thế giới thần kì với những tiên nữ, ngọc đồng. Đồng thời ngầm khẳng định
khơng thể địi hỏi có thể sống hồn tồn trọn vẹn cả hai đường, đôi khi chỉ
được chọn một trong hai.

4. Ba cô tiên
Ngày xửa ngày xưa, có một chú bé mặc dầu tuổi đã lên sáu nhưng chú
vẫn bé tí ti, chú chỉ bé vỏn vẹn bằng ngón tay cái của mọi người. Chính vì
vậy ai cũng gọi chú bé là chú bé tí hon.
Nhà chú bé tí hon rất nghèo, bố mẹ chú phải đi làm thuê làm mướn cho
nhà địa chủ, họ phải làm quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mà vẫn khơng

có tiền để có một cuộc sống no đủ. Tí Hon nhìn thấy bố mẹ vất cả nên chú
rất thương, chỉ muốn đi làm kiếm tiền để phụ giúp bố mẹ.
Một hơm, Tí Hon nói với bố mẹ rằng chú muốn đi chăn trâu để phụ giúp bố
mẹ. Bố mẹ tí hon thì thấy chú cịn quá nhỏ, trong khi đó đàn trâu con nào
cũng to lớn hơn chú gấp nhiều lần nên bố mẹ tí hon không cho chú đi
chăn. Nhưng với sự năn nỉ kiên trì của Tí Hon thì bố mẹ chú cũng đành
bằng lịng cho chú đi chăn thử.
Tí hon mặc dù nhỏ bé nhưng chăn trâu rất giỏi, chú không để con trâu nào
ăn hại lúa ngô của bà con trong vùng, con nào con nấy cũng ăn no căng
cả bụng. Cả làng ai nấy cũng đều khen Tí Hon. Nhà địa chủ cũng rất ưng
Tí Hon chăn trâu.


Một hơm, cánh đồng làng khơng cịn cỏ, Tí Hon phải dắt trâu lên trên núi
để cho trâu ăn cỏ. Đang chăn trâu thì Tí Hon thấy có một bơng hoa hồng
to bằng chiếc nón nở trên cành cây. Tí Hon dắt trâu tới gần cây đó rồi cậu
leo lên tai trâu rồi khẽ chuyển sang cành cây vào leo vào giữa bơng hoa.
Vào bơng hoa tí hon thấy rất ngạc nhiên và thích thú vì bên trong bơng
hoa có ba cơ tiên người cũng bé tí hon như cậu, một cơ áo xanh, một cơ
áo vàng cịn cơ cịn lại thì mặc áo đỏ. Ba cơ tiên thấy tí hon thì vui mừng
hỏi han rồi đem bánh kẹo ngon cho Tí Hon ăn. Tí Hon chưa ăn ngay mà lại
bỏ số bánh kẹo các cô cho vào túi, thấy lạ nên ba cô tiên hỏi:
– Kẹo chúng tôi cho, sao Tí Hon khơng ăn ?
Tí hon đáp:
-Tơi khơng ăn, tôi mang về cho bố mẹ tôi ăn, nhà tôi nghèo lắm, bố mẹ tơi
thì vất vả, tơi thương bố mẹ tơi lắm.
Ba cơ tiên cùng nói:
-Tí Hon cứ ăn đi, chúng tơi cịn nhiều kẹo bánh mà. Ăn xong chúng tơi sẽ
giúp Tí Hon .
Một lát sau, đợi trâu ăn no cỏ. Tí Hon và ba cơ tiên nhỏ bé leo lên ngồi trên

sừng trâu và cùng đàn trâu đi về làng. Về đến nhà Tí Hon, ba cơ tiên thấy
đúng như Tí Hon kể, nhà của cậu rất nghèo, gian nhà thì đổ nát hoang sơ,
ba cơ tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ của chú về.
Ba cô tiên cầm bút thần vẽ một đám ruộng to, trên ruộng là những bơng
lúa nở chín vàng ươm như màu nắng, cơ tiên áo xanh thì vẽ rất nhiều quần
áo thật đẹp. Vừa vẽ xong thì tất cả ruộng, lúa và quần áo đều biến thành
thật.
Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi.
-Ồ, nhà đẹp thế ? Ruộng của ai tốt thế ? Áo quần ai nhiều thế ?
Ba cô Tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói :
-Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay hai bác khơng nghèo
nữa. Có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc. Rồi cơ Tiên áo xanh lại cho
Tí Hon một chiếc áo, mặc áo vào là lớn bỗng lên.
Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cơ Tiên đã biến thành
ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai trông thấy ba cô


Tiên đâu nữa. Cịn Tí Hon lúc này rất to lớn, khoẻ mạnh làm việc rất chăm
chỉ, khéo léo chẳng kém gì ba cơ Tiên hoa hồng.
Câu chuyện khun chúng ta phải sống hiếu thảo, nuôi dưỡng cha mẹ.
Hiếu thảo chính là một trong những đức tính quan trọng nhất của con
người, tuyệt đối không được bỏ rơi cha mẹ.



×