Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tư tưởng HCM về đại đoàn kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.08 KB, 30 trang )

Tư tưởng HCM về đại đoàn kết
1. Một số vấn đề lý luận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của
quần chúng nhân dân
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
do đó, giai cấp vơ sản khơng thể đơn độc trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình mà cần phải liên minh được với các giai cấp khác mới có thể đánh đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, cải biến xã hội. Những nhà sáng lập Chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ rõ: “những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và sự
liên hiệp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước”.
V.I.Lênin cho rằng: Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết
với nhân dân, từ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân: Chỉ những ai tắm mình trong
nguồn nước tươi mát của nhân dân thì mới chiến thắng và giữ được chính quyền.
Quần chúng lao động ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn
gốc khiến cho chủ nghĩa cộng sản thế giới trở thành vơ địch cũng là ở đó.
Như vậy, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử. Giai cấp vô sản muốn lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước hết phải
trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở chủ yếu để xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Mác chỉ
ra: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”; Lênin đã kế thừa và phát triển quan
điểm này: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”…
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từ yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, chủ yếu qua hoạt động thực tiễn. Vì vậy, Người đã nắm được bản
chất cách mạng của khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành và phát triển tư tưởng của Người về
đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Truyền thống của dân tộc Việt Nam
Đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống cực kỳ quý báu và cũng là bài
học lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ
1



nước. Đất nước ta luôn phải đối diện với thiên tai, địch họa, các thế hệ người
Việt Nam nối tiếp nhau đã hình thành tinh thần cố kết cộng đồng, cùng chung
lưng, đấu cật xây dựng, bảo vệ non sông gấm vóc và tạo nên biết bao kỳ tích.
Chính trong môi trường luôn chịu sự tác động từ thiên nhiên như vậy, muốn
chinh phục được thiên nhiên, người dân Việt Nam phải cần có sự cố kết, liên
hiệp lại để tạo ra sức mạnh trấp áp thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên
nhiên quay lại phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Đồng thời với lịch sử
Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước, luôn phải chống lại những kẻ địch
mạnh hơn mình nên cần phải đồn kết, để chống lại kẻ địch, giữ vững khơng
gian sinh tồn của dân tộc mình, bảo vệ chủ quyền.
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu
nước gắn liền với ý thức cộng đồng, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã
được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống vững bền thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn người Việt Nam. Từ truyền thống đoàn kết, tinh
thần cố kết dân tộc, ý thức dân chủ, luôn đề cao tính cộng đồng, hình thành mối
quan hệ cá nhân - gia đình - làng nước ln gắn kết và tạo sức mạnh chống thiên
tai, địch họa, giặc ngoại xâm; đề cao hương ước làng văn hóa làng. Đối với mỗi
người, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, in
đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt
chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Điều này đã phản ánh trong kho tàng văn học
dân tộc: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương
nhau cùng”, hay “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”…
Đặc biệt triết lý đoàn kết của dân tộc Việt Nam được thể hiện trong nguồn
gốc của sự sinh đó là sự tích trăm trứng, từ cái bọc trăm trứng đó, để rồi sau này
Hồ Chí Minh đã gọi tồn thể nhân dân Việt Nam là “đồng bào” – những con
người được sinh ra trong cùng một bọc trứng. Trong truyền thuyết “Sơn Tinh
Thủy Tinh”, là câu chuyện đoàn kết để chống lại sức mạnh từ thiên nhiên, bảo
vệ không gian sản xuất, hay “Thánh Gióng” đó là câu chuyện về đoàn kết để

2


nuôi dưỡng sức mạnh, nuôi dưỡng quân đội để bảo vệ không gian sinh tồn trước
giặc ngoại xâm. Thành Cổ Loa cho chúng ta bài học cần sự độc lập, tự chủ trong
bảo vệ đất nước không chỉ dựa vào thành quách, vũ khí mà cần huy động sức
mạnh từ dân, dựa vào dân để bảo vệ đất nước. Tất cả những điều kiện, truyền
thống trên là cơ sở để phát huy tinh thần cộng đồng, cố kết dân tộc.
Từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, người
anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo đã chỉ ra nguyên nhân thành công, cũng là đúc
kết chân lý tạo sức mạnh của quốc gia phong kiến Việt Nam: “Vua tơi đồng lịng
- Anh em hịa thuận - Cả nước dốc sức”. Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm
lược và thống trị, biến nước ta thành thuộc địa. Đối đầu với họa xâm lăng, với
truyền thống yêu nước, đoàn kết, các thế hệ người Việt Nam đã liên tục nổi dậy
đấu tranh chống xâm lược nhưng đều không giành được thắng lợi. Một trong
những nguyên nhân thất bại là do chưa xây dựng và huy động được khối đại đoàn
kết toàn dân tộc phù hợp với đặc điểm dân tộc và tình hình kinh tế, xã hội Việt
Nam, chưa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới. Truyền thống đại đoàn
kết toàn dân tộc đứng trước yêu cầu phải bổ sung những nhân tố mới, mà điều cốt
yếu là phải đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng vơ sản.
Truyền thống dân tộc đã hun đúc nên tinh thần yêu nước, khát vọng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh. Người đánh giá cao sức mạnh to lớn của tinh
thần đồn kết và lịng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Lịch sử của dân
tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh anh dũng bất khuất. Bài học lịch sử của cha
ông ta để lại rằng: Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của đất nước cũng phải
quan tâm xây dựng khối đoàn kết toàn dân với tinh thần “trên dưới một lịng,
anh em hịa mục, cả mước góp sức” nhằm huy động tối đa sức mạnh của dân tộc

vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
3


Từ những giá trị truyền thống đó, đã đặt nền móng cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh vấn đề đồn
kết là vấn đề mang tính chiến lược, vấn đề sống còn, là nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng Việt Nam. Khơng chỉ kế thừa truyền thống đồn kết của dân tộc mà
Hồ Chí Minh cịn xây dựng một hệ thống lý luận về đại đoàn kết để dẫn dắt, soi
đường cho cách mạng Việt Nam.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết là hệ thống các luận điểm về vị trí,
vai trị, nội dung, ngun tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách
mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Nói cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng
cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của đại đồn kết
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đồn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là
nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là nội dung
nổi bật, nhất quán, xuyên suốt trong cách mạng Việt Nam, đó là chiến lược
nhằm tập hợp mọi lực lượng để hình thành nên sức mạnh to lớn của tồn dân tộc
vì mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Mục tiêu của đại đoàn kết
là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, mục tiêu đó thống nhất với mục tiêu
của cách mạng Việt Nam, thống nhất với mục tiêu của Đảng cách mạng đó là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đó mang tầm chiến lược
vì nó thuộc về mục tiêu của một Đảng, thống nhất với đường lối cách mạng của
dân tộc.
Đại đoàn kết nhằm tập hợp lực lượng cách mạng, tạo ra sức mạnh. Đó

khơng phải là một chính sách nhất thời, mà là một chiến lược cơ bản, lâu dài và
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Từ truyền thống dựng nước và giữ nước
của dân tộc chúng ta thấy truyền thống đoàn kết được kết tinh qua hàng ngàn
4


năm vì thế đó là truyền thống q báu của dân tộc và chính nhờ tinh thần đại
đồn kết dân tộc chúng ta đã đánh thắng được các thế giặc lớn mạnh đến từ
nhiều phương đó là qn Ngun Mơng, cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng
chiến chống Mỹ xâm lược.
Theo Hồ Chí Minh đại đồn kết khơng phải là một sách lược xuất phát từ
ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà nó là nhiệm vụ tự nhiên, tất yếu,
xuyên suốt của đường lối cách mạng. Xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết
dân tộc nhằm huy động, tập hợp sức mạnh toàn dân chống kẻ thù, đó khơng phải
là thủ đoạn chính trị, khơng phải là sách lược nhất thời mà đó là chiến lược cơ
bản, xun suốt tồn bộ q trình cách mạng Việt Nam đi từ độc lập dân tộc lên
chủ nghĩa xã hội, trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc cũng như trong xây dựng một
nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Chính sách đại đồn kết mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để
thực hiện đoàn kết, mà đoàn kết của ta khơng chỉ là đồn kết rộng rãi mà cịn
đồn kết lâu dài. “Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải thủ đoạn
chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta
cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”1.
Đồn kết phải ln được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng, là bộ
phận hữu cơ quan trọng và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đại đoàn kết là
sức mạnh tiềm ẩn, tiềm năng và phát huy được tới đâu, mức độ như thế nào lại
hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của tầng lớp lãnh đạo. Bằng sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc ta đã làm nên những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử dân tộc
như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… nhưng cũng dân tộc ấy đã có lúc khơng

thắng được mười vạn quân Pháp để phải chịu ách đô hộ hơn 80 năm, mặc dù có
rất nhiều cuộc khởi nghĩa, có rất nhiều phong trào yêu nước nổ ra. Vì thế, Người
đã dạy rằng: “… Một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng đồn kết chặt chẽ dưới sự lãnh

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H2011, t9, tr244.

5


đạo của giai cấp cơng nhân và Đảng của nó, đi đúng đường lối của CN.Máclênin, thì nhất định đánh thắng được đế quốc xâm lược”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: chính sức mạnh của lực lượng tồn dân
đồn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám, Người phân tích cụ thể:
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn
dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều
nổi dậy theo là cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng
toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó. “Tồn
dân Việt Nam chỉ có một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ. Chỉ có một chí: Quyết
khơng chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ
thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một
bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học, lúc
nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Và Người khuyên dân ta rằng:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”
Đồn kết là nhân tố quyết định thành cơng của cách mạng, đồn kết càng

rộng rãi thì thắng lợi của cách mạng Việt Nam càng to lớn. Bởi, muốn đánh
thắng được kẻ thù ta phải có lực lượng, muốn có lực lượng phải tập hợp nhân
dân tức là đoàn kết, đoàn kết sẽ tạo ra sức mạnh, tạo ra lực lượng, là then
chốt…của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh, muốn có lực lượng mạnh phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống
nhất. Giữa đồn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mơ của đồn kết
quyết định quy mơ, mức độ của thành cơng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực
lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của tồn dân tộc
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, kẻ thù giai cấp.
6


Vì thế, Người đã khẳng định: Đồn kết làm ra sức mạnh; “đoàn kết là sức
mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng”.
“Đồn kết là điểm mẹ. Điểm mẹ này thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
Và Người đã kết luận:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Đại đồn kết dân tộc là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách
mạng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng bởi Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đại đồn kết ln thống nhất với mục
tiêu của Đảng, thống nhất với mục tiêu của cách mạng Việt Nam; vì vậy Đảng
phải đề ra đường lối đại đoàn kết đúng đắn, nhằm tập hợp lực lượng. Một đường
lối cách mạng đúng đắn phải đáp ứng các yêu cầu sau: Một là, đường lối đó đáp
ứng nguyện vọng của đại đa số nhân dân; hai là, đường lối đó phải phù hợp với
thực tiễn Việt Nam; ba là, thể hiện được mục tiêu của dân tộc; bốn là, đáp ứng
xu thế của thời đại. Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều này rất rõ,
bởi trong mỗi giai đoạn cách mạng Bác và Đảng ta luôn đề ra những đường lối
đáp ứng được các u cầu này. Vì thế, trong báo cáo chính trị tại Đại hội II của

Đảng (2/1951), Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Về mục đích trước mắt, Đảng Lao
động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi
hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện
dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội.” 2.
Tại buổi ra mắt của Đảng Lao Động Việt Nam, trong lời kết thúc Bác đã
thay mặt Đảng tun bố trước tồn dân tộc: Mục đích của Đảng Lao Động Việt
Nam gồm 8 chữ: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Để thực
hiện mục tiêu đó, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ đảng viên phải thấm
nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng,

2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, H2011, t7, tr 41

7


vận động, tổ chức, giáo dục quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy “dễ mười lần
khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng mà cịn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Như vậy, đại đồn kết dân tộc chính là địi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vơ địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con
người.
1.3.2. Quan niệm Hồ Chí Minh về lực lượng, hình thức tổ chức, nguyên
tắc và phương pháp thực hiện đại đoàn kết dân tộc

Lực lượng đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện thơng
qua quan niệm về “Dân” của Hồ Chí Minh. Là tất cả con lạc cháu hồng, là tất cả
những ai tự nhận mình là con dân đất Việt, không phân biệt giàu nghèo, đảng
phái, tôn giáo… khái niệm dân bao gồm mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội, là
những người sống trên lãnh thổ Việt Nam và cả những người Việt kiều có lịng
với đất nước. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh dân là bao gồm tất cả những
người Việt Nam có chung một tổ tiên, nòi giống đều là con Rồng cháu Tiên, là
những người đều sinh ra từ cái bọc trăm trứng và tất cả đều là anh em, ruột thịt,
những ai tán thành mục tiêu đồn kết thì chúng ta sẽ đoàn kết với họ. Như vậy,
lực lượng đại đoàn kết là toàn dân Việt Nam, mọi tầng lớp, mọi đối tượng, mọi
tôn giáo, đảng phái, là những người yêu nước, ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Điều này thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng so với
quan điểm những người yêu nước cùng thời và quan điểm của quốc cộng sản.
Lực lượng đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh được mở rộng, đây cũng là cơ
sở để Người tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Lực lượng của đại đoàn kết muốn vững bền phải được Đảng lãnh đạo, tập hợp
8


toàn dân vào một khối thống nhất trong cuộc đấu tranh cho mục tiêu chung của
cả dân tộc đó là giành độc lập.
Người đã từng nhận định về tình hình cách mạng Việt Nam: cách mạng
Việt Nam có đủ các yếu tố để thành công nhưng chúng ta lại thiếu một tổ chức,
tổ chức đó có nhiệm vụ quy tụ và lãnh đạo cách mạng. Vì thế muốn tập hợp lực
lượng cách mạng cần phải có một tổ chức thống nhất tồn dân tộc. Đó là đồn
kết tồn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, chúng
ta có các hình thức, tổ chức đại đồn kết khác nhau nhưng về mục đích và nhiệm
vụ thì khơng thay đổi. Đặc biệt, mặt trận phải lấy liên minh cơng – nơng – trí
thức làm nền tảng. Đây là cơ sở để tạo nên nền tảng vững chắc của Mặt trận do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Hồ Chí Minh cịn chỉ ra các ngun tắc đại đồn kết, đó là đại đồn kết được
xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi
cơ bản của các giai tầng. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại
đồn kết của Hồ Chí Minh bởi vì trong mỗi quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ,
văn minh hay lạc hậu, bao giờ cũng tồn tại những giai cấp, tầng lớp xã hội có lợi
ích khác nhau. Vì thế, muốn phát huy được sức mạnh của nhân dân, khối đại
đoàn kết dân tộc trước hết phải được xây dựng trên cơ sở của những lợi ích đặc
biệt là những lợi ích chung. Những lợi ích đó phải đủ sức hạn chế những mâu
thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp, thành viên khác nhau trong nội bộ nhân dân.
Lợi ích chung càng của đơng người thì khối đại đồn kết càng rộng lớn. Lợi ích
chung càng thiêng liêng, đáp ứng u cầu khát vọng của mọi người thì khối
đồn kết càng bền chặt.
Đại đoàn kết phải thực hiện một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo,
đồn kết lâu dài, chặt chẽ. Đây là nguyên tắc phân biệt sự khác nhau giữa tư
tưởng đồn kết của Hồ Chí Minh với tư tưởng đoàn kết của các bậc tiền bố.
Đồn kết có tổ chức: khối đại đồn kết được tổ chức từ thấp tới cao, chặt chẽ.
Đồn kết có lãnh đạo: đoàn kết dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đội tiên
phong là Đảng Cộng sản được trang bị lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin. Đoàn kết
9


lâu dài, căn cứ vào mục tiêu của đại đoàn kết, mục tiêu đó thống nhất với mục
tiêu của Đảng và cách mạng Việt Nam đó là đấu tranh cho độc lập dân tộc, hạnh
phúc của nhân dân, vì thế khối đại đồn kết có sức sống trường tồn, vĩnh cửu.
Đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đồn kết phải gắn bó
với tự phê bình và phê bình. Vì trong đồn kết có đấu tranh, mục đích của đấu
tranh để củng cố nội bộ, củng cố tổ chức. Mục đích của phê bình là phát huy ưu
điểm, sửa chữa khuyết điểm. Đặc biệt, đại đoàn kết phải lấy dân làm gốc, tin
dân, dựa vào dân, bởi dân là lực lượng to lớn của đại đoàn kết. Đây chính là
những ngun tắc đại đồn kết trong tư tưởng của Bác.

Về phương pháp của đại đoàn kết toàn dân tơc, Hồ Chí Minh chỉ ra các
phương pháp để thực hiện đại đồn kết hiệu quả. Đó là, phương pháp tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục. Mục đích tuyên truyền là nâng cao
nhận thức cho dân để dân hiểu, tự nguyện tham gia vào khối đại đoàn kết. Nội
dung tuyên truyền đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của đa số nhân dân và yêu
cầu thực tiễn cách mạng đề ra. Hình thức tuyên truyền cần phong phú, đa dạng
phù hợp với từng đối tượng, nội dung tuyên truyền. Như vậy, mỗi thời kỳ, giai
đoạn cách mạng cần có những phương pháp, hình thức, nội dung tuyên truyền
phù hợp, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Muốn xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh cần
phải có phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, củng cố,
phát triển hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân. Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đồn kết, Hồ Chí Minh u
cầu Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; trong Đảng phải
đoàn kết, thống nhất cả trong tư tưởng, ý chí, hành động, từ trên xuống dưới.
Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tự giác; cán bộ, đảng viên là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; phải giữ gìn sự đồn kết, nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đối với Nhà nước: Nhà nước đề ra
chính sách thực hiện đại đoàn kết đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù
hợp với thực tiễn, Hồ Chí Minh yêu cầu: phải xây dựng Nhà nước thật sự là của
10


dân, do dân, vì dân, phải khơng ngừng cải cách bộ máy hành chính và hồn thiện
hệ thống pháp luật. Cán bộ, công chức Nhà nước phải tận tụy, trung thành phục
vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”, cán bộ phải làm tốt công tác dân vận.
Mặt trận dân tộc và các tổ chức đoàn thể: Đây là tổ chức gần dân nhất, là cái vỏ
vật chất của khối đại đoàn kết, là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân, biến đường
lối, chính sách thành hiện thực. Vì thế, Mặt trận và các tổ chức đồn thể phải
xây dựng được cương lĩnh thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng; hình thức tổ chức phải

phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ nhận thức của quần chúng; cán bộ làm
cơng tác dân vận phải “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm”.
Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ nhằm mở rộng đến mức
cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức tối đa trận tuyến thù địch.
Trong cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong phạm vi một nước cũng
như trên thế giới bao giờ cũng phân định thành ba tuyến lực lượng: lực lượng
cách mạng – lực lượng trung gian – lực lượng phản cách mạng, thành bại của
cách mạng không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của hai lực lượng đối địch, mà nó
cịn phụ thuộc một phần rất lớn vào việc bên nào lôi kéo được lực lượng trung
gian. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là phương pháp xử lý mối quan hệ
qua ba chiều đó. Đối với lực lượng cách mạng cần khai thác phát huy những
điểm tương đồng và khắc phục, hạn chế những điểm khác biệt về mục tiêu, lợi
ích, phát huy mục tiêu chúng lớn nhất đó là độc lập cho dân tộc, hạnh phúc, tự
do cho nhân dân Đối với lực lượng trung gian: Khơi dậy tinh thần u nước,
lịng tự tơn dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, thành kiến chân thành hợp tác. Đối với lực
lượng phản cách mạng: Hồ Chí Minh xử lý bằng cách phân thành các tầng, nấc
khác nhau để xử lý. Đối với lực lượng ra mặt chống đối thì phải kiến quyết đánh
đến cùng, đồng thời cũng sẵn sàng hịa hỗn nhưng không làm ảnh hưởng đến
độc lập dân tộc; lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để lôi kéo những lực lượng có thể lơi
kéo.
11


2. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình cách
mạng Việt Nam
2.1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
Ngày 18 - 11- 1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập
Hội Phản đế đồng minh. Hội Phản đế đồng minh đã tập hợp đông đảo quần chúng
trước hết là công nơng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cao trào cách mạng 1930 1931. Hội Phản đế đồng minh ra đời đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và

chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá trình xây dựng và tổ chức Mặt trận dân tộc
thống nhất. Hội Phản đế đồng minh là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Việt Nam (1930). Sau này, tổ chức “Phản đế liên minh”, bước phát
triển mới về Mặt trận Dân tộc Thống nhất (1935). Đại hội lần thứ Nhất của Đảng
Cộng sản Đông Dương (3-1935) đã ra nghị quyết thành lập tổ chức Phản đế liên
minh và thông qua điều lệ của tổ chức này. Điều lệ của Phản đế liên minh đã mở
rộng và linh hoạt hơn: hễ người nào, vô luận đàn ông, đàn bà, già trẻ, tơn giáo xu
hướng chính trị hoặc đồn thể chỉ cần thừa nhận Nghị quyết, Điều lệ và thường
xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. Như vậy, lực lượng cách mạng
được mở rộng hơn, tạo sức mạnh tổng hợp, to lớn hơn.
Trong thời gian từ 1936 đến 1939, nhằm thực hiện mục tiêu chủ yếu và
trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động
thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh; đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hồ bình,
Đảng Cộng sản Đơng Dương đề ra chủ trương lập Mặt trận rộng rãi. Tuy mang
nhiều tên gọi khác nhau, như: Mặt trận nhân dân, Mặt trận Dân chúng thống
nhất phản đế, Mặt trận Dân tộc phản đế, Mặt trận Nhân dân phản đế, Mặt trận
Thống nhất Đông Dương... nhưng tính chất, nội dung vẫn là Mặt trận Dân chủ.
Đây cũng là thời kỳ Đảng cạnh tranh và liên minh với các đảng phái thuộc nhiều
giai cấp, tầng lớp theo những xu hướng chính trị, xã hội khác nhau. Do vậy, đây
là hình thức mặt trận rộng rãi, khắc phục được bệnh cơ độc, hẹp hịi, ảnh hưởng
của Mặt trận Dân chủ lan tỏa rộng rãi trong dân chúng cả nước. Thời gian này,
mặt trận quy tụ lực lượng cách mạng được mở rộng thêm một bước mới.
12


Đầu năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh về nước
trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Tiếp nối các hình
thức Mặt trận dân tộc thống nhất ở các thời kỳ trước, xuất phát từ yêu cầu mới
của cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh). Ngày 19 - 5- 1941, Mặt trận Việt Minh ra đời. Thực hiện Nghị

quyết Hội Nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa I ), tháng 10 1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Từ đây mặt trận
dân tộc thống nhất có tổ chức thống nhất từ trung ương tới cơ sở. Và đường lối
đúng đắn, tổ chức khoa học chặt chẽ, Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết được các
tổ chức, đoàn thể cá nhân yêu nước vào một tổ chức thống nhất, tạo ra sức mạnh
to lớn của tồn dân tộc mà “khơng lực lượng nào thắng nổi”. Đây là lần đầu tiên,
một Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập trình bày rõ ràng đường lối,
chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục
đích cứu quốc. Phong trào Việt Minh lan tỏa nhanh chóng, làm cho chính quyền
ở nhiều địa phương bị tê liệt và chính sách của Việt Minh được thực hiện từng
bước, nhiều Ủy ban Việt Minh xã được thành lập không chỉ lãnh đạo giải quyết
những vấn đề chính trị mà cịn làm nhiệm vụ quản lý đời sống xã hội về các mặt
kinh tế, văn hoá, trật tự, trị an… Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở
ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mặt trận
Việt Minh hoàn thành sứ mệnh là ngọn cờ tập hợp toàn dân dấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng nhà nước dân chủ đầu tiên của nhân dân trong lịch sử Việt
Nam.
2.2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng chủ trương xây dựng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới hai hình thức Việt Minh, Liên Việt
để đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Công việc đầu
tiên của cách mạng Việt Nam là củng cố và mở rộng Mặt trận Việt Minh (1945),
với mục đích tạo điều kiện và quy tụ tất cả những ai chưa có điều kiện tham gia
Mặt trận Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh được củng
13


cố và mở rộng thành phần, bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, những thành phần
yêu nước trong xã hội, phát huy vai trò nòng cốt trong tăng cường khối đại đồn
kết tịan dân. Thành phần tham gia Mặt trận Việt Minh cơ bản là công nhân và
nông dân chiếm đại đa số trong nhân dân.

Tháng 5 - 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt
ra đời. Hội Liên Việt dần dần được xây dựng ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở
và ngày càng nêu cao vai trị của mình trong việc vận động nhân dân đoàn kết
kháng chiến, nhất là trong việc tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân
phá tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp thi hành chính sách “dùng người
Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, lập mặt trận phản dân
tộc, phản kháng chiến, dựng nên những cái gọi là “xứ Nùng tự trị”, “xứ Thái tự
trị”, “xứ Mường tự trị”… Do yêu cầu của việc tăng cường đoàn kết và củng cố
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, từ năm 1948, Đảng đã có chủ trương và
chỉ đạo thống nhất hai tổ chức Mặt trận Việt Minh và Liên Việt. Tháng 3- 1951,
Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt hợp nhất lấy tên là Mặt trận Liên Việt.
Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt, ngày 6-31951, nêu rõ: “Mặt trận Liên Việt quyết giữ vững chủ trương đại đoàn kết của
Hồ Chủ tịch, đưa dân tộc đến toàn thắng”. Mặt trận Liên Việt đã có vai trị to lớn
trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2.3. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, nhân dân phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, nhằm mục
tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nhiệm vụ
chung cả nước và của mỗi miền đã thay đổi. Mặt trận Liên Việt đã hồn thành
sứ mệnh lịch sử, vì vậy, cần phải có Mặt trận mới để lãnh đạo phù hợp đối với
hai miền Bắc – Nam, thực hiện nhiệm vụ cách mạng chiến lược của mỗi miền.
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đã họp từ ngày 5 đến ngày
10-9-1955 tại Hà Nội, quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuyên
ngôn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Đại hội thành lập Mặt trận (9-1955),
14


Nghị quyết Đại hội Mặt trận lần thứ II (4-1961), Nghị quyết Đại hội Mặt trận lần
thứ III (12-1971) đều quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, kêu gọi các
tầng lớp nhân dân, kêu gọi mọi người Việt Nam siết chặt hàng ngũ trong Mặt

trận. Với hơn 30 đảng phái chính trị, đồn thể và tổ chức, cá nhân tham gia, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trở thành tổ chức rộng lớn nhất và có vị trí rất quan trọng
trong xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở cho cuộc đấu
tranh, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến toàn thắng.
Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp mọi người dân, củng
cố khối thống nhất nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, vừa thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, chi
viện sức người, sức của để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã thực sự phát huy được sức mạnh mới của nhân dân, cả dân
tộc - sức mạnh của những con người được giải phóng, trong cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ miền Bắc, phát huy vai trò quyết định của miền Bắc đối với cơng cuộc
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong những năm vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quy tụ và
phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, với tinh thần
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, “Một người làm việc bằng hai”, “Thóc
khơng thiếu một cân, quân không thiếu một người” và với quyết tâm “Tất cả vì
chủ nghĩa xã hội” ,“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tuyền tuyến lớn”,
“Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”... tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần
làm nên đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, một số sai lầm, thiếu sót của Đảng trong cải cách ruộng đất,
trong chỉnh đốn Đảng đã ảnh hưởng đến công tác xây dựng Mặt trận, phát huy
vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Tại Miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc giải phóng miền Nam. Ngày 20-121960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, thuộc vùng giải phóng Tây Ninh, đại
15


biểu các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội và
quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt

trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trở thành người đại diện chân chính
duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, là ngọn cờ đoàn kết toàn dân, tổ
chức và lãnh đạo các lực lượng yêu nước miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trong suốt hai thập kỷ.
Bên cạnh đó, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cịn có Liên minh các
lực lượng dân tộc dân chủ và hồ bình miền Nam Việt Nam ra đời tăng cường
khối đại đoàn kết chống Mỹ, cứu nước (1968). Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam cơng bố bản Cương lĩnh với chủ trương hồ bình, trung lập
đã thu hút nhiều nhân sĩ, trí thức, tư sản tham gia chống Mỹ - Thiệu. Ngày 20-41968, nhóm trí thức Sài Gịn ra vùng giải phóng cùng một số nhân sĩ yêu nước
mở Đại hội thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hồ bình miền
Nam Việt Nam, một tổ chức mặt trận mới gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà công
thương,… nổi tiếng ở miền Nam.
Ngày 6-6-1969, Liên minh cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý để tập hợp lực lượng
cách mạng ở trong và ngoài nước.
Như vậy, với việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất là một yêu cầu tất yếu khách quan của cách mạng
Việt Nam. Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam của Đảng dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan.
Thứ nhất, xuất phát từ thực tế đấu tranh cách mạng trong nước, ta đã hình
thành hệ thống quan điểm, chủ trương và mơ hình tổ chức, phương thức hoạt
động của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Mặt trận khơng chỉ tập hợp các
tầng lớp cơ bản, mà cịn tập hợp cả các tầng lớp khác có tinh thần dân tộc và yêu
nước tiến bộ, kết hợp hài hoà mối quan hệ dân tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc
16


thống nhất không ngừng mở rộng và phát triển với nhiều hình thức Mặt trận,
mang các tên gọi khác nhau phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Thứ hai, trong quá thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; Đảng vừa là thành viên, vừa là lãnh đạo Mặt trận. Đảng thực hiện
sự lãnh đạo Mặt trận bằng cách phát huy vai trị thành viên tích cực, hịa mình vào
mọi hoạt động của Mặt trận.
Thứ ba, xây dựng khối Liên minh cơng – nơng – trí thức là nền tảng để xây
dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng thời mở rộng liên minh với các giai
tầng xã hội khác tạo nên khối đoàn kết rộng rãi và vững chắc của Mặt trận. Mặt
trận Dân tộc thống nhất là tổ chức đóng vai trị quan trọng trong vận động, đoàn
kết toàn dân tộc, tạo cơ sở để đoàn kết quốc tế, gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng lào, Campuchia, cách mạng thế giới, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực
hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam
2.4. Thời kỳ đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 – 1986)
Miền Nam được hồn tồn giải phóng, mở ra kỷ ngun mới cho dân tộc
Việt Nam – kỷ ngun hồ bình, độc lập, thống nhất, cả nước xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đứng trước nhiệm vụ lịch sử mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp
tục phát huy vai trò, sứ mệnh quy tụ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Năm 1977, Hội nghị thống nhất các tổ chức Mặt trận
họp, quyết định hợp nhất ba tổ chức mặt trận: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân
tộc dân chủ hịa bình Việt Nam, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sau khi
thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, việc thống nhất các tổ chức đoàn thể và
Mặt trận được hồn thành nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận
động toàn dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II, nhiệm kỳ 1983-1988 (1983)
đề ra Chương trình hành động là: Hướng mọi hoạt động của Mặt trận đi vào
17



thiết thực, hướng về cơ sở, tới địa bàn dân cư. Thời kỳ này, Mặt trận dân tộc
thống nhất mang tính chất yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội với mục tiêu chung là
xây dựng nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa;
củng cố khối đồn kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong xã hội, phát huy nhiệt tình cách mạng, động viên tồn dân thi đua xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, đây là thời kỳ Mặt trận hoạt động trong cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp, thực hiện bằng mệnh lệnh, hành chính, … do đó, dẫn đến vấn
đề đồn kết dân tộc, cơng tác xây dựng Mặt trận chưa có chiều sâu, các giải
pháp không đồng bộ, chưa phát huy được thế mạnh của dân tộc, chưa phát huy
hết tài năng, trí tuệ của nhân dân trong xây dựng đất nước. Đó là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội vào cuối những năm
70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
3. Xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong
thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay
3.1. Thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ln xác định cơng tác đồn kết dân tộc, xây
dựng mặt trận phải có nội dung mới, phương pháp mới để phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng mới.Trong q trình xây dựng khối đại đồn kết tồn dân
tộc, xây dựng Mặt trận, Đảng tập trung đổi mới và hồn thiện các chính sách cụ
thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Chú trọng các
chính sách đối với giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, thanh
niên, phụ nữ, cựu chiến binh, các lão thành cách mạng, những người có cơng với
nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người cao tuổi, các nhà doanh nghiệp, đồng
bào định cư ở nước ngoài...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
tăng cường động viên, tập hợp các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các tầng lớp
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tăng cường quốc phòng 18



an ninh, góp phần tích cực vào thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đã thực sự giữ vai
trò trung tâm trong “Thực hiện đại đồn kết các dân tộc, tơn giáo, giai cấp,
tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước,
người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ
hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước
hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống
yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lịng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững
độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau khơng trái với
lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng
tới tương lai. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh
vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đồng
thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể cịn là một kênh thơng tin
quan trọng phản ánh tình hình xã hội, tâm tư, nguyên vọng của nhân dân và
kiến nghị với Đảng, Nhà nước những chủ trương, giải pháp thiết thực, giải
quyết có hiệu quả những vấn đề liên quan đến nhân dân và đoàn viên, hội viên
trong các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Quán triệt sâu sắc phương châm “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ
thực tiễn, nhạy bén với cái mới”, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đã
căn cứ vào điều lệ, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, thường xun tìm
tịi, sáng tạo và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để phù hợp với nền
kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan tâm đến lợi ích chính
đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, triển khai thực hiện có hiệu quả chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước… Qua đó, tạo nên những
chuyển biến tích cực về kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội, quốc phòng - an

19


ninh; góp phần xây dựng tổ chức đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh,
trong sạch. Thực tế cho thấy, các phong trào, các cuộc vận động lớn do Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể phát động, tổ chức thực hiện ngày càng
phong phú, hợp “ý Đảng, lịng dân”, tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước.
Nhiều phong trào thi đua yêu nước được phát động sâu rộng trong các tầng
lớp nhân dân như: “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Xây dựng nhà tình thương, nhà tình
nghĩa, nhà đại đồn kết”, “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư” và “Ngày vì người nghèo” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cụ thể
hoá được các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân; hướng dẫn, tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước của quần chúng. Trong công nhân, viên chức, lao động có phong trào “Thi
đua lao động giỏi”, “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”…
Từng tổ chức, thành viên của Mặt trận Tổ quốc đã có phát động các phong
trào cho các hội viên của mình như Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với
hai phong trào “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” đã đi vào cuộc
sống, phát huy mạnh mẽ vai trị của đồn viên, thanh niên trong các hoạt động
kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã
phát huy vai trò của các cấp Hội, vận động hội viên đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước: “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Ni con khỏe, dạy
con ngoan”, “Xây dựng quỹ vì phụ nữ nghèo”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Hội Cựu chiến binh Việt Nam đẩy
mạnh phong trào “Phát huy bản chất, truyền thống bộ đội Cụ Hồ, góp phần xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc”, “Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ”, “Phát triển kinh
tế gia đình, làm giàu chính đáng”. “Hội Người cao tuổi Việt Nam” tham gia tích
cực các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tham
gia phòng chống các tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong
sạch, vững mạnh.

20


“Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam” đã vận động đội ngũ trí
thức tích cực thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước;
phối hợp với các hội ngành tổ chức cho các nhà khoa học phát huy trí tuệ, sức
sáng tạo tham gia đóng góp ý kiến, tư vấn, phản biện đối với các đề án phát triển
kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, quốc phòng-an ninh,
đối ngoại,… Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã thu hút đông
đảo đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức của cả nước sáng tác nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị trên các lĩnh vực, tham gia xây dựng môi trường văn hố
lành mạnh trên các địa bàn dân cư, góp phần ổn định chính trị - xã hội và sinh
hoạt cộng đồng. Các tôn giáo vận động đồng bào theo đạo “gắn bó đạo với đời”,
sống “tốt đời, đẹp đạo”, gắn việc thi đua yêu nước với đức tin tôn giáo. Chăm lo
phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống cho đồng bào. “Ban Việt kiều”
tăng cường thông tin, tuyên truyền vận động người Việt Nam ở nước ngoài, tạo
điều kiện thuận lợi và có những chính sách thu hút “Việt kiều” hướng về quê
hương, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Các phong trào thi đua của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
đã tập hợp, thu hút được đông đảo hội viên; qua đó, giúp đỡ nhau cùng phát
triển kinh tế gia đình, xố đói, giảm nghèo; góp phần xây dựng Đảng, chính
quyền nhà nước, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã
hội; thực hiện tốt việc giáo dục truyền thống và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cho thế hệ trẻ...
Tuy nhiên, Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị vẫn cịn nhiều
hạn chế; Quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân thông qua các đoàn thể chưa
được phát huy mạnh mẽ. Trong Đảng, một số tổ chức Đảng và cấp ủy Đảng
chưa nhận thức đúng tầm quan trọng chiến lược của công tác Mặt trận. Tệ quan
liêu, xa dân còn nặng. Việc thể chế hóa, hồn thiện các chính sách đối với cơng
nhân, nơng dân, trí thức nhằm tạo động lực và khơi dậy phong trào cách mạng

trong quần chúng còn chậm.
21


Mặt trận Tổ quốc với tư cách là liên minh chính trị cịn lúng túng trong việc
hiệp thương thống nhất hành động và phát huy vai trò các tổ chức thành viên để
tổ chức các phong trào cách mạng rộng lớn trên các lĩnh vực. Việc tập hợp ý chí,
nguyện vọng các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng luật pháp, chính sách,
tham gia kiểm tra cơng việc Nhà nước cịn hạn chế.
Các đồn thể chính trị - xã hội chưa phát huy tốt vai trò là “cầu nối” giữa nhân
dân với Đảng và chính quyền; tiếng nói của các đồn thể trong tham gia quản lý
nhà nước cịn yếu và chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả. Các đồn thể
cịn nhiều lúng túng trong việc nâng cao chất lượng và phát triển đoàn viên, hội
viên, nhất là ở vùng tôn giáo, vùng dân tộc ít người. Tỷ lệ tập hợp đồn viên, hội
viên cịn thấp. Một số tổ chức xã hội cịn mang tính hình thức hoặc hoạt động
khơng đúng chức năng.
3.2. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, hội nhập giai đoạn hiện nay
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi
và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và đối với đường lối xây
dựng, củng cố khối đại đồn kết tồn dân nói riêng. Lợi dụng q trình mở cửa,
hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hịa bình”, kích
động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn tôn giáo, phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu các mâu thuẫn, gây xung đột xã hội,
kích động biểu tình, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Đặc biệt,
chúng đang tìm cách chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; đối lập nhân dân
với lực lượng vũ trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, phá hoại liên minh công nông - trí; kích động chống đối, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội.
Trên bình diện quốc tế, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại.

Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc,
sắc tộc, tôn giáo; hoạt động ly khai, can thiệp lật đổ, khủng bố diễn ra quyết liệt
22


ở nhiều nơi trên thế giới. Trong khu vực, bên cạnh sự “trỗi dậy hịa bình” của
Trung Quốc là sự điều chỉnh, chuyển trọng tâm chiến lược của các nước lớn
sang châu Á - Thái Bình Dương và sự tăng cường sức mạnh quân sự của nhiều
nước trong khu vực. Những động thái trên khơng những làm cho tình hình Biển
Đông vốn đã phức tạp sẽ tiềm ẩn nhiều diễn biến khó lường, mà cịn phần nào
tác động đến tư tưởng, tình cảm của các tầng lớp dân cư, gây chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu vực
và quốc tế. Hội nhập, tồn cầu hóa là q trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
khơng chỉ tạo ra những thời cơ mà còn ẩn chứa cả những nguy cơ, thách thức
lớn đối với sự nghiệp an ninh, quốc phòng của mỗi nước, nhất là những nước
đang phát triển. Âm mưu “diễn biến hịa bình” và các nguy cơ đe dọa độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là giữ vững chủ quyền biển, đảo
và an ninh quốc gia địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn quân phải đồng lòng,
chung sức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, phải “tranh
thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc...”. Kinh nghiệm của cha ông cũng như quy luật của lịch sử đã minh
chứng, chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức
mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước; biến được sức mạnh ngoại sinh
thành sức mạnh nội sinh, thành ý chí của tồn dân tộc chúng ta mới có thể giữ
gìn vẹn tồn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ và bảo
vệ thành công sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Trong bối cảnh mới, bên cạnh việc đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung, phải lấy “tinh thần yêu nước” để quy tụ lòng dân, tập

hợp, đoàn kết “mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước” nhằm “tạo sinh lực
mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Để xây dựng, củng cố, tăng cường khối
đại đồn kết tồn dân tộc thì đồn kết trong Đảng và tăng cường quan hệ mật thiết
23


giữa Đảng với nhân dân giữ vai trò hết sức quan trọng. Đoàn kết trong Đảng phải
trở thành hạt nhân, chỗ dựa vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Ðại hội XII của Ðảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
do Đảng lãnh đạo”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân,
toàn quân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới.
Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp
nhận những điểm khác nhau khơng trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.
Ðề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn
kết mọi người vào Mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Ðộng viên và
phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và
giữ vững kỷ cương trong đời sống xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt
trận cần chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trước yêu
cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đồn kết thật sự và
bền vững. Tiếp tục phát huy vai trò, vị trí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng mới, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tăng cường và đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân
dân cho phù hợp với thực tiễn hiện nay. Ðẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 05 CT/TW của Bộ Chính trị về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân
cùng với Ðảng, Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội; hợp tác và hội nhập sâu

rộng kinh tế quốc tế, tham gia tích cực cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0. Nâng
cao chất lượng cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
24


Việt Nam”, qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các
tầng lớp nhân dân.
Tăng cường thực hiện có hiệu quả Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội. Chăm lo và phát huy vai
trò của các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, tín đồ,
chức sắc tơn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Củng cố, kiện
toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới. Để xây dựng và
phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tập trung thực hiện tốt
những vấn đề chính sau:
Một là, phải tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các
cơ chế, chính sách về dân tộc, tơn giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích,
động viên, phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, phải có những chính sách cụ thể, quan tâm
mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã hội như cơng nhân, nơng dân, trí
thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các chính
sách xã hội, nhất là các chính sách đối với các thương binh, gia đình liệt sĩ,
những người có cơng với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn,
đảm bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Tuyệt đối
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, phát huy vai trò, tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận,
góp ý những vấn đề quan trọng của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Phổ biến và thực hiện tốt hơn nữa “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, từng bước giải
quyết những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Theo đó, các cấp ủy đảng và chính
25


×