Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Sự nghiệp giáo dục đào tạo ở huyện kỳ anh (tỉnh hà tĩnh) đổi mới theo tinh thần nghị quyết hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành trung ương đảng khoá viii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.49 KB, 45 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện cơng trình nghiên cứu này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo Phan Quốc Huy, các thầy, cô giáo trong tổ Lịch sử Đảng cùng
các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị - Trường Đại học Vinh đã giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện để em hồn thành cơng trình nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khoẻ các thầy cơ !
Vinh, 5 năm2002

Sinh viên: Lê Thị Trinh
Hoa


A- PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
Hà Tĩnh – quê hương của nhiều truyền thống cao đẹp: truyền thống cách
mạng, truyền thống cần cù lao động... đặc biệt là truyền thống ham học hỏi, tơn
sư trọng đạo “tính từ thời Trần đến thời Nguyễn, Hà Tĩnh có tới 148 vị đại
khoa” [10, 42]. HàTĩnh tự hào là nơi sinh ra nhiều danh nhân nổi tiếng như đại
thi hào dân tộc Nguyễn Du (1766-1820) với “Truyện Kiều” bất hủ, danh y Hải
thượng lãn ông Lê Hữu Trác (1720-1792), nhà thơ kiêm nhà thuỷ lợi tài ba
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và rất nhiều người có tên tuổi khác.
Hiện nay Hà Tĩnh đang là một tỉnh nghèo, đời sống, kinh tế, xã hội của
nhân dân cịn gặp rất nhiều khó khăn, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước diễn ra
trên địa bàn Hà Tĩnh với nhịp độ chậm chạp, chưa theo kịp các địa phương khác
trong cả nước.
Do đó, để phát huy những truyền thống và đưa Hà Tĩnh thốt khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu, tụt hậu xa so với các tỉnh khác về kinh tế, xã hội thì
Đảng bộ Hà Tĩnh cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó đổi mới GD - ĐT là
một trong những giải pháp chính nhằm đào tạo con người Hà Tĩnh đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước nói chung và tỉnh nhà nói riêng.
Trong bối cảnh chung của tỉnh, Kỳ Anh là một huyện nghèo của Hà Tĩnh


hơn lúc nào hết phải có những bước đi thích hợp, những bước đột phá về GD ĐT để có thể hồ nhập vào thời kỳ phát triển mới của đất nước. Trong lời khai
mạc Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng (khố VIII), ngun Tổng bí thư Đỗ
Mười cũng đã khẳng định: “Phấn đấu tạo điều kiện đưa nền giáo dục nước ta đi
trước một bước thích hợp so với phát triển kinh tế để sớm tiếp cận trình độ học
vấn của nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới”[7, 11], hay “Phát

1


triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của
từng gia đình và mỗi công dân” [7, 11]...
Với điều kiện kinh tế, xã hội như hiện nay những vùng quê khó khăn như
huyện Kỳ Anh phải bắt đầu từ đâu, chọn con đường nào để tiếp cận với định
hướng phát triển GD - ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH mà Nghị quyết BCH TW
lần thứ 2 (khoá VIII) của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra. Bản thân sinh ra và
lớn lên trên mảnh đất Kỳ Anh với bao đời vất vả, tơi tự nhận thấy phải có trách
nhiệm đóng góp một phần sức lực và trí tuệ nhỏ bé của mình trong việc tìm hiểu
quá trình thực hiện Nghị quyết BCH TW lần thứ 2 của Đảng về GD - ĐT trên
q hương mình.
Với ý nghĩa đó tơi chọn đề tài: “Sự nghiệp GD - ĐT ở huyện Kỳ Anh (Hà
Tĩnh) đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị BCH TW II (khoá VIII) của
Đảng”. Làm đề tài luận văn tốt nghiệp ngành cử nhân chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, GD - ĐT là vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu chính trị, xã hội quan tâm. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu đánh giá sau
5 năm thực hiện Nghị quyết BCH TW lần thứ 2 của Đảng cộng sản Việt Nam về
GD - ĐT trên địa bàn cả nước nói chung và ở huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói
riêng. Đảng bộ Kỳ Anh ngồi những Báo cáo tại Hội Nghị tổng kết GD - ĐT
của huyện trong những năm học 1997-1998 đến năm học 2000-2001, cũng đã có
những chương trình hành động cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết. Đồng

thời một số thầy (cô) giáo đang công tác tại các trường học ở Kỳ Anh cũng có
những bài viết về nền GD - ĐT của huyện nhà trong những năm gần đây. Tiêu
biểu như bài viết: “giáo dục-vùng khó khăn-những giải pháp và kiến nghị” (viết
vào tháng 5/1997) của Thầy giáo Hồ Gia Bảo-hiện là hiệu trưởng của trường
THCS Thị trấn Kỳ Anh (Hà Tĩnh).
Tất cả những báo cáo nêu trên đã điều tra sự chuyển biến của nền GD ĐT ở huyện Kỳ Anh, song tất cả chưa thành một văn bản tổng kết đầy đủ. Trên
2


cơ sở đó đề tài của tơi sẽ có sự nhìn nhận đánh giá một cách tồn diện, khách
quan với những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng, giúp Đảng bộ Kỳ Anh
có những định hướng mới cho công tác GD - ĐT trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước địi hỏi phải có con người
trung thành giàu lịng u nước, có trình độ kiến thức hiện đại. Do đó, để đáp
ứng yêu cầu của chiến lược phát triển giáo dục hiện nay, đề tài góp phần thiết
thực đưa Nghị quyết BCH TW lần thứ 2 của Đảng vào cuộc sống. Đề tài tập
trung làm rõ cơ sở lý luận thực tiễn của Nghị quyết nói chung và q trình triển
khai thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói riêng.
Đề tài cũng nhằm đánh giá đúng thực trạng của nền GD - ĐT Kỳ Anh
trước và sau khi thực hiện Nghị quyết. Cụ thể là những chuyển biến của GD ĐT Kỳ Anh sau một quá trình triển khai đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Hay nói
cách khác là để thấy được những thành tựu cũng như hạn chế của nền GD - ĐT
ở huyện trong những năm vừa qua.
Trên cơ sở đó, đề tài cũng đề xuất một vài kiến nghị đối với Đảng bộ Kỳ
Anh, phòng giáo dục Kỳ Anh nhằm thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới sự nghiệp
GD - ĐT ở Kỳ Anh phát triển hơn nữa trong thời kỳ CNH, HĐH.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa MácLênin, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, phân tích,
thống kê, so sánh để làm rõ sự biến chuyển của sự nghiệp GD - ĐT ở huyện Kỳ
Anh khi Nghị quyết BCH TW lần II của Đảng cộng sản Việt Nam trở thành hiện

thực trong đời sống kinh tế, xã hội.
5. Ý nghĩa của luận văn
Là một sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, việc nghiên cứu “Sự
nghiệp GD - ĐT ở huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) đổi mới theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị BCH TW 2 (khoá VIII) của Đảng” mang một ý nghĩa vô cùng to lớn,
3


đóng góp thêm trong kho tàng lý luận chính trị nhằm phục vụ tốt quá trình học
tập nghiên cứu và giảng dạy ở trường THPT sau này.
Trên một bình diện khác, đề tài nghiên cứu lịch sử, thực tiễn ở địa phương
trong q trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, do đó là một người
con của quê hương xin góp phần nhỏ bé với huyện nhà về định hướng phát triển
GD - ĐT.
Đây là một cơng trình nghiên cứu đầu tiên sẽ không tránh khỏi khiếm
khuyết, bản thân hy vọng sẽ có sự đóng góp nhiều hơn trong những lần nghiên
cứu sau.
6. Bố cục của luận văn:
Cấu trúc của bản luận văn gồm:
* Mục lục
A - Lời nói đầu
B – Nội dung:
Chương 1: Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 2
(khoá VIII) của Đảng cộng sản về GD - ĐT.
Chương 2: Đảng bộ Kỳ Anh triển khai và thực hiện Nghị quyết
Hội nghị BCH TW lần thứ 2 (khoá VIII) của Đảng.
C – Kết luận:
* Tài liệu tham khảo.

4



B – NỘI DUNG
Chƣơng 1
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BCH TW LẦN THỨ 2 (KHOÁ VIII) CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA GD - ĐT ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN
ĐẤT NƢỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói với trẻ em Việt Nam ngay từ buổi đầu
dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà rằng: “Nước nhà trông mong, chờ đợi ở
các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [12,93].
Điều đó để thấy rằng GD - ĐT có vai trị, vị trí hết sức to lớn đối với sự phát
triển của đất nước. Phát triển GD - ĐT là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện phát huy nhân lực con người – yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi một
nền giáo dục tốt, sẽ là cơ sở cho việc khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực
con người, cho sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia trên chặng đường
đi tới.
Đặc biệt ở các nước đang phát triển và những nước nghèo như Việt Nam
ta hiện nay thì phát triển GD - ĐT đóng vai trò quan trọng trong việc mở đường
cho sự phát triển lành mạnh và bền vững cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố.
Bảo đảm cho q trình CNH, HĐH đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa” [7, 11]. Đồng thời phát triển GD - ĐT
cũng là tiền đề cần thiết để có thể nắm bắt những thành tựu khoa học cơng nghệ
hiện đại, rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển trên thế giới. Từ đó
nâng cao vị trí của nước Việt Nam trên trường quốc tế.


5


Ở nước ta, sự nghiệp GD - ĐT được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
vun đắp từ những ngày cách mạng còn trứng nước. Mặc dù đời sống nhân dân
đang cực kỳ khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh ác liệt triền miên,
ngày đêm cả dân tộc phải đối mặt với bao kẻ thù nguy hiểm nhưng Hồ Chí Minh
ln nhấn mạnh: thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà.
Chăm sóc giáo dục tốt thế hệ trẻ là nhiệm vụ của toàn Đảng, tồn dân. Cơng tác
đó phải thật kiên trì và bền bỉ:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
[12, 86]
Đúng vậy, trồng người, chăm sóc giáo dục trẻ em, sống xứng đáng với
truyền thống của dân tộc, đó là một vấn đề chiến lược, vấn đề có ý nghĩa quyết
định tương lai, vận mệnh của cả dân tộc ta.
Ngày nay, hướng tới thế kỷ XXI, thế kỉ của tri thức, thế kỷ mà trình độ
dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức
mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Chăm lo sự nghiệp GD - ĐT con
người là công việc số một của Đảng và Nhà nước ta. Hay nói cách khác, với tư
tưởng chỉ đạo đặt con người vào vị trí trung tâm của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn coi GD - ĐT và khoa học, cơng nghệ là
quốc sách hàng đầu, là chìa khố để mở cửa tiến vào tương lai, vì một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1. 2. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BCH TW LẦN THỨ 2 (KHOÁ VIII) CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ GD - ĐT:

Quán triệt quan điểm giáo dục nói trên, đồng thời trên cơ sở đánh giá thực
trạng nền giáo dục, khoa học công nghệ nước nhà trong những năm đầu thập kỉ

90. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng (khoá VIII) đã xác định tư
tưởng chỉ đạo phát triển GD - ĐT và định hướng chiến lược phát triển khoa học

6


và công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, cũng như mục tiêu, nhiệm vụ
và những giải pháp chủ yếu của sự nghiệp GD - ĐT và khoa học công nghệ đến
năm 2000.
Qua mười năm đổi mới, các ngành GD - ĐT và khoa học cơng nghệ nói
chung đã có nhiều cố gắng, đạt được những thành tựu quan trọng. Song phải
thừa nhận rằng, những kết quả đó vẫn còn thấp xa so với yêu cầu ngày càng cao
của đất nước và sự mong mỏi ngày càng lớn của nhân dân, nhất là trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Quan điểm của Đảng coi GD - ĐT và khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu đến nay vẫn chưa được nhận thức sâu sắc, cụ
thể hoá đầy đủ bằng các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Hội nghị TW lần
thứ 2 (khoá VIII) của Đảng cộng sản Việt Nam đã thảo luận và có những quyết
định hữu hiệu khắc phục tình trạng trên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng (khố VIII) địi hỏi Đảng
và Nhà nước cần tập trung mọi cố gắng, dành ưu tiên cao nhất cho phát triển GD
- ĐT và khoa học, công nghệ, thể hiện trên các mặt: chính sách, đội ngũ cán bộ
và tổ chức quản lý... làm cho việc phát triển GD - ĐT và khoa học cơng nghệ trở
thành sự nghiệp của tồn dân.
Bước vào thời kỳ mới, phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực
tự cường đi đơi với mở rộng quan hệ quốc tế phát huy đầy đủ năng lực nội sinh
của dân tộc, lấy phát triển GD - ĐT và khoa học công nghệ làm yếu tố cơ bản
coi đó là khâu đột phá [xem 7, 9]. Nghị quyết cũng khẳng định: gắn chiến lược
phát triển giáo dục với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. “Đổi mới nền giáo
dục với cách làm thích hợp, trên các mặt tổ chức và quản lý, dạy và học, nghiên
cứu và ứng dụng. Quan tâm thích đáng đến cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí, coi

trọng giáo dục nhân cách, lý tưởng và đạo đức, trí lực và thể lực; gắn học với
hành, lý thuyết với thực tiễn. Đó là nền giáo dục thấm nhuần sâu sắc tính nhân
dân, tính dân tộc và tính hiện đại” [7, 10]; Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa
học, công nghệ của quốc gia, tiếp thu và ứng dụng thành tựu khoa học, công
7


nghệ thế giới, từng bước hình thành một nền khoa học, công nghệ Việt Nam
hiện đại, đủ sức giải quyết những địi hỏi của q trình phát triển. Tuy nhiên đầu
tư cho GD - ĐT vẫn là đầu tư cơ bản nhất cho sự phát triển toàn diện của đất
nước. Cụ thể sau đây là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng (khoá
VIII) về định hướng chiến lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ công nghiệp
hố, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
1.2.1. Những tƣ tƣởng chỉ đạo phát triển GD - ĐT trong thời kỳ
CNH, HĐH là:
Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; CNH, HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hố của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại [xem 7, 29].
- Thực sự coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc GD ĐT cùng với khoa học công nghệ là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, đầu tư cho GD - ĐT là đầu tư cho phát triển.
- GD - ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân.
Mọi người phải đi học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi
người phải chăm lo cho giáo dục.
- Phát triển GD - ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những tiến
bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phịng an ninh.
- Thực hiện cơng bằng xã hội trong GD - ĐT. Tạo điều kiện để ai cũng
được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập.
Bảo đảm cho những người học giỏi phát triển tài năng.
- Giữ vững vai trị nịng cốt của các trường cơng lập đi đơi với đa dạng

hố các loại hình GD - ĐT, trên cơ sở Nhà nước quản lý, từ nội dung chương
trình, quy chế học, thi cử, văn bằng....
1.2.2. Nhiệm vụ của GD - ĐT từ nay đến năm 2000:

8


- Thứ nhất, phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục các mặt yếu
kém theo hướng: chấn chỉnh công tác quản lý, khẩn trương lập lại trật tự, kỷ
cương, kiên quyết đẩy lùi tiêu cực; sắp xếp và củng cố hệ thống GD - ĐT và
mạng lưới trường lớp; nâng cao chất lượng và hiệu quả GD - ĐT; phát triển quy
mô GD - ĐT; chuẩn bị tiền đề cho những bước phát triển mạnh vào đầu thế kỉ
XXI [xem 7, 32].
- Thứ hai là tiến hành xây dựng chiến lược phát triển GD - ĐT cho thời kỳ
CNH, HĐH. Ban hành luật giáo dục.
1.2.3. Mục tiêu cụ thể GD - ĐT đến năm 2000.
Mục tiêu tổng quát là đào tạo một thế hệ con người “vừa hồng, vừa
chuyên” có đầy đủ phẩm chất cả về đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo về tổ quốc trong giai đoạn mới. Cụ
thể là:
- Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng
nơi. Đảm bảo hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn
bị vào lớp 1.
- Phổ cập giáo dục tiểu học cho cả nước vào năm 2000, phần lớn học sinh
tiểu học được học đủ 9 mơn theo chương trình quy định, tạo điều kiện để phổ
cập giáo dục THCS vào năm 2010.
- Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi từ 15 – 35, thu
hẹp dần diện mù chữ ở các độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn, để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xoá mù
chữ và phổ cập tiểu học trước khi bước sang thế kỷ XXI.

- Tăng quy mơ học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22 – 25% đội ngũ lao
động được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát
chương trình kinh tế, xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu
lao động, cho CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.

9


- Nâng quy mô giáo dục Đại học, Cao đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995
với cơ cấu đào tạo hợp lý, theo sát nhu cầu của sự phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại
các trường đại học. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm, xây dựng một
số trường cao đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ.
Tăng nhanh lượng người đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài [xem 7, 34].
- Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học
từ xa. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và
cơng nhân các doanh nghiệp.
- Có hình thức trường, lớp thích hợp nhằm đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt xuất thân từ công nông và lao động ưu tú, con em các gia đình thuộc diện
chính sách.
- Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xoá “điểm trắng” về giáo
dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và các trường bán trú ở cụm
xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để đào tạo
cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và
quản lý.
1. 2.4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển GD - ĐT:
- “Tăng cường các nguồn lực cho GD - ĐT”[7, 35] : đầu tư cho GD - ĐT
lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách Nhà
nước; tích cực huy động các nguồn lực ngồi ngân sách như học phí, ... xây
dựng và cơng bố cơng khai quy định về học phí và các khoản đóng góp theo
ngun tắc, khơng thu bình qn, miễn giảm cho người nghèo và người thuộc

diện chính sách; có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với việc xuất bản sách giáo
khoa, tài liệu dạy học... dành ngân sách Nhà nước thoả đáng để cử những người
học giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và
lĩnh vực then chốt; đồng thời cũng sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của
nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho GD - ĐT...

10


- “Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học”
[7,38]. Có nghĩa là phải củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp cho các trường sư
phạm; khơng thu học phí và thực hiện chế độ học bổng, ưu đãi đối với học sinh,
sinh viên ngành sư phạm, thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi
dưỡng chuẩn hoá, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên để đến
năm 2000 có ít nhất 50% giáo viên phổ thông và 30% giáo viên đại học đạt tiêu
chuẩn quy định; lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc
lương hành chính sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp GD - ĐT và tăng cường cơ sở
vật chất các trường học như : rà soát lại và đổi mới một bước sách giáo khoa,
loại bỏ những nội dung không thiết thực; tăng cường giáo dục công dân, giáo
dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu nước...; hay đổi mới mạnh mẽ phương pháp
GD - ĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều.
- Đổi mới công tác quản lý giáo dục: cụ thể đó là tăng cường cơng tác dự
báo và kế hoạch hoá sự phát triển giáo dục. Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế, xã hội của cả nước và từng địa phương; quy định lại chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý GD - ĐT; xử lý nghiêm các hiện tượng
tiêu cực trong ngành giáo dục; đổi mới cơ chế quản lý bồi dưỡng cán bộ, tiếp tục
sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu
khoa học giáo dục; đồng thời tiếp tục đổi mới và mở rộng quan hệ trao đổi và
hợp tác GD - ĐT với nước ngồi.

Kết luận chƣơng 1
Như vậy, có thể nói rằng những tư tưởng chỉ đạo phát triển GD - ĐT trong
thời kỳ CNH, HĐH đất nước cùng với những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
được Đảng cộng sản Việt Nam đề ra trong Nghị quyết TW 2 (khố VIII) đã thể
hiện được vai trị hết sức to lớn của Đảng trong sự phát triển đi lên của đất nước.

11


Tất cả đều nhằm xây dựng một thế hệ trẻ có khả năng làm chủ tri thức khoa học và
cơng nghệ hiện đại, có sức khoẻ và tính kỷ luật cao.
Hay nói cách khác, Nghị quyết TW 2 (khố VIII) của Đảng đã thể hiện một
cách cụ thể sát thực, đúng với tình hình của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Do
đó quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết là con đường nhanh nhất đảm bảo dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH.

12


Chƣơng 2
ĐẢNG BỘ KỲ ANH (HÀ TĨNH) TRIỂN KHAI VÀ THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ BCH TW LẦN THỨ 2 (KHOÁ VIII) CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM .
2. 1. NGÀNH GD - ĐT HUYỆN KỲ ANH (HÀ TĨNH) TRƢỚC NĂM 1996.

2.1.1. Vài nét về truyền thống và lịch sử huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh):
Kỳ Anh là huyện cực Nam tỉnh Hà Tĩnh, Bắc giáp huyện Cẩm Xuyên,
Nam giáp huyện Tuyên Hoá và Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, có biên giới tự
nhiên là dãy Hoành Sơn - Đèo Ngang nổi tiếng. Tây giáp huyện Hương Khê.

Đông giáp biển.
“Kỳ Anh nằm trong giải đất hẹp Bắc miền Trung. Diện tích tự nhiên
khoảng 105.000ha, bằng 1/6 diện tích tỉnh Hà Tĩnh, trong đó 74% là đồi
núi”[3,5]. Thời xa xưa, thuở các vua Hùng dựng nước, Kỳ Anh là vùng đất nước
Văn – Lang, có đủ núi rừng, đồng quê, sông biển. Do thiên nhiên khắc nghiệt và
chiến tranh ác liệt liên miên, người Kỳ Anh phải mưu cơ dũng lược để tồn tại,
phát triển, tạo nên một vùng quê có chiều dày truyền thống lịch sử – văn hố với
nhiều di tích và danh thắng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Ngày 3-2-1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, 4 tháng sau Đảng bộ Kỳ
Anh được thành lập, hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của TW Đảng mà trực
tiếp là tỉnh uỷ Hà Tĩnh, Đảng bộ Kỳ Anh đã vượt qua nhiều gian nguy thử thách
lãnh đạo nhân dân hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử trọng đại. Khi tổ quốc bị
xâm lăng hồ chung với khí thế đánh giặc của cả nước, nhân dân Kỳ Anh đã
anh dũng đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc, thống nhất nước nhà. Trên
lĩnh vực sản xuất, xây dựng đất nước người dân Kỳ Anh đã vươn lên khắc phục
những khó khăn do thiên nhiên gây ra để sinh tồn, để có thể đảm bảo phần nào
cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho mình. Đặc biệt là về văn hố, khoa cử,
người Kỳ Anh có những nét riêng độc đáo. Do điều kiện tự nhiên và sự giao lưu

13


khó khăn thuở trước, người dân Kỳ Anh đã tạo dựng cho mình một đời sống
tinh thần phong phú và đặc sắc. Trước đây là văn hoá dân gian với những truyện
cổ, ca dao, tục ngữ... phong phú đa dạng và rất thân tình. Chính điều này đã tạo
nên một nét nổi bật và ghi dấu ấn sâu đậm trong nền văn hoá của dân tộc. Đồng
thời Kỳ Anh cũng là vùng đất cầu học – cầu tài “tuy có muộn so với một số
vùng trong tỉnh Hà Tĩnh nhưng từ đời Lê, Kỳ Anh đã có vị đỗ bảng nhãn đó là
Lê Quang Chí. Hai vị đỗ đồng tiến sĩ là Lê Quang Ý và Phùng Trí Tri. Sang đời
Nguyễn học vấn người Kỳ Anh phát triển hơn có nhiều đại khoa bảng”[3, 16].

Ngày nay, phát huy truyền thống hiếu học huyện Kỳ Anh cũng nổi tiếng
là vùng đất ham học. Cùng với cả nước thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế để thốt khỏi tình trạng nghèo nàn
lạc hậu, vươn tới xã hội giàu có văn minh, Đảng bộ Kỳ Anh đã có sự quan tâm
và đầu tư rất lớn đến sự nghiệp GD - ĐT huyện nhà. Đặc biệt là từ khi có Nghị
quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 2 (khoá VIII) của Đảng cộng sản Việt Nam về
GD - ĐT và khoa học công nghệ ra ngày 16–12 – 1996.
2.1.2. Những thành tựu về GD - ĐT Kỳ Anh:
Hệ thống trường lớp các cấp học, ngành học, nhất là mẫu giáo, tiểu học,
THCS đã có bước phát triển đồng đều trên địa bàn huyện, đáp ứng được nhu cầu
học tập của học sinh các vùng. “Tính đến năm 1996 tồn huyện đã có hơn 30
trường tiểu học, 28 trường THCS, 2 trường THPT, 1 trường năng khiếu, 1
trường dạy nghề, 1 trường bồi dưỡng giáo viên và 1 trung tâm bồi dưỡng chính
trị” [11, 27]. Tình trạng suy giảm về quy mô giáo dục trong những năm trước
1992 đã được ngăn chặn. Phong trào giáo dục phát triển tồn diện, góp phần tạo
nên sự phát triển kinh tế, xã hội huyện nhà.
Chất lượng giáo dục có chiều hướng tiến bộ. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ
học giảm hẳn so với trước. Đầu và cuối năm học 1995 - 1996 học sinh tiểu học
không thay đổi là mấy, học sinh THCS chỉ giảm 46 em, số học sinh đoạt giải
cao trong các kỳ thi học sinh giỏi, số học sinh đỗ vào các trường Đại học, Cao
14


đẳng ngày càng nhiều hơn. (Năm học 1995-1996 có 156 em thi đỗ vào các
trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, con số cao nhất từ trước
đến nay).
Số lượng học sinh từ cấp học mầm non đến THPT đều được tăng lên rõ
rệt cả về đạo đức nhân cách cũng như năng lực văn hoá, tạo điều kiện cho việc
thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và THCS. Năm 1993 huyện đạt chuẩn quốc
gia về phổ cập tiểu học và tiếp tục được thực hiện ngày càng vững chắc. Giáo

dục vùng núi, vùng khó khăn được cải thiện, cơ sở vật chất và thiết bị trường
học ngày càng được củng cố và bổ sung. Hình thành được mạng lưới dạy nghề
cho học sinh THPT.
Đội ngũ giáo viên: đời sống, điều kiện sinh hoạt giảng dạy tuy cịn khó
khăn nhưng đa số nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp. Số giáo viên phấn đấu
trở thành Đảng viên ngày càng nhiều hơn (năm 1992 có 12 đồng chí, năm 1994
có 35 đồng chí, năm 1996 có 39 đồng chí được kết nạp vào Đảng).
Như vậy cơng tác GD - ĐT trên địa bàn huyện tính đến năm 1996 đã thu
được nhiều thắng lợi so với những năm trước đó. Nhìn chung nề nếp dạy và học
được duy trì và củng cố, đời sống giáo viên cơ bản ổn định, cơ sở vật chất
trường lớp từng bước được trang bị đáp ứng một phần nhu cầu học tập của học
sinh. Song nhìn nhận một cách khách quan thì sự nghiệp GD - ĐT huyện nhà lúc
này đang còn phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn.
2.1.3. Những tồn tại
Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi ở một số cấp học còn rất thấp: giáo dục mầm
non đáng báo động, nhà trẻ mới thu hút 13% số cháu trong độ tuổi (1218 cháu
trên tổng số 9865 cháu) mười xã “mất trắng” về nhà trẻ (Kỳ Thượng, Kỳ Sơn,
Kỳ Lâm, Kỳ Lạc, Kỳ Nam, Kỳ Lợi, Kỳ Thịnh, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Ninh);
giáo dục vùng sâu, vùng xa, con em gia đình nghèo đói gặp nhiều khó khăn; tỷ
lệ học sinh THCS so với học sinh tiểu học 38,6%, có những xã rất thấp như Kỳ
Xuân 21%, Kỳ Sơn 22,5%, Kỳ Thịnh 27%, Kỳ Nam 19%, Kỳ Phú 28%...
15


Hiệu suất giáo dục còn thấp: số học sinh vào lớp 1(năm học 1992-1993) là
5450 em nhưng đến lớp 4, lớp 5 còn khoảng 78%, tỷ lệ học sinh THPT khơng
tăng.
Chất lượng giáo dục tồn diện chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
về nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH: trong giáo dục còn coi trọng học chữ
hơn học nghề, coi nhẹ việc học để làm người, một bộ phận học sinh khơng được

gia đình quan tâm dạy dỗ, đã có biểu hiện hư hỏng về đạo đức, số này được tổ
chức thành băng, nhóm (ăn cắp xe đạp, nghiện hút, đánh nhau, cờ bạc...).
Đội ngũ giáo viên cịn thiếu và khơng đồng bộ. Hơn 200 giáo viên phải
dạy chéo môn. Giáo viên được đào tạo từ nhiều loại hình có thể là 7+2; 7 +3 rồi
để hồn chỉnh trong đào tạo, giáo viên được học tiếp vào các tháng nghỉ hè.
Hơn 60% cô nuôi dạy trẻ, 50% cô mẫu giáo, 10% giáo viên tiểu học, 21% giáo
viên THCS, 20% giáo viên dạy nghề, dạy bồi dưỡng, chưa được chuẩn hố
[xem 11, 4].
Chế độ chính sách đối với giáo viên nhất là giáo viên ngồi biên chế, cơ
mẫu giáo, cô nuôi dạy trẻ chưa được quan tâm đúng mức. 27/32 xã, Thị trấn
lương cô mẫu giáo từ 30 đến 60 nghìn đồng/tháng. 13/32 xã lương cơ ni dạy
trẻ 40 nghìn đến 60 nghìn đồng/tháng. Chỉ có hai xã cao nhất là xã Kỳ Hà 95000
đồng/tháng và Kỳ Phong 80.000 đồng/ tháng.
Cơ sở vật chất trường học nhìn chung còn thiếu và nghèo nàn. Phần lớn
các trường học được xây dựng từ thời 1975-1976 nên xuống cấp nghiêm trọng,
không an toàn.
Lấy xã Kỳ Lợi để minh chứng, cả xã chỉ có:
3 phịng đạt tiêu chuẩn
6 phịng làm giang dở
7 phòng xuống cấp cần loại bỏ
5 phòng học nhờ nhà kho hợp tác xã
Hoặc xã Kỳ Thịnh: trường tiểu học thiếu 5 phòng, học sinh phải học ca
16


trưa năm học tới sẽ thiếu 12 phịng. Tính tồn huyện các trường tiểu học và
THCS có 598 phịng học, trong đó 12 phịng kiên cố và 232 phịng bán kiên cố,
334 phòng học tạm và xuống cấp cần loại bỏ Bàn ghế học sinh tuy tạm đủ nhưng
có 50% chất lượng xấu không đảm bảo quy cách. Học sinh phải ngồi 5-6 em
một bàn nên rất chật. Bàn không có ngăn cho học sinh để sách vở và đồ dùng

học tập. Nhiều trường học được trang bị thiết bị thí nghiệm nhưng khơng có
phịng thí nghiệm.
Thêm vào đó cơng tác quản lý GD - ĐT còn chưa thực sự quan tâm đúng
mức, nên tình trạng học thêm dạy thêm tràn lan cịn nhiều nhưng khơng mấy
hiệu quả, làm cho con em một số gia đình khó khăn cũng phải đi học. Điều này
đã gây ra một sự xáo trộn lớn trong cơng việc học tập của các em nói riêng và
sự nghiệp GD - ĐT huyện nhà nói chung.
Tóm lại, trước sự biến động của tình hình kinh tế, xã hội thì sự nghiệp GD
- ĐT ở huyện Kỳ Anh cịn gặp những khó khăn rất lớn: mặt bằng dân trí thấp so
với chỉ số trung bình của tỉnh, đời sống giáo viên thấp, vị trí xã hội của người
thầy bị xói mịn, cơ sở vật chất trường học xuống cấp, ít được tu sửa, có những
xã trước đây phong trào tốt, nay số người mù chữ, số trẻ em khơng đến trường
ngày càng đơng, thậm chí có một số xã vùng núi (Kỳ Phượng, Kỳ Tây, Kỳ Hợp,
Kỳ Sơn, Kỳ Nam...) khơng có thanh niên đủ trình độ phổ thông cấp 2 để thực
hiện nghĩa vụ quân sự. Đồng thời công tác dạy nghề cho thanh niên cũng hạn
chế, chưa được quan tâm đúng mức. Số thanh niên khơng có trình độ kỹ thuật,
tay nghề ... thất nghiệp ngày càng đông.
2.1.4. Nguyên nhân tồn tại:
Tư tưởng bao cấp trong cơng tác GD - ĐT cịn rất nặng nề, các ngành các
cấp chưa coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Vì vậy, chưa tạo ra
được động lực cho sự nghiệp GD - ĐT huyện nhà phát triển. Biểu hiện: có

17


những đơn vị xã suốt một năm khơng có hội nghị chuyên đề nào bàn về công tác
giáo dục; lấy ví dụ như xã Kỳ Thượng lần đầu tiên huy đơng mỗi học sinh đóng
góp 15000 đồng để xây dựng trường. Kỳ Thịnh thì 20 năm dân đóng góp mới
làm được hai phịng học nhưng chưa đạt tiêu chuẩn. Tính từ năm 1991 đến 1996
dân đóng góp khoảng 2-3 tỷ để xây dựng trường học là quá ít. Trong lúc đó dân

đóng góp xây dựng đường điện 10 tỷ đồng, đường giao thông 9,6 tỷ đồng...
Việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học những
năm qua không được phân định rõ. Ngân sách đầu tư từ nhiều nguồn, nhiều cấp
nhưng chưa được quản lý chỉ đạo thống nhất nên đầu tư phân tán, dàn trải, chất
lượng cơng trình khơng đảm bảo.
Cụ thể 1991-1996 đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học (không kể 2
trường THPT Kỳ Anh và Nguyễn Huệ) là:
Qua phòng giáo dục cấp :

2.352,8 triệu.

Qua UBND huyện cấp

:

2.412,1 triệu.

OXFAM Anh tài trợ

:

1.056,0 triệu.

Dân đóng góp khoảng

:

2.100 triệu .

Hay nguồn đóng góp mỗi xã vùng quy định khác nhau. Một số phịng học xây

dựng năm trước, năm sau xin kinh phí tu sửa. Một số trường được đầu tư hàng
chục triệu đồng xây dựng vườn trường nhưng bỏ trống trong lúc giáo viên khơng
có nước sinh hoạt (như ở Kỳ Thịnh...). Những vấn đề này đã tạo nên sự mất cân
bằng, lộn xộn trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho trường học.
Như vậy, xét về chủ quan đó là những nguyên nhân làm cho nền GD - ĐT
Kỳ Anh phải đứng trước những vướng mắc cần tháo gỡ. Song những yếu tố
khách quan như: đời sống người dân còn thấp, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt,
cơ sở vật chất hạ tầng yếu kém cũng tác động rất lớn đến sự phát triển của công
tác GD - ĐT. Vì vậy Đảng bộ Kỳ Anh đã có sự nhìn nhận đúng đắn sự biến
18


chuyển của tình hình GD - ĐT huyện nhà lúc bấy giờ, để quán triệt Nghị quyết
TW 2 (khoá VIII) của Đảng và biến nó trở thành hiện thực trên quê hương mình.

19


2.2. NGHỊ QUYẾT VÀ CHƢƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN NGHỊ
QUYẾT HỘI NGHỊ BCH TW LẦN THỨ 2 (KHOÁ VIII) CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN KỲ
ANH (TỈNH HÀ TĨNH).

Từ thực trạng nền GD - ĐT Kỳ Anh nói trên, đồng thời quán triệt Nghị
quyết hội nghị BCH TW lần thứ 2(khoá VIII) của Đảng cộng sản Việt Nam,
Đảng bộ huyện Kỳ Anh đã đề ra Nghị quyết về chương trình hành động nhằm
đổi mới mạnh mẽ sự ngiệp GD - ĐT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
của huyện trong thời kỳ mới với những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.
2.2.1. Chƣơng trình I: “Thực hiện tốt nhiệm vụ đưa trẻ em đi học đúng
độ tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học, THCS” [6, 1], với những mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp cụ thể sau:

- Huy động 25% số trẻ từ 0-3 tuổi vào nhà trẻ, 80% số cháu từ 3-5 tuổi
vào lớp mẫu giáo. Trong đó số cháu 5 tuổi vào lớp 95%, xoá xã mất trắng về
nhà trẻ.
- Đưa hết số trẻ 6 tuổi vào học lớp 1 phổ thông, đảm bảo không bỏ học
giữa chừng để phổ cập giáo dục tiểu học một cách vững chắc.
- Đưa 100% số học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6(THCS); Mỗi năm
có 20% số xã trong huyện đạt chuẩn về phổ cập giáo dục THCS để đến năm
2000 toàn huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS.
- Tăng số lượng học sinh THPT mỗi năm thêm 10% so với tổng số học
sinh hiện có bằng cả hai loại hình cơng lập và bán cơng.
- Mở một số lớp bổ túc văn hố trung học có tính chất nội trú cho thanh
niên và cán bộ vùng núi, vùng xa.
- Xây dựng trọng tâm giáo dục thường xuyên đủ sức tổ chức việc học tập
văn hoá, kỹ thuật cho cán bộ và nhân dân trong huyện.
2.2. 2. Chƣơng trình II: Tạo chuyển biến mới trong chất lượng giáo dục.

20


- Mục tiêu: tạo chuyển biến mới trong chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh. Nhất là giáo dục, đức dục, trí dục và rèn luyện thể chất. Tăng số lượng
học sinh giỏi hàng năm. Hạn chế học sinh yếu kém [xem 6, 1]
- Nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.
+ Thực hiện tốt trật tự vệ sinh trong trường học bằng việc giữ nghiêm kỷ
luật, nội qui, qui chế trường học, bố trí hợp lý các cơng trình vệ sinh trong khu
vực trường. Kịp thời ngăn chặn sự xâm nhập của tệ nạn xã hội vào nhà trường,
nhất là tệ cờ bạc, hút hít, tiêm chích ma tuý, chấm dứt tình trạng đưa hàng quán
vào bán trong trường. Ngăn chăn và kịp thời xử lý các loại sách có nội dung độc
hại đưa vào trường học.
+ Lập lại kỷ cương trong dạy thêm, học thêm. Thực hiện nghiêm chỉ thị

241/T.Tg của Thủ Tướng chính phủ và chỉ thị 17/GDĐT của Bộ GD - ĐT về
dạy thêm, học thêm. Chấm dứt tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan thiếu sự
quản lý, không đúng đối tượng.
+ Lập lại trật tự, kỷ cương trong đánh giá, xếp loại thi cử.
+ Điều chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới trường lớp để có điều kiện nâng cao
chất lượng giáo dục tồn diện: giải thể trường THCS năng khiếu, chuyển trường
này thành trung tâm chất lượng cao của huyện. Học sinh được thi tuyển trong
phạm vi cả huyện theo nhu cầu, nguyện vọng của phụ huynh, học sinh. Ở đây
học sinh được học đều các mơn. Những xã có đơng học sinh tiểu học (từ 30 lớp
trở lên) khi có điều kiện có thể chia thành 2 trường ở hai vùng nhưng do UBND
xã quản lý. Những xã do ít dân, học sinh THCS cịn ít, khơng mở trường riêng
mà sát nhập với trường bên cạnh (Kỳ Nam, Kỳ Liên, Kỳ Hợp...).
+ Đưa công tác quản lý hồ sơ, sổ sách của nhà trường vào nề nếp. Tránh
tình trạng số liệu phản ánh trong hồ sơ thiếu chính xác, ý thức bảo quản hồ sơ
không tốt xẩy ra mất mát hồ sơ (hồ sơ phổ cập, hồ sơ cán bộ, hồ sơ tài chính...).
+ Động viên giáo viên, học sinh có thành tích cao trong giảng dạy, học tập
một cách kip thời bằng việc tổ chức tốt lễ phát thưởng hàng năm ở xã và Thị
21


trấn tổ chức lễ phát thưởng vào dịp cuối năm học. Ở huyện lấy ngày 31/5 hàng
năm tổ chức lễ phát thưởng cho học sinh giỏi, giáo viên giỏi.
+ Các trường có kế hoạch phát triển, bồi dưỡng đội ngũ học sinh có năng
khiếu văn nghệ, thể dục thể thao. Phịng GD - ĐT phối hợp với trung tâm văn
hố thể thao huyện tổ chức các lớp bồi dưỡng năng khiếu. Kinh phí bồi dưỡng
chủ yếu lấy từ quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục.
+ Ở các trường THPT khi bỏ các lớp chọn cần có kế hoạch hợp lý trong
việc bồi dưỡng học sinh, tạo điều kiện tốt cho học sinh thi đậu vào các trường
Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
2.2.3. Chƣơng trình III: Tổ chức có hiệu quả nhiệm vụ dạy nghề cho học

sinh và thanh niên, với những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như sau:
- Củng cố trung tâm giáo dục kỹ thuật trung học – hướng nghiệp và dạy
nghề để trung tâm thực hiện tốt chức năng của mình. Phòng GD - ĐT và trung
tâm xây dựng đề án, củng cố trung tâm.
- “Xây dựng ở 2 trường THPT và các trường THCS Kỳ Tiến, Kỳ Long,
Kỳ Lâm thành những điểm vệ tinh cho trung tâm huyện trong việc thực hiện dạy
nghề phổ thông” [6, 3].
- Thu hút 100% số học sinh những lớp cuối cấp THCS và học sinh THPT
đến học nghề phổ thông. Tổ chức đánh giá,xếp loại, thi nghề một cách nghiêm
túc, chính xác, động viên được sự cố gắng học nghề của học sinh phổ thơng.
- Nghành GD - ĐT phối hợp với Đồn thanh niên huyện, xã tổ chức và
khuyến khích thanh niên học nghề, đón đầu trong việc đào tạo nguồn lực lao
động phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.
- Mở hội thảo chuyên đề và dạy nghề tư nhân để vừa có định hướng đúng
vừa khuyến khích mở các lớp học nghề tư nhân ở các cơ sở sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong huyện.
- Chú trọng đúng mức đến việc dạy và học các nghề phục vụ cho việc
phát triển nền kinh tế nông nghiệp của địa phương như cơ khí nơng nghiệp, thú
22


y, khai thác chế biến nông sản, lâm sản, hải sản. Đồng thời khuyến khích dạy và
học các nghề kỹ thuật: điện dân dụng, điện lạnh, điện tử, vật liệu xây dựng, xây
dựng, mộc cao cấp...
- Trung tâm hướng nghiệp - dạy nghề phối hợp với trung tâm giáo dục
thường xuyên tổ chức việc phổ biến và tuyên truyền kỹ thuật sản xuất trong
nhân dân, phục vụ cho việc đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, chăn nuôi.
2.2.4. Chƣơng trình IV: Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên:
- Giáo viên mầm non: 100% giáo viên mầm non được đào tạo về nghiệp
vụ: phấn đấu năm 2000: 70% trở lên cơ ni dạy trẻ có trình độ tốt nghiệp

THPT, 50% cơ ni dạy trẻ có trình độ sơ cấp trở lên, 100% cơ mẫu giáo có
trình độ tốt nghiệp THPT, 80% cơ mẫu giáo có trình độ sơ cấp trở lên, trong đó
50% đạt chuẩn hố. Đảm bảo mức lương tối thiểu cho cô giáo mầm non là
120.000 đồng/ tháng. Được rút từ các nguồn:
+ Tỉnh trợ giúp

: 30.000 đồng

+ Huyện trợ giúp

: 15.000 đồng

+ Xã và cha mẹ các cháu : 75.000đồng.
- Giáo viên phổ thông các cấp:
+ Dự báo đúng kế hoạch hàng năm, phấn đấu đủ số lượng giáo viên ở bậc
tiểu học và THCS; từng bước sắp xếp hợp lý, tránh hiện tượng dạy chéo môn.
+ Mỗi trường tiểu học và THCS có giáo viên dạy ngoại ngữ, giáo viên
nhạc họa. Lập kế hoạch xin mở đào tạo giáo viên ngoại ngữ, nhạc họa theo địa
bàn bằng kinh phí tự túc.
+ Phấn đấu đến năm 2000: 100% giáo viên tiểu học và THCS đạt chuẩn,
trong đó có 20% đạt trên chuẩn.
Bằng các nguồn ngân sách của Nhà nước, địa phương, sự hỗ trợ của nhân
dân, đảm bảo có đủ nhà ở cho giáo viên nội trú, đủ phương tiện tối thiểu về
làm việc và sinh hoạt cho giáo viên nội trú, nhất là giáo viên nội trú vùng cao,
vùng xa.
23


- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở phịng huyện, ở trường học có tinh
thần trách nhiệm cao, có phẩm chất và năng lực đảm đang trách nhiệm trong

thời kỳ mới. 100% cán bộ quản lý đạt chuẩn của Bộ GD - ĐT quy định cả về
trình độ văn hố, nghiệp vụ quản lý, lý luận chính trị. Tăng cường cán bộ quản
lý là nữ, nhất là ở các trường tiểu học.
2.2.5. Chƣơng trình V: Xây dựng cơ sở vật chất trường học.
Xây dựng cơ sở vật chất trường học là điều kiện thiết yếu để nâng cao
chất lượng giáo dục tồn diện. “Phấn đấu từng bước xố tình trạng thiếu phịng
học, phịng học tạm để đến năm 2000 có 30% số trường tiểu học, THCS được
xây dựng nhà cao tầng, đủ phòng học cho học sinh tiểu học, học 2 buổi trên
lớp” [6, 4]. Xây dựng đầy đủ phịng ở cho giáo viên nội trú có tính giáo dục
cao, tính văn hố, đảm bảo cho giáo viên n tâm cơng tác.
2.2. 6. Chƣơng trình VI: Tổ chức vận động toàn dân tham gia xây dựng sự
nghiệp giáo dục.
- Mở đợt tuyên truyền nâng cao nhận thức sâu rộng trong tồn Đảng, tồn
dân về vị trí, nhiệm vụ của giáo dục trong tình hình mới. Mặt trận tổ quốc , các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
phải tích cực góp sức xây dựng sự nghiệp giáo dục. Mỗi gia đình phải xác định
rõ trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con em. Phải làm cho mọi người
trong gia đình, trong xã hội hiểu rõ học tập để thốt khỏi cảnh nghèo đói và phải
đầu tư cho việc học tập của con em. Phải giáo dục con em ý chí chịu khó, chịu
khổ để học tập và vươn lên học giỏi.
- Mỗi xã phải xây dựng được kế hoạch phát triển giáo dục dài hạn và
hàng năm đưa kế hoạch phát triển giáo dục vào trong kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương.

24


×